Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831)

Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831) trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831) trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831) trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831) trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831) trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831) trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831) trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831) trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831) trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831) trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 263 trang nguyenduy 09/10/2025 100
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831)

Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa lucius Cuvier 1831)
á nước ngọt ở 
93 
ĐBSCL đã đẻ trứng. Trong khi đó liều tiêm cho cá dày ở thí nghiệm 1, 2, 3 
bằng hoặc cao hơn nhưng vẫn không có tác dụng kích thích sự rụng trứng, đẻ 
trứng ở cá dày. Bởi vì, quá trình thành thục và đẻ trứng của cá chịu sự chi phối 
toàn diện của quá trình trao đổi chất trong cơ thể và được điều hòa bởi hệ thần 
kinh nội tiết, trong đó tuyến yên giữ vai trò trung tâm thông qua sự điều khiển 
của não bộ. Vì thế, việc xác định loại, liều lượng hiệu quả gây chín và rụng 
trứng ở cá do HCG, LH-RHa hoặc HCG kết hợp với não thùy là một vấn đề 
khá phức tạp đòi hỏi phải trải qua nhiều thí nghiệm thăm dò trên đối tượng 
mới. Qua nhiều nghiên cứu cho thấy ở những kích thích tố kích thích sinh sản 
khác nhau thì cũng cho kết quả sinh sản khác nhau và kích thích tố hiệu quả 
trên loài này lại không hiệu quả trên loài khác. Cho nên, đối với cá việc sinh 
sản phải dựa vào từng đối tượng và điều kiện cụ thể như mùa vụ, mức độ 
thành thục của cá bố mẹ, chất lượng nước,  mà quyết định sử dụng loại, liều 
cũng như phương pháp tiêm các loại kích thích sinh sản khác nhau trên cá bố 
mẹ thì mới mang đến hiệu quả cao trong sinh sản. 
Kết quả nghiên cứu ở các thí nghiệm 1, 2, 3 đã chứng minh rằng sự sinh 
sinh của cá dày chịu tác động yếu tố sinh thái là chủ yếu, trong đó yếu tố pH 
được xem là quan trọng nhất. Giả thuyết này được chứng minh ở thí nghiệm 1, 
2, 3 dưới tác động của HCG, LH-RHa+DOM và HCG + não thùy chỉ có một 
tỷ lệ thấp cá cái sinh sản, nhưng sức sinh sản rất thấp và trứng không thụ tinh. 
Như vậy, kích thích tố ở các thí nghiệm này có tác dụng gây rụng trứng. Trong 
khi đó vấn đề thành thục của trứng có thể liên quan tới sự hoạt động nội tiết 
của cơ thể. Nguyễn Tường Anh (1999) đã cho rằng sự chín trứng và rụng 
trứng là 2 quá trình hoàn toàn độc lập, nhưng phải diễn ra đồng thời, nếu quá 
trình này diễn ra không nhịp nhàng thì có thể trứng rụng quá sớm trong khi đó 
noãn bào chưa sẳn sàng cho quá trình thụ tinh. Như vậy, quá trình trứng chín, 
rụng trứng và thụ tinh ở cá dày rất có thể cần có sự hoạt động điều tiết kích 
thích của chính bản thân cá tác động tới tế bào trứng để duy trì hoạt động sống 
của tế bào. 
Riêng cá dày đực, ngoài đặc điểm thành thục sinh dục không đồng bộ với 
cá cái thì vấn đề sử dụng kích thích tố cũng như các biện pháp sinh thái để 
kích thích sự sinh tinh ở cá dày đực có sự khác biệt so với một số loài cá nước 
ngọt khác. Qua kết quả của các thí nghiệm cho thấy rõ kích thích tố đã sử 
dụng ở thí nghiệm 1, 2, 3 không có tác dụng tới sự tiết tinh trùng, trong khi đó 
ở các thí nghiệm 4 và thí nghiệm chính do thay đổi phương pháp tiêm kết hợp 
với sự thay đổi pH của nước nên đã có tác dụng. Trứng cá đẻ ra ở các thí 
nghiệm này đã thụ tinh và sức sinh sản của cá, tỷ lệ cá đẻ tăng lên rõ rệt. Biện 
pháp tiêm cá đực trước cá cái trong thí nghiệm 4 và thí nghiệm chính cũng là 1 
94 
giải pháp khắc phục tình trạng thành thục không đồng bộ ở cá dày. 
Như vậy, khi kích thích cá dày sinh sản, ngoài việc dùng kích thích tố 
như một số loài cá nước ngọt khác, thì yếu tố môi trường trong đó pH nước là 
vấn đề cần quan tâm. 
4.8 Đặc điểm hình thái ống tiêu hóa của cá dày 2 đến 30 ngày tuổi 
4.8.1 Mối liên hệ giữa độ mở miệng cá và kích cỡ con mồi 
Kích thước miệng cá là một trong những yếu tố hạn chế đối với việc bắt 
mồi của cá, cá có độ mở miệng nhỏ sẽ có tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với 
cá có độ mở miệng lớn hơn xét trong cùng một loài (Shirota, 1970). Theo 
Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, (2009) các loài cá lúc mới nở sử 
dụng nguồn dinh dưỡng chủ yếu từ noãn hoàng, nhưng khi noãn hoàng gần hết 
thì buộc cá phải lựa chọn thức ăn bên ngoài môi trường để đáp ứng nhu cầu 
cho hoạt động sống của cơ thể, thức ăn ưa thích của cá bột trong thời gian này 
là các giống loài phiêu sinh động vật có kích thước nhỏ và di chuyển chậm. 
Kết quả nghiên cứu mối tương quan giữa ngày tuổi với độ mở miệng của 
cá dày được trình bày ở bảng 4.15. 
Bảng 4.15: Sự biến đổi chiều dài cơ thể và độ mở miệng cá (n=20). 
Ngày ương 
Chiều dài tổng 
(mm) 
Chiều dài hàm trên 
(mm) 
Độ mở miệng 90o 
(mm) 
2 7,53±0,09 0,37+0,05 0,52+0,05 
3 8,32±0,17 0,40+0,07 0,57+0,06 
4 8,56±0,14 0,44+0,08 0,62+0,09 
5 8,74±0,12 0,51+0,10 0,72+0,06 
6 9,21±0,16 0,52+0,10 0,74+0,08 
9 12,6±0,09 0,55+0,05 0,78+0,07 
12 15,7±0,06 0,60+0,07 0,85+0,09 
15 18,4±0,83 0,95+0,12 1,34+0,15 
18 21,4±0,12 1,13+0,12 1,60+0,17 
21 23,8±1,15 1,36+0,13 1,92+0,10 
24 25,2±1,42 1,58+0,08 2,23+0,12 
27 27,8±0,18 1,72+0,18 2,43+0,14 
30 29,6±0,14 1,97+0,31 2,79+0,16 
Ghi chú: Các giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn 
95 
Qua Bảng 4.15 cho thấy có mối tương quan thuận giữa ngày tuổi với độ 
mở miệng của cá, tức là cá càng lớn, độ mở miệng càng tăng. Điều này có liên 
quan tới kích cỡ con mồi cá bắt và ăn được trong môi trường nước. Đối với cá 
dày sau khi nở khoảng từ 2-4 ngày, cá chỉ có thể bắt sinh vật có kích thước 
nhỏ như luân trùng (Rotifer), ấu trùng Naupli làm thức ăn. Sau thời kỳ này, độ 
mở miệng cá tăng, phiêu sinh động vật có cỡ lớn như Cladocera, Copepoda sẽ 
là thức ăn ưa thích của cá. Nếu so sánh độ mở miệng (cùng 4 ngày tuổi) của cá 
dày với một số loài cá có tính ăn tương tự thì độ mở miệng (0,62mm) của cá 
dày lớn hơn so với độ mở miệng của cá chạch lấu: 0,48mm (Lê Thị Xuân 
Thanh, 2014) nhưng nhỏ hơn độ mở miệng của cá vồ đém (1,29mm) (Nguyễn 
Thị Đài Trang, 2013). 
Nếu so sánh tỷ lệ tăng độ mở miệng và tỷ lệ tăng chiều dài thì rất dễ 
nhận thấy, tỷ lệ tăng độ mở miệng của cá nhanh hơn so với tỷ lệ tăng chiều 
dài. Cụ thể chiều dài của cá ở 15 ngày tuổi so với 2 ngày tuổi tăng 2,43 lần, 
trong khi đó độ mở miệng gấp 2,57 lần, tức là hai tỷ số này gần tương đương 
nhau. Nhưng tới 30 ngày tuổi thì độ mở miệng của cá gấp 5,3 lần trong khi đó 
chiều dài của cá chỉ tăng gấp 3,9 lần so với cá 2 ngày tuổi. Điều này gắn với 
kích thước con mồi cá bắt làm thức ăn tăng khá nhanh trong môi trường. Thực 
tế ương một số loài trong họ cá lóc cũng ghi nhận, cá “rồng rồng” sau khoảng 
10-15 ngày tuổi có thể bắt tép nhỏ, cá con làm thức ăn. 
4.8.2 Tỷ lệ giữa chiều dài ruột và chiều dài thân cá dày bột (RLG) 
Chỉ số được sử dụng để xác định tính ăn của cá là giá trị RLG thể hiện 
tương quan giữa chiều dài ruột trên chiều dài thân (Phạm Thanh Liêm và Trần 
Đắc Định, 2004). Kết quả khảo sát RLG của cá dày bột ương trong bể trong 30 
ngày bằng thức ăn tự nhiên được trình bày trong Bảng 4.16. 
Qua Bảng 4.16 cho thấy ống tiêu hóa của cá dày trong giai đoạn cá bột 
lên cá hương biến động không lớn và tăng dần theo ngày tuổi (dao động trong 
khoảng 0,44-0,67), và chỉ số RLG của cá dày trong thời kỳ này nhỏ hơn 1 
(RLG < 1). Như vậy, trong giai đoạn 1 tháng tuổi có thể xếp cá dày vào nhóm 
cá ăn động vật (được trình bày tại nội dung sự lựa chọn thức ăn của cá ở mục 
4.8) vì theo Nikolsky (1963) những loài cá có tính ăn thiên về động vật sẽ có 
tỷ lệ chiều dài ruột so với chiều dài thân nhỏ hơn 1 . 
96 
Bảng 4.16: Tỷ lệ chiều dài ruột và chiều dài của cá dày mới nở đến 30 ngày 
Ngày tuổi Chiều dài tổng (L) 
 (mm) 
Chiều dài ruột (Li) 
(mm) 
Li/Lt 
3 8,32±0,17 3,86±0,08 0,46±0,006 
4 8,56±0,14 4,01±0,09 0,47±0,011 
5 8,74±0,12 4,26±0,05 0,48±0,006 
6 9,21±0,16 4,61±0,04 0,49±0,010 
9 12,6±0,09 6,21±0,05 0,50±0,009 
12 15,7±0,06 7,82±0,04 0,50±0,013 
15 18,3±0,83 9,51±0,07 0,52±0,007 
18 21,4±0,12 11,3±0,03 0,53±0,013 
21 23,8±0,15 13,6±0,01 0,57±0,004 
24 25,2±0,12 15,8±0,06 0,63±0,007 
27 27,8±0,18 17,8±0,08 0,64±0,014 
30 29,6±0,14 19,7±0,05 0,67±0,012 
Chỉ số RLG của cá dày cũng tương tự chỉ số RLG của cá lóc đen, cá lóc 
bông (Dương Nhựt Long, 2003, Nguyễn Anh Tuấn và ctv., 2004) và cá kết 
(Trần Ngọc Tuyền, 2008) đều có chỉ số RLG <1. Trong quá trình tăng trưởng, 
ống tiêu hóa của cá sẽ gia tăng chiều dài và gia tăng nếp gấp để giúp cá tiêu 
hóa và hấp thu các vật chất có nguồn gốc thực vật, điều này có thể dẫn đến gia 
tăng giá trị RLG. 
 4.8.3 Sự phát triển về hình thái ống tiêu hóa 
Phần lớn các loài cá đều thích nghi với một vài loại thức ăn cụ thể, tương 
ứng với sự thay đổi thành phần thức ăn trong quá trình phát triển cơ thể thì cấu 
tạo của các cơ quan tiêu hóa cũng thay đổi (Nikolsky, 1963). Điều đó cho thấy 
sự thay đổi hệ thống tiêu hóa của cá tùy thuộc vào quá trình phát triển ở các 
giai đoạn. Ống tiêu hóa của cá được phát sinh từ các tế bào nội bì hình trụ nằm 
trên khối noãn hoàng. Khi cá mới nở đến bắt đầu ăn thức ăn ngoài thì từng 
phần ống tiêu hóa được phân hóa nhưng ngay lúc này cá vẫn chưa có dạ dày 
(Govoni et al., 1986 trích bởi Lục Minh Diệp, 2009). 
Đối với cá dày, những ngày đầu sau khi nở cá sống hoàn toàn nhờ vào 
noãn hoàng, thời điểm này ống tiêu hóa cấu tạo đơn giản, chỉ là một đoạn hình 
ống thẳng, nằm sát xương sống, chưa phân hóa thành thực quản, dạ dày và lúc 
này hậu môn còn đóng (Hình 4.27a). Sau 72 giờ (độ mở miệng 0,57 mm) thì 
97 
ống tiêu hóa đã phân hóa thành thực quản, dạ dày, ruột và cá bắt đầu bắt thức 
ăn ngoài môi trường. Vào ngày tuổi thứ 4 (độ mở miệng 0,62 mm) noãn hoàng 
đã tiêu biến gần hết, đoạn cuối của thực quản phình to để hình thành dạ dày, 
ruột bắt đầu gấp khúc từng đoạn. Như vậy, quá trình phát triển ống tiêu hóa 
của cá dày trong 4 ngày đầu sau khi nở cũng tương tự như một số loài cá khác: 
ở cá măng vào ngày thứ 4-5 (Ferraris et al., 1987), vào ngày thứ 3-4 ở cá rô 
biển (Phan Phương Loan, 2014), và cá chạch lấu (Lê Thị Xuân Thanh, 2014). 
Từ sau ngày thứ 5 – 10 ngày tuổi: dạ dày gia tăng kích thước có dạng túi 
rỗng, vách dày và có kiểu hình chữ U. Ruột có khuynh hướng tăng số lần gấp 
khúc.Theo Đỗ Thị Thanh Hương và Nguyễn Văn Tư (2010), Nikolsky (1963) 
thì hình thái dạ dày của đa số cá ở giai đoạn nhỏ thường có dạng chữ U hoặc là 
chữ V, ruột cá thẳng và ngắn ở giai đoạn cá bột và dài ra ở cá hương. Đó là 
đặc điểm ống tiêu hóa của cá ăn động vật. điều này cũng phù hợp với nhận 
định. Ngoài những đặc điểm trên, trong khoảng thời gian này còn xuất hiện 
nếp gấp niêm mạc trên thành ruột và dạ dày và hình thành nếp gấp nối giữa dạ 
dày và ruột trước. Nhìn chung, hình thái ống tiêu hóa của cá tương đối hoàn 
chỉnh khi cá được khoảng 10 tuổi (Hình 4.27b). 
Ngày thứ 20 hình thái ống tiêu hóa của cá có sự biến đổi như việc xuất 
hiện dạ dày hình túi rõ ràng hơn về cấu trúc, chiều dài ruột tăng làm ruột gấp 
Hình 4.27: a) Cá dày mới nở. b) Ống tiêu hóa cá 10 ngày tuổi, c) Ống tiêu 
hóa cá 20 ngày tuổi, d) Ống tiêu hóa cá 30 ngày tuổi 
a b 
c d 
Manh tràng 
Ruột 
Dạ dày 
T. quản 
98 
khúc thành nhiều đoạn xếp song song nhau trong khoang bụng, 2 manh tràng 
xuất hiện nhưng còn rất nhỏ (Hình 4.27c). 
Ngày tuổi thứ 30 hình thái ống tiêu hóa của cá dày có sự gia tăng nhanh 
kích thước theo chiều ngang của dạ dày và ruột có vách dày hơn giai đoạn 
trước, 2 manh tràng xuất hiện như cá trưởng thành (Hình 4.27d). 
Nhìn chung, thời gian để cá dày hoàn thiện về chức năng, hình thái ống 
tiêu hóa cũng tương đương với một số loài cá khác như cá chạch lấu hoàn 
thiện ống tiêu hóa ở vào ngày tuổi 21 (Lê Thị Xuân Thanh, 2014), cá rô biển 
vào ngày thứ 20 (Phan Phương Loan, 2014), Pseudocianea crocea các tuyến 
dịch vị xuất hiện đầu tiên khi cá đạt 21 ngày tuổi (Mai et al., 2005). 
4.8.4 Đặc điểm mô học của ống tiêu hóa cá dày 
Những ngày đầu mới nở, lúc này ống tiêu hóa của cá dày bột chưa phân 
biệt rõ các phần chức năng của ống tiêu hóa, chỉ là một ống thẳng nằm sát 
xương sống và bắt màu thuốc nhuộm Haemotoxylin, noãn hoàng bắt màu 
Eosin, nhưng khi cá được 4 ngày tuổi có thể quan sát mô học ống tiêu hóa của 
cá sau khi nhuộm như sau: 
a) Khoang miệng 
Giai đoạn cá 4 ngày tuổi, có thể phân biệt rõ xoang miệng với các cơ 
quan khác trong ống tiêu hóa của cá. Xoang miệng của cá được cấu tạo gồm 
một lớp mỏng các biểu mô hình vẩy đơn phân lớp. Ngày tuổi thứ 5 thì xuất 
hiện các tế bào tiết chất nhầy và chồi vị giác (Hình 4.28). Sự xuất hiện của các 
tế bào tiết chất nhầy và chồi vị giác ở cá dày bột muộn hơn so với cá bống 
tượng (Phạm Thanh Liêm và ctv., 2002). Theo nhóm tác giả này thì ống tiêu 
hóa cá bống tượng (O.marmoratus) vào ngày thứ 3 sau khi nở các tế bào tiết 
chất nhầy và chồi vị giác đã xuất hiện. 
Hình 4.28: Khoang miệng cá bột 5 ngày tuổi (10X): a) Niêm mạc; 
b) xoang miệng; c) Thực quản 
a 
b c 
99 
b) Thực quản 
Ở Hình 4.29 cho thấy thực quản nằm tiếp theo sau khoang miệng và 
cùng với việc xuất hiện các sản phẩm tiết chất nhầy từ các tế bào biểu mô. 
Thực quản cấu tạo dạng ống, vách thực quản dầy có cấu tạo bởi lớp ngoài là 
màng bao mô liên kết, lớp giữa lớp cơ vân, lớp trong cùng là màng nhầy và 
bắt đầu gấp nếp vào ngày thứ 4. Sự thay đổi của thực quản bằng biểu hiện của 
sự gia tăng các nếp gấp của lớp niêm mạc, số lượng của các tế bào hình cốc 
bằng cách sắp xếp các biểu mô dọc theo thành thực quản thể hiện rõ ở cá 14 
ngày tuổi (Hình 4.29). 
Sự hình thành một số tổ chức trong thực quản cá dày 4 ngày tuổi cũng 
tương tự như sự hình thành các tổ chức này trong thực quản cá da trơn châu 
Âu. Theo Kozaric et al., (2008), thực quản của cá da trơn châu Âu (Silurus 
glanis) có thể phân biệt được khi cá 4 ngày tuổi và thực quản của cá Silurus 
glanis là ống ngắn, hẹp và được bao phủ bởi các tế bào biểu mô chứa số lượng 
lớn các tế tiết chất nhầy hình cầu. Baglole et al., (1997) cho biết, hệ thống tiêu 
hóa của cá bơn (Pleuronectes ferruginea) bột sau 7 ngày tuổi mới có thể phân 
biệt được thực quản. Cấu tạo thực quản của cá dày tương tự như cá ngát theo 
mô tả của Nguyễn Bạch Loan (2012), thực quản cá ngát nằm tiếp sau xoang 
miệng hầu, vách thực quản dày, gấp nếp và được cấu tạo bởi 3 phần là màng 
bao bên ngoài, giữa là lớp cơ trơn và trong cùng là lớp niêm mạc xen kẽ bên 
dưới các tế bào biểu mô là các tế bào tiết dịch nhầy giúp thức ăn dễ dàng đi 
qua thực quản. 
Hình 4.29: Lát cắt ngang thực quản cá dày 14 ngày tuổi (40X); 
a) Khoang thực quản; b) Tế bào dạng cốc; c) nếp gấp 
a 
c 
b 
100 
c) Dạ dày 
Dạ dày được hình thành vào ngày tuổi thứ 4 do một phần ống tiêu hóa 
phình to ra. Nhưng do cá bắt đầu chuyển sang ăn thức ăn ngoài nên dạ dày 
chưa phát triển cả về cấu trúc và chức năng. Cấu tạo dạ dày rất đơn giản, chỉ là 
một lớp đơn các tế bào biểu mô hình trụ và chưa xuất hiện các tuyến dạ dày. 
Cá 14 ngày tuổi, dạ dày của cá có vách dầy và cấu tạo gồm 4 lớp là màng 
ngoài, lớp cơ trơn, lớp dưới niêm mạc và lớp niêm mạc và xuất hiện tuyến dạ 
dày. Các nếp gấp có thành phần cấu tạo là mô liên kết xốp và có nhiều mao 
mạch. Tiếp theo niêm mạc là lớp dưới niêm mạc, lớp này được cấu tạo từ các 
sợi mô liên kết thưa và một lượng lớn các mạch máu phân bố (Hình 4.30). 
Cấu tạo dạ dày của cá dày trong giai đoạn đầu hình thành cũng tương tự 
như một số cá khác như: Theo Phạm Thanh Liêm và ctv (2002), ở cá bống 
tượng khi bắt đầu hình thành dạ dày thì lớp niêm mạc chỉ là lớp đơn các tế bào 
biểu mô hình trụ nằm dưới một lớp mỏng và không chặt chẽ của lớp màng 
đệm (Propria-submucosa). Ở cá ngát, vách dạ dày có 3 lớp là màng bao mô 
liên kết ở ngoài cùng, giữa là lớp cơ trơn dày xếp thành hai dạng là cơ dọc bên 
trong và cơ vòng bên ngoài, trong cùng là phần niêm mạc (Nguyễn Bạch 
Loan, 2012). 
Hình 4.30 cho thấy cấu trúc dạ dày cũng từng bước hoàn thiện thể hiện 
theo giai đoạn phát triển cơ thể và được thể hiện qua việc xuất hiện tuyến dạ 
Hình 4.30: Hình cắt ngang dạ dày của cá 14 ngày tuổi (40X): 
a) khoang dạ dày; b) lớp niêm mạc; c) lớp dưới niêm mạc; d) 
lớp cơ trơn; e) lớp màng bao mô liên kết. 
e 
b 
c 
d 
a 
101 
dày và số lượng nếp gấp ở các cơ quan tiêu hóa. Tuy nhiên, ở cá 20 ngày tuổi, 
hình thái dạ dày có dạng hình túi tương đối to, quan sát tiêu bản mô của dạ dày 
ở giai đoạn này mới có thể thấy rõ ràng dạ dày chia làm 2 phần đó là dạ dày 
tuyến và dạ dày cơ. Tuyến dạ dày có dạng ống thẳng, là những tế bào tuyến có 
hình hơi tròn, có nhiều xoang mao mạch và mạch máu và là một phần quan 
trọng của dạ dày. Chúng giữ vai trò rất quan trọng trong việc tiết ra dịch hỗ trợ 
dạ dày tiêu hóa thức ăn. Sự hình thành tuyến dạ dày là đặc điểm đánh dấu sự 
phát triển hoàn chỉnh của hệ tiêu hóa ở giai đoạn cá bột (Hình 4.31, 4.32, 
4.33). Sự hình thành và phát triển dạ dày của cá dày bột cũng tương tự như cá 
măng (Ferraris et al., 1987), cá nâu (Lý Văn Khánh, 2012), và cá 
Pseudosciaena crocea (Mai et al.,2005) có thể phân biệt được dạ dày với các 
phần khác của ống tiêu hóa của cá vào ngày tuổi thứ 4 và tuyến dạ dày hoàn 
chỉnh vào ngày tuổi thứ 20. 
b 
d 
e 
a 
c 
Hình 4.31: Hình cắt dọc cá bột 20 ngày tuổi (4X): 
a) Xoang miệng; (b) Thực Quản; c) Dạ dày; 
d) Ruột; e) Nếp gấp. 
(hình này để ở đây không phù hợp 
b 
c 
Hình 4.32: Hình cắt ngang dạ dày của cá 20 ngày tuổi 10X): 
a) khoang dạ dày; b) Da dày cơ; c) Tuyến dạ dày. 
a 
102 
d) Ruột cá 
Ruột cá dày mới nở là một ống thẳng chưa phân hóa, quan sát tiêu bản 
mô học của ống tiêu hóa có thể phân biệt ở ngày tuổi thứ 4. Ruột có cấu tạo 
gồm một lớp đơn các tế bào biểu mô hình trụ được xếp dọc trên một lớp màng 
mỏng theo chiều dài của ruột. 
Lớp biểu mô ruột của cá bắt đầu xuất hiện nếp gấp vào ngày tuổi thứ 4 
và xuất hiện không bào lipid vào ngày tuổi thứ 7 (Hình 4.34). Kết quả nghiên 
cứu nếp gấp của ruột cá dày phát triển chậm hơn so với cá chạch lấu có nếp 
gấp ở ngày tuổi thứ 4 (Lê Thị Xuân Thanh, 2014). Theo tác giả này, thì lớp 
biểu mô ruột bắt đầu gấp nếp ở ngày tuổi thứ 2 và độ dày của lớp biểu mô gia 
tăng cùng với tuổi của cá. 
Bên cạnh sự gia tăng tuổi thì cấu trúc thành ruột từng bước hoàn chỉnh, 
kết quả nghiên cứu trên cá dày cho thấy không bào lipid cũng đã xuất hiện ở 
ngày tuổi thứ 7 và cá ở ngày tuổi thứ 14 thì các không bào lipid đã phát triển 
là bằng chứng mô học của quá trình tiêu hóa và hấp thụ lipid của ruột (Hình 
4.35). Sự xuất hiện không bào lipid trên cá dày trong nghiên cứu này chậm 
Hình 4.34: Lát cắt dọc ruột cá 7 ngày tuổi (40X): 
a) Không bào lipid; b) Nếp gấp 
A 
B 
Hình 4.33: Cắt ngang dạ dày của cá 20 ngày tuổi (40X): 
a) khoang dạ dày; b) Tuyến dạ dày. 
a 
b 
103 
hơn một số loài cá khác như cá bống tượng (Phạm Thanh Liêm và ctv., 2002). 
Theo nhóm nghiên cứu này thì không bào lipid của cá bống tượng xuất hiện 
rất sớm ở ruột sau (ngày thứ 3) và ở ruột giữa vào ngày thứ 7; cá trê (Clarias 
nieuhofii) vào ngày thứ 4 (Taweesin Saelee, 2011) và nhanh hơn so với cá nâu 
vào ngày thứ 15 (Lý Văn Khánh, 2012). 
Tóm lại, ống tiêu hóa của cá dày được hình thành sớm và phát triển hoàn 
chỉnh nhanh. Ống tiêu hóa của cá dày bột mới nở là một đoạn thẳng, giai đoạn 
4 ngày tuổi có thể phân biệt được các cơ quan trong ống tiêu hóa như thực 
quản, dạ dày, ruột,Ống tiêu hóa của cá dày vào thời điểm cá 14 ngày tuổi đã 
xuất hiện tuyến dạ dày và tuyến này phát triển hoàn chỉnh vào ở ngày tuổi thứ 
20. Đây là thời điểm hệ tiêu hóa cá dày hoàn chỉnh, ngoài việc cá có thể bắt 
thức ăn tươi sống có kích thước lớn thì cá còn có khả nằng ăn thức chế biến. 
4.9 Lựa chọn thức ăn của cá dày ở giai đoạn cá 2 đến 30 ngày tuổi 
4.9.1 Thành phần phiêu sinh trong môi trường ao ương 
Kết quả khảo sát thành phần phiêu sinh có trong môi trường cho thấy 
phiêu sinh thực vật 4 ngành có 35 giống, trong đó ngành tảo lục (Chlorophyta) 
có 20 giống, tảo lam (Cyanophyta) có 3 giống, tảo khuê (Bacillariophyta) có 9 
giống và tảo mắt (Euglenophyta) có 3 giống. Phiêu sinh Động vật có 4 ngành 
gồm 21 giống, trong đó Protozoa có 4 giống, Rotifers có 8 giống, Cladocera 
có 4 giống, Copepoda có 5 giống (Bảng phụ lục 17.1 và 17.2). Thành phần 
Hình 4.35: Lát cắt dọc ruột cá 14 ngày tuổi (40X): 
a) Không bào lipid; b) Nếp gấp; c) Thể vùi protein 
a 
b 
c 
104 
phiêu sinh động vật xuất hiện trong ao gần như ổn định trong suốt thời gian thí 
nghiệm. Mật độ phiêu sinh động vật dao động 750.000-4.602.667 cá thể/m3. 
Quần thể chiếm ưu thế là Cladocera là 1.137.500 cá thể/m3 trong đó Moina 
h

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_dac_diem_sinh_hoc_va_ky_thuat_sinh_san_ca.pdf
  • pdfTomtatluanan-en.pdf
  • pdfTomtatluanan-vi.pdf
  • docTrangthongtinluanan-en.doc
  • docTrangthongtinluanan-vi.doc