Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh thái phân bố, sinh trưởng, sinh sản và thử nghiệm nuôi sinh khối trùn chỉ (Limnodrilus hoffmeisteri Claparede, 1862)

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh thái phân bố, sinh trưởng, sinh sản và thử nghiệm nuôi sinh khối trùn chỉ (Limnodrilus hoffmeisteri Claparede, 1862)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu đặc điểm sinh thái phân bố, sinh trưởng, sinh sản và thử nghiệm nuôi sinh khối trùn chỉ (Limnodrilus hoffmeisteri Claparede, 1862)

háng trong năm và tập trung nhiều nhất vào tháng 12 và tháng 7. Quần thể trùn chỉ phân bố ở Windermere có cá thể trƣởng thành và thành thục sinh dục quanh năm, trong năm có hai đợt sinh sản chính, đợt 1 vào tháng 4 và tháng 5, đợt 2 vào tháng 10 và tháng 11. Mùa vụ sinh sản chính của quần thể trùn chỉ phân bố ở hồ Raby vào tháng 5 (Kennedy, 1966). Mặc dù, vòng đời và mùa vụ sinh sản của L. hoffmeisteri phụ thuộc vào vùng phân bố. Nhƣng trùn chỉ phân bố ở các thủy vực khác nhau đều tham gia sinh sản ở tất cả các tháng trong năm, chúng chỉ sinh sản tập trung vào một đến hai đợt chính trong năm. Một số trƣờng hợp trùn chỉ phân bố ở các vùng khác nhau cũng có thể có mùa vụ sinh sản giống nhau, tuy nhiên thì đa phần mùa vụ sinh sản chính của chúng đều không giống nhau ở các vùng phân bố khác nhau. Điều quan trọng nhất của môi trƣờng sống có thể ảnh hƣởng tới vòng đời của loài L. hoffmeisteri là năng suất sinh học của thủy vực (Kennedy, 1966). 3.2.1.2 Vòng đời của trùn chỉ Con non mới chui ra từ kén có khối lƣợng trung bình 0,09 ± 0,04 mg, chiều dài trung bình 3,80 ± 0,66 mm, chƣa có sắc tố mầu. Toàn bộ cơ thể có màu trắng nhạt. Chúng bắt đầu ăn thức ăn ngoài sau khi nở. Chiều dài và khối lƣợng của loài L. hoffmeisteri khi mới nở tƣơng đƣơng với loài T. tubifex nhƣng ngắn hơn loài Isochaetides newaensis trong cùng họ Tubificidae. Con mới nở của T. tubifex có khối lƣợng trung bình là 0,08 mg và chiều dài trung bình là 3 mm, của L. hoffmeisteri tƣơng tự nhƣ loài T. tubifex, trong khi đó con mới nở của I. newaensi có khối lƣợng trung bình 0,85 mg và chiều dài trung bình là 7 mm (Poddubnaya, 1980). 72 Cơ thể của trùn con 3-5 ngày tuổi có màu hồng nhạt, sau 1 tuần chuyển màu hồng đậm, khi lớn có màu đỏ nhạt. Trùn chỉ sinh trƣởng, phát triển, thành thục sinh dục và sản xuất kén đầu tiên vào ngày nuôi thứ 31. Độ tuổi trung bình tham gia sinh sản là 35,33 ± 2,32 ngày. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Kennedy (1966) về vòng đời của loài L. hoffmeisteri trong phòng thí nghiệm. Theo tác giả này, L. hoffmeisteri thành thục và bắt đầu đẻ vào tháng nuôi thứ 2 đến tháng thứ 4, một số cá thể bị chết sau đợt sinh sản đầu tiên, những cá thể sống sót sau đó trở lại giai đoạn chƣa thành thục, chúng tái thành thục và tham gia sinh sản lần thứ 2 trong năm. Trùn chỉ có thể sống đƣợc từ 1 đến 2 năm (Kennedy, 1966). Thời gian trung bình cho phát triển phôi và con non đƣợc bảo vệ bởi vỏ kén kéo dài 8,13 ± 1,64 ngày. Sau khoảng thời gian này, con non phá vỏ kén chui ra ngoài bắt đầu sống độc lập. Hình 3.7: Các giai đoạn trong vòng đời của trùn chỉ 3.2.1.3 Tuổi thành thục và đẻ kén (TN1) Khi nuôi trùn chỉ ở nền đáy bùn, nhiệt độ trung bình 29,14 ± 0,70 oC, đai sinh dục của chúng ở vị trí đốt số X – XI dày lên và có màu trắng khác biệt với các vùng khác của cơ thể ở cuối tháng nuôi đầu tiên (Hình 3.8 a). Độ tuổi trung bình của trùn chỉ khi thành thục sinh dục và tham gia tạo kén là 35,33 ± 2,32 ngày tuổi. Trùn chỉ tạo kén sớm nhất vào ngày nuôi thứ 31 và muộn nhất vào ngày nuôi thứ 39 (Bảng 3.13). Kén của trùn chỉ có hình bầu dục hoặc giống hình quả chanh có núm nhỏ ở hai đầu. Khi mới tạo thành, vỏ kén mỏng trong suốt cho phép quan sát đƣợc số lƣợng phôi ở bên trong kén (Hình 3.8b). Kén Trùn con chui ra khỏi kén Trùn con Trùn chỉ trƣởng thành 73 Bảng 3.13: Thời gian xuất hiện kén Ngày tuổi 31 32 33 34 35 36 37 38 39 Tổng Số cặp xuất hiện kén 4 1 0 2 8 5 6 1 3 30 Tỷ lệ (%) 13,3 3,3 0,0 6,7 26,7 16,5 20,0 3,3 10,0 100 Hình 3.8: a) Trùn chỉ trƣởng thành; b) Kén trùn chỉ Kết quả nghiên cứu này có sự sai khác đáng kể so với nghiên của của Lobo và Galves (2011 a,b ) về một số loài giun ít tơ thuộc họ trùn ống. Lobo và Galves (2011b), trung bình tuổi thành thục sinh dục tham gia tạo kén lần đầu tiên của L.hoffmeisteri là 7,17 ± 2,93 tuần khi nuôi ở nền đáy cát mịn, là 9,00 ± 2,00 tuần khi nuôi ở nền đáy cát trung bình, nhiệt độ 25±1oC. Theo Lobo và Galves (2011a), trung bình tuổi thành thục sinh dục tham gia tạo kén lần đầu tiên của B. sowerbyi là 40,83 ± 6,88 ngày, biến động từ 35 ngày đến 49 ngày. Nhƣ vậy, tuổi thành thục sinh dục tham gia sinh sản không chỉ phụ thuộc vào loài mà còn phụ thuộc vào nhiệt độ nuôi và cấu trúc nền đáy. Nhiệt độ cao thúc đẩy quá trình trao đổi chất hữu cơ và là nguyên nhân thúc đẩy tăng trƣởng, tham gia sinh sản sớm của sinh vật (Howe, 1967). 3.2.1.4 Sức sinh sản và số phôi trong kén (TN2) Kết quả ở Bảng 3.14 cho thấy, trung bình trùn chỉ tạo đƣợc 0,66 ± 0,25 kén/ngày. Số lƣợng phôi trong kén dao động từ 1 đến 8 và số lƣợng trung bình là 3,40 ± 1,66 phôi/một kén. Trong đó, kén có 3 phôi đạt tỷ lệ cao nhất 36,67%, tiếp đến là kén có 2 phôi chiếm 21,67%, kén chứa 7 phôi có tỷ lệ thấp nhất 3,33% (Hình 3.9). Kết quả về số lƣợng kén/ngày và số phôi/kén trong nghiên cứu đều cao hơn so với nghiên cứu của Lobo và Galves (2011a,b) về sức sinh sản của giun ít tơ thuộc họ trùn ống. Trung bình một ngày loài B. sowerbyi sinh sản đƣợc 0,12 ± 0,13 kén/ngày, mỗi kén có 1.73 ± 0.57 phôi (Lobo và Galves, 2011 b ). Trung bình một ngày loài L. hoffmeisteri nuôi ở nền đáy cát mịn (0,057 - 0,250 mm) tạo đƣợc 0,37 ± 0,75 kén/ngày, mỗi kén có 3,12 ± 1,03 phôi, nuôi ở nền đáy cát có kích thƣớc trung bình (0,25 - 1,00 mm) tạo đƣợc 0,23 ± 0,24 kén/ngày, mỗi kén có 3,06 ± 1,21 phôi (Lobo và Galves, 2011a). Có sai khác về sức sinh sản của L. hoffmeisteri giữa kết quả của luận án với các nghiên cứu trƣớc đó. Bởi vì theo Nascimento và Alves (2009), thì sức sinh sản của giun ít tơ không chỉ phụ thuộc vào 74 loài mà còn phụ thuộc vào kích thƣớc cơ thể và nhiệt độ. Khi nhiệt độ tăng sức sản xuất kén của L. hoffmeisteri tăng, trong khi đó số lƣợng phôi trong kén vẫn đƣợc duy trì. Do đó, đây có thể là nguyên nhân dẫn đến sự sai khác về sức sinh sản của trùn chỉ giữa nghiên cứu của luận án với các nghiên cứu trƣớc. Số phôi trung bình của kén X=3,40 ± 1,66 0.00 5.00 10.00 15.00 20.00 25.00 30.00 35.00 40.00 1 2 3 4 5 6 7 8 Số lƣợng phôi của một kén P h ần t ră m ( % ) Tỷ lệ phần trăm Hình 3.9: Tỷ lệ phần trăm số lƣợng phôi của một kén Biến động số lƣợng phôi trong kén của L. hoffmeisteri ít hơn so với nghiên cứu của Poddubnaya (1980). Theo tác giả này, số lƣợng phôi trong kén của L. hoffmeisteri dao động từ 2 đến 10, của loài Isochaetides newaensis là 22±0,01 phôi/kén khi nhiệt độ khoảng 15-20ºC nhƣng khi nhiệt độ cao hơn 22ºC là 12 ± 0,05 phôi/kén, của loài T. tubifex là 2 đến 20 tùy thuộc vào nhiệt độ. Theo Bonacina và cs (1989a), khi nuôi T. tubifex ở nhiệt độ là 20ºC thì số lƣợng phôi của mỗi kén thấp biến động từ 1-5 phôi/kén. Trong đó, có tới 51% số kén chỉ có 1 phôi, chỉ có 4% số kén có chứa 5 phôi Bảng 3.14: Kết quả theo dõi quá trình sinh sản của trùn chỉ ở TN2 Khay Tổng kén Tổng phôi Số phôi /kén Tổng con non Tỷ lệ nở (%) Số kén/ngày 1 248 803 3.25±1,58 610 75.97 0.83 2 137 418 3.05±1,28 318 76.08 0.46 3 143 526 3.68±1,82 410 77.95 0.48 4 151 555 3.68±1,73 412 74.23 0.50 5 342 1182 3.46±1,74 892 75.47 1.14 6 149 489 3.28±1,56 370 75.66 0.50 7 108 342 3.17±1,61 265 77.49 0.36 8 183 674 3.68±1,82 517 76.71 0.61 9 233 805 3.45±1,78 615 76.40 0.78 10 286 942 3.29±1,63 710 75.37 0.95 Tổng hoặc Trung bình 1980 6736 3,40±1,66 5119 75,95 0,66±0,25 Phôi/kén, tỷ lệ nở và kén/ngày là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn 75 Chiều dài trung bình của mỗi kén là 549,17 ± 187,39 μm. Trong đó, kén có chiều dài lớn nhất là 1.000 μm ngắn nhất 250 μm. Chiều rộng của kén có kích thƣớc trung bình là 337,39 ± 97,53 μm, bề rộng lớn nhất là 500 μm, nhỏ nhất là 170 μm. Giữa chiều dài, chiều rộng và số lƣợng phôi của kén có mối tƣơng quan thuận tuân theo phƣơng trình đƣờng thẳng hồi quy lần lƣợt là y =100,15x + 213,26 và y = 53,621x + 157,73 (Hình 3.10 và Hình 3.11). Hệ số tƣơng quan của phƣơng trình hồi quy giữa chiều dài, chiều rộng và số lƣợng phôi lần lƣợt là R2 = 0,7659 và R2 = 0,8106, chứng tỏ kích thƣớc của kén và số lƣợng phôi trong kén có mối tƣơng quan khá chặt chẽ. y = 100.15x + 213.26 R ² = 0.7659 n = 240 0 200 400 600 800 1000 1200 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Số lƣợng (phôi/kén) C h iề u d ài c ủ a k én ( µ m ) Hình 3.10: Tƣơng quan giữa chiều dài và số lƣợng phôi của kén trùn chỉ y = 53.621x + 157.73 R ² = 0.8106 n= 240 0 100 200 300 400 500 600 700 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Số lƣợng (phôi/kén) C h iề u r ộ n g c ủ a k én ( µ m ) Hình 3.11: Tƣơng quan giữa chiều rộng và số lƣợng phôi của kén trùn chỉ 76 3.2.1.5 Thời gian phát triển phôi và tỷ lệ nở (TN3) Quá trình phát triển phôi của trùn chỉ diễn ra hoàn toàn trong kén. Khoảng thời gian phát triển phôi của trùn chỉ đƣợc trình bày ở Bảng 3.15. Bảng 3.15: Thời gian phát triển phôi của trùn chỉ ở nhiệt độ phòng STT Khoảng thời gian (giờ) Đặc điểm 1 0 -24 Đĩa phôi đƣợc phân cắt từ sau khi thụ tinh tạo thành hợp tử hình thành phôi nang đến phôi vị Hình 3.13a 2 24 – 48 Biệt hóa các tế bào của phôi vị hình thành phôi khẩu Hình 3.13b. 3 48 -72 Hình dạng cơ thể bắt đầu hình thành và hoàn thiện các bộ phận trên cơ thể. Ban đầu khi cơ thể mới hình thành ngắn có hình vòng cung, sau đó phát triển dài khép kín tạo thành vòng tròn nằm gọn trong túi phôi thai Hình 3.13c 4 72-94 Trùn chỉ bắt đầu vận động, tuy nhiên khoảng thời gian này chúng chỉ vận động theo vòng tròn trong túi phôi Hình 3.13d 5 94-144 Con non phá vỡ màng túi phôi chui ra ngoài và bắt đầu sử dụng albumin trong kén, chúng vẫn đƣợc bảo vệ bởi vỏ kén, chúng vận động liên tục trong kén, trùn con có thể quấn vào nhau Hình 3.13e 6 144-288 Con non phá vỡ vỏ kén chui ra ngoài (Hình 3.13f) Trùn con mới nở ra đƣợc nuôi dƣỡng bởi albumin dự trữ trong kén. Trứng sau khi thu tinh tạo thành hợp tử trải qua quá trình phân bào tạo thành phôi nang, các tế bào tiếp tục phân chia nhỏ hơn tạo thành phôi vị. Quá trình phôi vị hóa bắt đầu khi có sự lõm vào từ một điểm trên bề mặt phôi nang ở cực thực vật, các tế bào tiếp tục lõm sâu vào trong cho tới khi chúng hình thành một lớp nằm sát lớp ngoài. Phôi vị chứa một xoang vị, xoang này thông ra môi trƣờng ngoài bằng phôi khẩu. Xoang vị sẽ trở thành ống tiêu hóa và phôi khẩu trở thành hậu môn hình thành giai đoạn sớm của phôi thai. Giai đoạn đầu của phôi thai vận động liên tục trong màng bao bên ngoài túi phôi. Toàn bộ quá trình phân cắt phôi và giai đoạn đầu của phôi thai vẫn đƣợc bao bọc bởi một màng mỏng của túi phôi nằm trong kén. Giai đoạn sau phôi thai thoát khỏi lớp màng mỏng chui ra bên ngoài và bắt đầu ăn albumin dự trữ trong kén. Sau khi thoát khỏi lớp màng mỏng của phôi chúng vận động liên tục, có thể quấn vào nhau tới khi cứng cáp trùn chỉ phá vỡ vỏ kén và chui ra ngoài bắt đầu sống độc lập. 77 Thời gian phát triển từ khi phân cắt phôi đến khi con non chui ra khỏi kén từ 6 đến 12 ngày, trung bình 8,13 ± 1,64 ngày. Sau ngày thứ 12 không phát hiện con non nào chui ra khỏi kén. Tỷ lệ con non chui ra khỏi kén cao nhất vào khoảng thời gian 8-10 ngày (62,26± 11,53%), thấp nhất vào thời gian 10-12 ngày (5,55± 0,74%) (Hình 3.12). Hình 3.12: Thời gian và tỷ lệ nở Kết quả nghiên cứu của luận án phù hợp với khoảng thời gian phát triển phôi nói chung của giun ít tơ. Trứng của giun ít tơ ít noãn hoàng, phát triển không qua giai đoạn ấu trùng. Con con chui ra khỏi kén sau 8 – 10 ngày, tùy từng loài và nhiệt độ (Thái Trần Bái, 2005). Khoảng thời gian phát triển phôi của L. hoffmeisteri ở nhiệt độ nuôi 25±1ºC là 6-14 ngày, tỷ lệ con non chui ra khỏi kén cũng cao nhất vào khoảng thời gian từ 8-12 ngày đạt tới 84,83% ở nền đáy cát mịn (0,057-0,25mm), 83,67% ở nền đáy cát trung bình (0,25-1,00mm), nhiệt độ nuôi là 25 ± 1ºC (Lobo và Galves, 2011 b ). Thời gian phát triển phôi của L. hoffmeisteri là ít hơn 20 ngày ở 25ºC và có trên 80% con non chui ra khỏi kén trong khoảng thời gian từ 8 đến 12 ngày (Nascimento và Alves, 2009). Thời gian phát triển phôi của L. hoffmeisteri từ cá thể thành thục sinh dục chuẩn bị tạo kén ít hơn 5 tuần (Aston, 1973). Khoảng thời gian phát triển phôi của B. sowerbyi ở nhiệt độ 25±1°C là từ 10 đến 20 ngày (Lobo và Galves, 2011 b ). Ở nhiệt độ 20ºC, toàn bộ số lƣợng trứng đơn lẻ trong kén của loài T. tubifex không thể sống sót sau 15 ngày ấp. Số con con chui ra khỏi kén giảm trong khoảng giữa 15 đến 16 ngày ấp (50%) và trong vòng 17 ngày thì 90% số con non đã nở chui ra khỏi kén (Bonacina và cs, 1989a). 0 10 20 30 40 50 60 70 80 2+4 4+6 6+8 8+10 10+12 12+14 Ngày nở T ỷ l ệ n ở ( % ) 2-4 -6 12-14 6-8 8- 10- 78 Hình 3.13: Các giai đoạn phát triển phôi của trùn chỉ 3.2.2 Khả năng tái sinh của trùn chỉ (TN4) Khả năng phục hồi vết thƣơng và tái sinh của các phần cơ thể trong nghiên cứu có sự khác biệt rõ rệt. Sau 3 ngày bị cắt đoạn, phần đầu có khả năng phục hồi vết thƣơng là cao nhất (63,67 ± 10,43%), tiếp đến là phân thân (37,08 ± 11,64%), thấp nhất là phần đuôi (24,06 ±10,03%) sự sai khác này có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Sau 9 ngày, khả năng tái sinh phần bị cắt tạo thành cơ thể mới gồm đầy đủ các phần đầu thân và đuôi của phần đầu là 61,08 ±11,48%. Ngƣợc lại, phần thân và phần đuôi không có khả năng tái sinh, sau 9 ngày bị cắt khúc toàn bộ phần thân và phần đuôi đã bị chết hoàn toàn không thể tái sinh tạo thành một cá thể mới (Hình 3.14). a. Phôi vị (24 giờ) b. Phôi khẩu (48 giờ) c. Trùn chỉ con trong túi phôi (72 giờ) d. Trùn chỉ vận động trong túi phôi (94 giờ) e. Trùn chỉ con vận động trong kén (96 giờ) f. Trùn chỉ phá vỏ kén chui ra ngoài (144 giờ) 250μm 250μm 250μm 250μm 250μm 250μm 79 Hình 3.14: Tỷ lệ phục hồi vết thƣơng của trùn chỉ Quá trình phục hồi vết thƣơng và tồn tại trong thời gian ngắn của phần thân và phần đuôi. Khả năng phục hồi vết thƣơng của phần thân và phần đuôi sau 3 ngày cắt đều dƣới 50% lần lƣợt là 37,08 ± 11,64% và 24,06 ± 10,03%. Mặc dù các vết cắt của phần thân và phần đuôi đƣợc phục hồi nhƣng tại vị trí phục hồi đƣợc bịt kín màu hồng nhạt không có điểm trắng xuất hiện nhƣ vị trí vết cắt ở phần đầu cơ thể. Sau 6 ngày cắt, tỷ lệ sống của phần thân và phần đuôi còn rất thấp lần lƣợt là 24,00 ±7,97 và 8,75±5,68, sự sai khác này có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Chúng vận động yếu không có khả năng trƣờn bò về phía trƣớc. Tại các vị trí vết thƣơng vẫn bịt kín, không có dấu hiệu của sự tái sinh. Sau ngày thứ 9, toàn bộ phần thân và phần đuôi đều bị chết. Khi phần thân và phần đuôi bị cắt rời có thể phục hồi vết thƣơng, một số hệ cơ quan có trong các đốt vẫn hoạt động nên chúng có thể duy trì sự sống. Tuy nhiên, chúng không có khả năng tái sinh phần đầu, không lấy đƣợc thức ăn nên không thể sống đƣợc trong thời gian dài. Hình 3.15: Trùn chỉ mới cắt đoạn Hình 3.16: Trùn chỉ tái sinh phần đuôi sau 3 ngày 0 10 20 30 40 50 60 70 80 Sau 3 ngày Sau 6 ngày Sau 9 ngày Thời gian phục hồi vết thƣơng T ỷ l ệ (% ) cá t h ể p h ụ c h ồ i v ết t h ƣ ơ n g Đầu Thân Đuôi a b a a c b b 5mm 5mm 80 Hình 3.17: Trùn chỉ tái sinh phần đuôi sau 6 ngày Hình 3.18: Trùn chỉ tái sinh phần đuôi sau 9 ngày Kết quả nghiên cứu này trái ngƣợc với quan điểm cho rằng cơ thể trùn chỉ nói riêng, cơ thể giun đốt nói chung phân đốt thành một chuỗi các đơn vị giống nhau đƣợc gọi là các đốt. Mỗi một đốt đều chứa các cơ quan bài tiết, tiêu hóa, tuần hoàn. Giữa các đốt có các vách ngăn. Với cấu trúc này khiến cho mỗi đốt là một phần của cơ thể. Vì vậy, giun đốt nói chung, trùn chỉ nói riêng có khả năng tái sinh sau khi bị cắt đoạn. Từ kết quả nghiên cứu của TN 4 có thể khẳng định. Khả năng tái sinh của trùn chỉ là hữu hạn. Cơ thể chỉ có thể tái sinh ở một số vị trí nhất định, duy nhất phần đầu có khả năng tái sinh hình thành cơ thể hoàn thiện. Các phần khác của cơ thể: phần thân, phần đuôi chỉ có thể bình phục vết thƣơng duy trì sự sống trong một thời gian ngắn không có khả năng tái sinh tạo một cơ thể mới. Do đó, khi chọn giống trùn chỉ, để thả nuôi cần chọn trùn chỉ khỏe mạnh, không bị đứt đầu. 3.3 ĐẶC ĐIỂM SINH TRƢỞNG CỦA TRÙN CHỈ (TN5) Trùn chỉ sinh trƣởng liên tục cả về khối lƣợng và chiều dài cơ thể trong thời gian nghiên cứu. Tốc độ sinh trƣởng của trùn chỉ đạt cao nhất ở gia đoạn trƣớc khi thành thục sinh dục tham gia sinh sản (tạo kén). Sau khi tham gia sinh sản (tạo kén), chiều dài và khối lƣợng của trùn chỉ vẫn tăng nhƣng tốc độ tăng trƣởng chậm lại. Trùn chỉ là loài đồng sinh trƣởng, phƣơng trình thể hiện mối tƣơng quan giữa chiều dài và khối lƣợng cơ thể là W=0,1254L1,1086 trong đó W là khối lƣợng cơ thể (mg), L là chiều dài cơ thể (mm) có hệ số tƣơng quan R2 = 0,9512. 3.3.1 Sinh trƣởng về khối lƣợng Kết quả thí nghiệm cho thấy, khối lƣợng cơ thể của trùn chỉ tăng liên tục trong thời gian nghiên cứu. Những tuần nuôi đầu tiên khối lƣợng cơ thể của trừn chỉ tăng nhanh, sau 5mm 5mm 81 khi tham gia sinh sản khối lƣợng cơ thể tăng chậm lại. Cuối tuần nuôi thứ 5, khối lƣợng trung bình của trùn chỉ đạt 3,59 ± 0,9 mg/cá thể. Nhƣng kết thúc thí nghiệm ở cuối tuần nuôi 15, khối lƣợng trung bình của chúng cũng chỉ đạt 5,21 ± 0,95 mg/cá thể (Hình 3.19). Tốc độ tăng trƣởng của trùn chỉ thay đổi rõ rệt trƣớc và sau thời điểm thành thục sinh dục tham gia sinh sản tạo kén. Tốc độ tăng trƣởng tuyệt đối và tƣơng đối về khối lƣợng của trùn chỉ đều nhanh từ tuần nuôi đầu tiên đến độ tuổi thành thục (tuần nuôi thứ 5, 6). Trong thời gian này, tốc độ tăng trƣởng tuyệt đối dao động từ 0,07 đến 0,14 mg/ngày, tƣơng đối dao động từ 2,64 đến 25,85 %/ngày. Từ tuần nuôi thứ 7 trở đi (sau khi trùn chỉ tham gia sinh sản), khối lƣợng cơ thể trùn chỉ vẫn tiếp tục tăng, nhƣng tốc độ tăng trƣởng của chúng chậm lại. Trong đó, tốc độ tăng trƣởng tuyệt đối cao nhất là 0,02 mg/ngày vào tuần nuôi thứ 7 và thứ 14. Tốc độ tăng trƣởng tƣơng đối cao nhất là 0,55 %/ngày vào tuần nuôi thứ 7, tiếp đến là 0,49 %/ngày vào tuần nuôi 12 (Bảng 3.16). Bảng 3.16: Tốc độ tăng trƣởng về khối lƣợng của trùn chỉ Tuần nuôi Chỉ tiêu 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 ADGw mg/ngày 0,07 0,14 0,07 0,11 0,11 0,10 0,02 0,018 0.018 0.001 0.004 0.024 0,005 0,02 0,008 SGRw %/ngày 25,85 14,62 3,96 4,61 3,6 2,64 0,55 0,37 0,39 0,03 0,09 0,49 0,11 0,45 0,17 Kết quả nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu trƣớc về đặc điểm sinh trƣởng của các loài trùn chỉ thuộc lớp giun ít tơ. Loài L. hoffmeisteri duy trì tăng trƣởng liên tục trong suốt 25 tuần quan sát, thậm chí chúng tăng trƣởng ngay sau khi thành thục 0 1 2 3 4 5 6 7 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 Tuần nuôi K h ố i lƣ ợ n g ( m g /c o n ) Hình 3.19: Tăng trƣởng về khối lƣợng của trùn chỉ 82 sinh dục và tham gia tạo kén (Lobo và Galves, 2011b). Tốc độ sinh trƣởng của loài B. sowerbyi đạt cao nhất ở những tuần nuôi đầu tiên trong vòng đời. Trong thời gian đầu từ khi mới nở tới khi tham gia sinh sản lần đầu tiên, trung bình tăng trƣởng tuyệt đối của loài B. Sowerbyi là 0,41 ± 0,09 mg/ngày, tăng trƣởng tƣơng đối 6,98 ± 0,91 % /ngày. Tuy nhiên, kết thúc 364 ngày nuôi thì tốc độ tăng trƣởng tƣơng đối chỉ đạt 0,91 ± 0,04%/ngày (Lobo và Galves, 2011 a ). Tốc độ tăng trƣởng tuyệt đối của loài B. sowerbyi đạt 0,58 mg/ngày trong thời gian 35 ngày nuôi đầu tiên của vòng đời, tỷ lệ này giảm sau khi chúng tham gia sinh sản (Marchese và Brinkhurst, 1996). 3.3.2 Sinh trƣởng về chiều dài Chiều dài cơ thể trùn chỉ tăng trƣởng liên tục từ khi mới nở tới tuần nuôi thứ 15. Trong đó, chiều dài trung bình của trùn chỉ trƣởng thành khi bắt đầu tham gia sinh sản ở tuần nuôi thứ 5 là 21,28 ± 2,95 mm/cá thể. Khi kết thúc thí nghiệm vào cuối tuần nuôi thứ 5, chiều dài trung bình của trùn chỉ đạt 30,27 ± 3,56 mm/cá thể (Hình 3.20). 0.00 5.00 10.00 15.
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_dac_diem_sinh_thai_phan_bo_sinh_truong_si.pdf
85. Truong Thi Bich Hong - Nhung dong gop moi.pdf
85. Truong Thi Bich Hong - TTLA tieng Anh.pdf
85. Truong Thi Bich Hong - TTLA tieng Viet.pdf