Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831)

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831)

á nước ngọt ở 93 ĐBSCL đã đẻ trứng. Trong khi đó liều tiêm cho cá dày ở thí nghiệm 1, 2, 3 bằng hoặc cao hơn nhưng vẫn không có tác dụng kích thích sự rụng trứng, đẻ trứng ở cá dày. Bởi vì, quá trình thành thục và đẻ trứng của cá chịu sự chi phối toàn diện của quá trình trao đổi chất trong cơ thể và được điều hòa bởi hệ thần kinh nội tiết, trong đó tuyến yên giữ vai trò trung tâm thông qua sự điều khiển của não bộ. Vì thế, việc xác định loại, liều lượng hiệu quả gây chín và rụng trứng ở cá do HCG, LH-RHa hoặc HCG kết hợp với não thùy là một vấn đề khá phức tạp đòi hỏi phải trải qua nhiều thí nghiệm thăm dò trên đối tượng mới. Qua nhiều nghiên cứu cho thấy ở những kích thích tố kích thích sinh sản khác nhau thì cũng cho kết quả sinh sản khác nhau và kích thích tố hiệu quả trên loài này lại không hiệu quả trên loài khác. Cho nên, đối với cá việc sinh sản phải dựa vào từng đối tượng và điều kiện cụ thể như mùa vụ, mức độ thành thục của cá bố mẹ, chất lượng nước, mà quyết định sử dụng loại, liều cũng như phương pháp tiêm các loại kích thích sinh sản khác nhau trên cá bố mẹ thì mới mang đến hiệu quả cao trong sinh sản. Kết quả nghiên cứu ở các thí nghiệm 1, 2, 3 đã chứng minh rằng sự sinh sinh của cá dày chịu tác động yếu tố sinh thái là chủ yếu, trong đó yếu tố pH được xem là quan trọng nhất. Giả thuyết này được chứng minh ở thí nghiệm 1, 2, 3 dưới tác động của HCG, LH-RHa+DOM và HCG + não thùy chỉ có một tỷ lệ thấp cá cái sinh sản, nhưng sức sinh sản rất thấp và trứng không thụ tinh. Như vậy, kích thích tố ở các thí nghiệm này có tác dụng gây rụng trứng. Trong khi đó vấn đề thành thục của trứng có thể liên quan tới sự hoạt động nội tiết của cơ thể. Nguyễn Tường Anh (1999) đã cho rằng sự chín trứng và rụng trứng là 2 quá trình hoàn toàn độc lập, nhưng phải diễn ra đồng thời, nếu quá trình này diễn ra không nhịp nhàng thì có thể trứng rụng quá sớm trong khi đó noãn bào chưa sẳn sàng cho quá trình thụ tinh. Như vậy, quá trình trứng chín, rụng trứng và thụ tinh ở cá dày rất có thể cần có sự hoạt động điều tiết kích thích của chính bản thân cá tác động tới tế bào trứng để duy trì hoạt động sống của tế bào. Riêng cá dày đực, ngoài đặc điểm thành thục sinh dục không đồng bộ với cá cái thì vấn đề sử dụng kích thích tố cũng như các biện pháp sinh thái để kích thích sự sinh tinh ở cá dày đực có sự khác biệt so với một số loài cá nước ngọt khác. Qua kết quả của các thí nghiệm cho thấy rõ kích thích tố đã sử dụng ở thí nghiệm 1, 2, 3 không có tác dụng tới sự tiết tinh trùng, trong khi đó ở các thí nghiệm 4 và thí nghiệm chính do thay đổi phương pháp tiêm kết hợp với sự thay đổi pH của nước nên đã có tác dụng. Trứng cá đẻ ra ở các thí nghiệm này đã thụ tinh và sức sinh sản của cá, tỷ lệ cá đẻ tăng lên rõ rệt. Biện pháp tiêm cá đực trước cá cái trong thí nghiệm 4 và thí nghiệm chính cũng là 1 94 giải pháp khắc phục tình trạng thành thục không đồng bộ ở cá dày. Như vậy, khi kích thích cá dày sinh sản, ngoài việc dùng kích thích tố như một số loài cá nước ngọt khác, thì yếu tố môi trường trong đó pH nước là vấn đề cần quan tâm. 4.8 Đặc điểm hình thái ống tiêu hóa của cá dày 2 đến 30 ngày tuổi 4.8.1 Mối liên hệ giữa độ mở miệng cá và kích cỡ con mồi Kích thước miệng cá là một trong những yếu tố hạn chế đối với việc bắt mồi của cá, cá có độ mở miệng nhỏ sẽ có tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với cá có độ mở miệng lớn hơn xét trong cùng một loài (Shirota, 1970). Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, (2009) các loài cá lúc mới nở sử dụng nguồn dinh dưỡng chủ yếu từ noãn hoàng, nhưng khi noãn hoàng gần hết thì buộc cá phải lựa chọn thức ăn bên ngoài môi trường để đáp ứng nhu cầu cho hoạt động sống của cơ thể, thức ăn ưa thích của cá bột trong thời gian này là các giống loài phiêu sinh động vật có kích thước nhỏ và di chuyển chậm. Kết quả nghiên cứu mối tương quan giữa ngày tuổi với độ mở miệng của cá dày được trình bày ở bảng 4.15. Bảng 4.15: Sự biến đổi chiều dài cơ thể và độ mở miệng cá (n=20). Ngày ương Chiều dài tổng (mm) Chiều dài hàm trên (mm) Độ mở miệng 90o (mm) 2 7,53±0,09 0,37+0,05 0,52+0,05 3 8,32±0,17 0,40+0,07 0,57+0,06 4 8,56±0,14 0,44+0,08 0,62+0,09 5 8,74±0,12 0,51+0,10 0,72+0,06 6 9,21±0,16 0,52+0,10 0,74+0,08 9 12,6±0,09 0,55+0,05 0,78+0,07 12 15,7±0,06 0,60+0,07 0,85+0,09 15 18,4±0,83 0,95+0,12 1,34+0,15 18 21,4±0,12 1,13+0,12 1,60+0,17 21 23,8±1,15 1,36+0,13 1,92+0,10 24 25,2±1,42 1,58+0,08 2,23+0,12 27 27,8±0,18 1,72+0,18 2,43+0,14 30 29,6±0,14 1,97+0,31 2,79+0,16 Ghi chú: Các giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn 95 Qua Bảng 4.15 cho thấy có mối tương quan thuận giữa ngày tuổi với độ mở miệng của cá, tức là cá càng lớn, độ mở miệng càng tăng. Điều này có liên quan tới kích cỡ con mồi cá bắt và ăn được trong môi trường nước. Đối với cá dày sau khi nở khoảng từ 2-4 ngày, cá chỉ có thể bắt sinh vật có kích thước nhỏ như luân trùng (Rotifer), ấu trùng Naupli làm thức ăn. Sau thời kỳ này, độ mở miệng cá tăng, phiêu sinh động vật có cỡ lớn như Cladocera, Copepoda sẽ là thức ăn ưa thích của cá. Nếu so sánh độ mở miệng (cùng 4 ngày tuổi) của cá dày với một số loài cá có tính ăn tương tự thì độ mở miệng (0,62mm) của cá dày lớn hơn so với độ mở miệng của cá chạch lấu: 0,48mm (Lê Thị Xuân Thanh, 2014) nhưng nhỏ hơn độ mở miệng của cá vồ đém (1,29mm) (Nguyễn Thị Đài Trang, 2013). Nếu so sánh tỷ lệ tăng độ mở miệng và tỷ lệ tăng chiều dài thì rất dễ nhận thấy, tỷ lệ tăng độ mở miệng của cá nhanh hơn so với tỷ lệ tăng chiều dài. Cụ thể chiều dài của cá ở 15 ngày tuổi so với 2 ngày tuổi tăng 2,43 lần, trong khi đó độ mở miệng gấp 2,57 lần, tức là hai tỷ số này gần tương đương nhau. Nhưng tới 30 ngày tuổi thì độ mở miệng của cá gấp 5,3 lần trong khi đó chiều dài của cá chỉ tăng gấp 3,9 lần so với cá 2 ngày tuổi. Điều này gắn với kích thước con mồi cá bắt làm thức ăn tăng khá nhanh trong môi trường. Thực tế ương một số loài trong họ cá lóc cũng ghi nhận, cá “rồng rồng” sau khoảng 10-15 ngày tuổi có thể bắt tép nhỏ, cá con làm thức ăn. 4.8.2 Tỷ lệ giữa chiều dài ruột và chiều dài thân cá dày bột (RLG) Chỉ số được sử dụng để xác định tính ăn của cá là giá trị RLG thể hiện tương quan giữa chiều dài ruột trên chiều dài thân (Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004). Kết quả khảo sát RLG của cá dày bột ương trong bể trong 30 ngày bằng thức ăn tự nhiên được trình bày trong Bảng 4.16. Qua Bảng 4.16 cho thấy ống tiêu hóa của cá dày trong giai đoạn cá bột lên cá hương biến động không lớn và tăng dần theo ngày tuổi (dao động trong khoảng 0,44-0,67), và chỉ số RLG của cá dày trong thời kỳ này nhỏ hơn 1 (RLG < 1). Như vậy, trong giai đoạn 1 tháng tuổi có thể xếp cá dày vào nhóm cá ăn động vật (được trình bày tại nội dung sự lựa chọn thức ăn của cá ở mục 4.8) vì theo Nikolsky (1963) những loài cá có tính ăn thiên về động vật sẽ có tỷ lệ chiều dài ruột so với chiều dài thân nhỏ hơn 1 . 96 Bảng 4.16: Tỷ lệ chiều dài ruột và chiều dài của cá dày mới nở đến 30 ngày Ngày tuổi Chiều dài tổng (L) (mm) Chiều dài ruột (Li) (mm) Li/Lt 3 8,32±0,17 3,86±0,08 0,46±0,006 4 8,56±0,14 4,01±0,09 0,47±0,011 5 8,74±0,12 4,26±0,05 0,48±0,006 6 9,21±0,16 4,61±0,04 0,49±0,010 9 12,6±0,09 6,21±0,05 0,50±0,009 12 15,7±0,06 7,82±0,04 0,50±0,013 15 18,3±0,83 9,51±0,07 0,52±0,007 18 21,4±0,12 11,3±0,03 0,53±0,013 21 23,8±0,15 13,6±0,01 0,57±0,004 24 25,2±0,12 15,8±0,06 0,63±0,007 27 27,8±0,18 17,8±0,08 0,64±0,014 30 29,6±0,14 19,7±0,05 0,67±0,012 Chỉ số RLG của cá dày cũng tương tự chỉ số RLG của cá lóc đen, cá lóc bông (Dương Nhựt Long, 2003, Nguyễn Anh Tuấn và ctv., 2004) và cá kết (Trần Ngọc Tuyền, 2008) đều có chỉ số RLG <1. Trong quá trình tăng trưởng, ống tiêu hóa của cá sẽ gia tăng chiều dài và gia tăng nếp gấp để giúp cá tiêu hóa và hấp thu các vật chất có nguồn gốc thực vật, điều này có thể dẫn đến gia tăng giá trị RLG. 4.8.3 Sự phát triển về hình thái ống tiêu hóa Phần lớn các loài cá đều thích nghi với một vài loại thức ăn cụ thể, tương ứng với sự thay đổi thành phần thức ăn trong quá trình phát triển cơ thể thì cấu tạo của các cơ quan tiêu hóa cũng thay đổi (Nikolsky, 1963). Điều đó cho thấy sự thay đổi hệ thống tiêu hóa của cá tùy thuộc vào quá trình phát triển ở các giai đoạn. Ống tiêu hóa của cá được phát sinh từ các tế bào nội bì hình trụ nằm trên khối noãn hoàng. Khi cá mới nở đến bắt đầu ăn thức ăn ngoài thì từng phần ống tiêu hóa được phân hóa nhưng ngay lúc này cá vẫn chưa có dạ dày (Govoni et al., 1986 trích bởi Lục Minh Diệp, 2009). Đối với cá dày, những ngày đầu sau khi nở cá sống hoàn toàn nhờ vào noãn hoàng, thời điểm này ống tiêu hóa cấu tạo đơn giản, chỉ là một đoạn hình ống thẳng, nằm sát xương sống, chưa phân hóa thành thực quản, dạ dày và lúc này hậu môn còn đóng (Hình 4.27a). Sau 72 giờ (độ mở miệng 0,57 mm) thì 97 ống tiêu hóa đã phân hóa thành thực quản, dạ dày, ruột và cá bắt đầu bắt thức ăn ngoài môi trường. Vào ngày tuổi thứ 4 (độ mở miệng 0,62 mm) noãn hoàng đã tiêu biến gần hết, đoạn cuối của thực quản phình to để hình thành dạ dày, ruột bắt đầu gấp khúc từng đoạn. Như vậy, quá trình phát triển ống tiêu hóa của cá dày trong 4 ngày đầu sau khi nở cũng tương tự như một số loài cá khác: ở cá măng vào ngày thứ 4-5 (Ferraris et al., 1987), vào ngày thứ 3-4 ở cá rô biển (Phan Phương Loan, 2014), và cá chạch lấu (Lê Thị Xuân Thanh, 2014). Từ sau ngày thứ 5 – 10 ngày tuổi: dạ dày gia tăng kích thước có dạng túi rỗng, vách dày và có kiểu hình chữ U. Ruột có khuynh hướng tăng số lần gấp khúc.Theo Đỗ Thị Thanh Hương và Nguyễn Văn Tư (2010), Nikolsky (1963) thì hình thái dạ dày của đa số cá ở giai đoạn nhỏ thường có dạng chữ U hoặc là chữ V, ruột cá thẳng và ngắn ở giai đoạn cá bột và dài ra ở cá hương. Đó là đặc điểm ống tiêu hóa của cá ăn động vật. điều này cũng phù hợp với nhận định. Ngoài những đặc điểm trên, trong khoảng thời gian này còn xuất hiện nếp gấp niêm mạc trên thành ruột và dạ dày và hình thành nếp gấp nối giữa dạ dày và ruột trước. Nhìn chung, hình thái ống tiêu hóa của cá tương đối hoàn chỉnh khi cá được khoảng 10 tuổi (Hình 4.27b). Ngày thứ 20 hình thái ống tiêu hóa của cá có sự biến đổi như việc xuất hiện dạ dày hình túi rõ ràng hơn về cấu trúc, chiều dài ruột tăng làm ruột gấp Hình 4.27: a) Cá dày mới nở. b) Ống tiêu hóa cá 10 ngày tuổi, c) Ống tiêu hóa cá 20 ngày tuổi, d) Ống tiêu hóa cá 30 ngày tuổi a b c d Manh tràng Ruột Dạ dày T. quản 98 khúc thành nhiều đoạn xếp song song nhau trong khoang bụng, 2 manh tràng xuất hiện nhưng còn rất nhỏ (Hình 4.27c). Ngày tuổi thứ 30 hình thái ống tiêu hóa của cá dày có sự gia tăng nhanh kích thước theo chiều ngang của dạ dày và ruột có vách dày hơn giai đoạn trước, 2 manh tràng xuất hiện như cá trưởng thành (Hình 4.27d). Nhìn chung, thời gian để cá dày hoàn thiện về chức năng, hình thái ống tiêu hóa cũng tương đương với một số loài cá khác như cá chạch lấu hoàn thiện ống tiêu hóa ở vào ngày tuổi 21 (Lê Thị Xuân Thanh, 2014), cá rô biển vào ngày thứ 20 (Phan Phương Loan, 2014), Pseudocianea crocea các tuyến dịch vị xuất hiện đầu tiên khi cá đạt 21 ngày tuổi (Mai et al., 2005). 4.8.4 Đặc điểm mô học của ống tiêu hóa cá dày Những ngày đầu mới nở, lúc này ống tiêu hóa của cá dày bột chưa phân biệt rõ các phần chức năng của ống tiêu hóa, chỉ là một ống thẳng nằm sát xương sống và bắt màu thuốc nhuộm Haemotoxylin, noãn hoàng bắt màu Eosin, nhưng khi cá được 4 ngày tuổi có thể quan sát mô học ống tiêu hóa của cá sau khi nhuộm như sau: a) Khoang miệng Giai đoạn cá 4 ngày tuổi, có thể phân biệt rõ xoang miệng với các cơ quan khác trong ống tiêu hóa của cá. Xoang miệng của cá được cấu tạo gồm một lớp mỏng các biểu mô hình vẩy đơn phân lớp. Ngày tuổi thứ 5 thì xuất hiện các tế bào tiết chất nhầy và chồi vị giác (Hình 4.28). Sự xuất hiện của các tế bào tiết chất nhầy và chồi vị giác ở cá dày bột muộn hơn so với cá bống tượng (Phạm Thanh Liêm và ctv., 2002). Theo nhóm tác giả này thì ống tiêu hóa cá bống tượng (O.marmoratus) vào ngày thứ 3 sau khi nở các tế bào tiết chất nhầy và chồi vị giác đã xuất hiện. Hình 4.28: Khoang miệng cá bột 5 ngày tuổi (10X): a) Niêm mạc; b) xoang miệng; c) Thực quản a b c 99 b) Thực quản Ở Hình 4.29 cho thấy thực quản nằm tiếp theo sau khoang miệng và cùng với việc xuất hiện các sản phẩm tiết chất nhầy từ các tế bào biểu mô. Thực quản cấu tạo dạng ống, vách thực quản dầy có cấu tạo bởi lớp ngoài là màng bao mô liên kết, lớp giữa lớp cơ vân, lớp trong cùng là màng nhầy và bắt đầu gấp nếp vào ngày thứ 4. Sự thay đổi của thực quản bằng biểu hiện của sự gia tăng các nếp gấp của lớp niêm mạc, số lượng của các tế bào hình cốc bằng cách sắp xếp các biểu mô dọc theo thành thực quản thể hiện rõ ở cá 14 ngày tuổi (Hình 4.29). Sự hình thành một số tổ chức trong thực quản cá dày 4 ngày tuổi cũng tương tự như sự hình thành các tổ chức này trong thực quản cá da trơn châu Âu. Theo Kozaric et al., (2008), thực quản của cá da trơn châu Âu (Silurus glanis) có thể phân biệt được khi cá 4 ngày tuổi và thực quản của cá Silurus glanis là ống ngắn, hẹp và được bao phủ bởi các tế bào biểu mô chứa số lượng lớn các tế tiết chất nhầy hình cầu. Baglole et al., (1997) cho biết, hệ thống tiêu hóa của cá bơn (Pleuronectes ferruginea) bột sau 7 ngày tuổi mới có thể phân biệt được thực quản. Cấu tạo thực quản của cá dày tương tự như cá ngát theo mô tả của Nguyễn Bạch Loan (2012), thực quản cá ngát nằm tiếp sau xoang miệng hầu, vách thực quản dày, gấp nếp và được cấu tạo bởi 3 phần là màng bao bên ngoài, giữa là lớp cơ trơn và trong cùng là lớp niêm mạc xen kẽ bên dưới các tế bào biểu mô là các tế bào tiết dịch nhầy giúp thức ăn dễ dàng đi qua thực quản. Hình 4.29: Lát cắt ngang thực quản cá dày 14 ngày tuổi (40X); a) Khoang thực quản; b) Tế bào dạng cốc; c) nếp gấp a c b 100 c) Dạ dày Dạ dày được hình thành vào ngày tuổi thứ 4 do một phần ống tiêu hóa phình to ra. Nhưng do cá bắt đầu chuyển sang ăn thức ăn ngoài nên dạ dày chưa phát triển cả về cấu trúc và chức năng. Cấu tạo dạ dày rất đơn giản, chỉ là một lớp đơn các tế bào biểu mô hình trụ và chưa xuất hiện các tuyến dạ dày. Cá 14 ngày tuổi, dạ dày của cá có vách dầy và cấu tạo gồm 4 lớp là màng ngoài, lớp cơ trơn, lớp dưới niêm mạc và lớp niêm mạc và xuất hiện tuyến dạ dày. Các nếp gấp có thành phần cấu tạo là mô liên kết xốp và có nhiều mao mạch. Tiếp theo niêm mạc là lớp dưới niêm mạc, lớp này được cấu tạo từ các sợi mô liên kết thưa và một lượng lớn các mạch máu phân bố (Hình 4.30). Cấu tạo dạ dày của cá dày trong giai đoạn đầu hình thành cũng tương tự như một số cá khác như: Theo Phạm Thanh Liêm và ctv (2002), ở cá bống tượng khi bắt đầu hình thành dạ dày thì lớp niêm mạc chỉ là lớp đơn các tế bào biểu mô hình trụ nằm dưới một lớp mỏng và không chặt chẽ của lớp màng đệm (Propria-submucosa). Ở cá ngát, vách dạ dày có 3 lớp là màng bao mô liên kết ở ngoài cùng, giữa là lớp cơ trơn dày xếp thành hai dạng là cơ dọc bên trong và cơ vòng bên ngoài, trong cùng là phần niêm mạc (Nguyễn Bạch Loan, 2012). Hình 4.30 cho thấy cấu trúc dạ dày cũng từng bước hoàn thiện thể hiện theo giai đoạn phát triển cơ thể và được thể hiện qua việc xuất hiện tuyến dạ Hình 4.30: Hình cắt ngang dạ dày của cá 14 ngày tuổi (40X): a) khoang dạ dày; b) lớp niêm mạc; c) lớp dưới niêm mạc; d) lớp cơ trơn; e) lớp màng bao mô liên kết. e b c d a 101 dày và số lượng nếp gấp ở các cơ quan tiêu hóa. Tuy nhiên, ở cá 20 ngày tuổi, hình thái dạ dày có dạng hình túi tương đối to, quan sát tiêu bản mô của dạ dày ở giai đoạn này mới có thể thấy rõ ràng dạ dày chia làm 2 phần đó là dạ dày tuyến và dạ dày cơ. Tuyến dạ dày có dạng ống thẳng, là những tế bào tuyến có hình hơi tròn, có nhiều xoang mao mạch và mạch máu và là một phần quan trọng của dạ dày. Chúng giữ vai trò rất quan trọng trong việc tiết ra dịch hỗ trợ dạ dày tiêu hóa thức ăn. Sự hình thành tuyến dạ dày là đặc điểm đánh dấu sự phát triển hoàn chỉnh của hệ tiêu hóa ở giai đoạn cá bột (Hình 4.31, 4.32, 4.33). Sự hình thành và phát triển dạ dày của cá dày bột cũng tương tự như cá măng (Ferraris et al., 1987), cá nâu (Lý Văn Khánh, 2012), và cá Pseudosciaena crocea (Mai et al.,2005) có thể phân biệt được dạ dày với các phần khác của ống tiêu hóa của cá vào ngày tuổi thứ 4 và tuyến dạ dày hoàn chỉnh vào ngày tuổi thứ 20. b d e a c Hình 4.31: Hình cắt dọc cá bột 20 ngày tuổi (4X): a) Xoang miệng; (b) Thực Quản; c) Dạ dày; d) Ruột; e) Nếp gấp. (hình này để ở đây không phù hợp b c Hình 4.32: Hình cắt ngang dạ dày của cá 20 ngày tuổi 10X): a) khoang dạ dày; b) Da dày cơ; c) Tuyến dạ dày. a 102 d) Ruột cá Ruột cá dày mới nở là một ống thẳng chưa phân hóa, quan sát tiêu bản mô học của ống tiêu hóa có thể phân biệt ở ngày tuổi thứ 4. Ruột có cấu tạo gồm một lớp đơn các tế bào biểu mô hình trụ được xếp dọc trên một lớp màng mỏng theo chiều dài của ruột. Lớp biểu mô ruột của cá bắt đầu xuất hiện nếp gấp vào ngày tuổi thứ 4 và xuất hiện không bào lipid vào ngày tuổi thứ 7 (Hình 4.34). Kết quả nghiên cứu nếp gấp của ruột cá dày phát triển chậm hơn so với cá chạch lấu có nếp gấp ở ngày tuổi thứ 4 (Lê Thị Xuân Thanh, 2014). Theo tác giả này, thì lớp biểu mô ruột bắt đầu gấp nếp ở ngày tuổi thứ 2 và độ dày của lớp biểu mô gia tăng cùng với tuổi của cá. Bên cạnh sự gia tăng tuổi thì cấu trúc thành ruột từng bước hoàn chỉnh, kết quả nghiên cứu trên cá dày cho thấy không bào lipid cũng đã xuất hiện ở ngày tuổi thứ 7 và cá ở ngày tuổi thứ 14 thì các không bào lipid đã phát triển là bằng chứng mô học của quá trình tiêu hóa và hấp thụ lipid của ruột (Hình 4.35). Sự xuất hiện không bào lipid trên cá dày trong nghiên cứu này chậm Hình 4.34: Lát cắt dọc ruột cá 7 ngày tuổi (40X): a) Không bào lipid; b) Nếp gấp A B Hình 4.33: Cắt ngang dạ dày của cá 20 ngày tuổi (40X): a) khoang dạ dày; b) Tuyến dạ dày. a b 103 hơn một số loài cá khác như cá bống tượng (Phạm Thanh Liêm và ctv., 2002). Theo nhóm nghiên cứu này thì không bào lipid của cá bống tượng xuất hiện rất sớm ở ruột sau (ngày thứ 3) và ở ruột giữa vào ngày thứ 7; cá trê (Clarias nieuhofii) vào ngày thứ 4 (Taweesin Saelee, 2011) và nhanh hơn so với cá nâu vào ngày thứ 15 (Lý Văn Khánh, 2012). Tóm lại, ống tiêu hóa của cá dày được hình thành sớm và phát triển hoàn chỉnh nhanh. Ống tiêu hóa của cá dày bột mới nở là một đoạn thẳng, giai đoạn 4 ngày tuổi có thể phân biệt được các cơ quan trong ống tiêu hóa như thực quản, dạ dày, ruột,Ống tiêu hóa của cá dày vào thời điểm cá 14 ngày tuổi đã xuất hiện tuyến dạ dày và tuyến này phát triển hoàn chỉnh vào ở ngày tuổi thứ 20. Đây là thời điểm hệ tiêu hóa cá dày hoàn chỉnh, ngoài việc cá có thể bắt thức ăn tươi sống có kích thước lớn thì cá còn có khả nằng ăn thức chế biến. 4.9 Lựa chọn thức ăn của cá dày ở giai đoạn cá 2 đến 30 ngày tuổi 4.9.1 Thành phần phiêu sinh trong môi trường ao ương Kết quả khảo sát thành phần phiêu sinh có trong môi trường cho thấy phiêu sinh thực vật 4 ngành có 35 giống, trong đó ngành tảo lục (Chlorophyta) có 20 giống, tảo lam (Cyanophyta) có 3 giống, tảo khuê (Bacillariophyta) có 9 giống và tảo mắt (Euglenophyta) có 3 giống. Phiêu sinh Động vật có 4 ngành gồm 21 giống, trong đó Protozoa có 4 giống, Rotifers có 8 giống, Cladocera có 4 giống, Copepoda có 5 giống (Bảng phụ lục 17.1 và 17.2). Thành phần Hình 4.35: Lát cắt dọc ruột cá 14 ngày tuổi (40X): a) Không bào lipid; b) Nếp gấp; c) Thể vùi protein a b c 104 phiêu sinh động vật xuất hiện trong ao gần như ổn định trong suốt thời gian thí nghiệm. Mật độ phiêu sinh động vật dao động 750.000-4.602.667 cá thể/m3. Quần thể chiếm ưu thế là Cladocera là 1.137.500 cá thể/m3 trong đó Moina h
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_dac_diem_sinh_hoc_va_ky_thuat_sinh_san_ca.pdf
Tomtatluanan-en.pdf
Tomtatluanan-vi.pdf
Trangthongtinluanan-en.doc
Trangthongtinluanan-vi.doc