Luận án Nghiên cứu đặc tính môi trường đất, nước ảnh hưởng đến khả năng phát triển cây mấm đen (avicennia officinalis l.) vùng biển Tây đồng bằng sông Cửu Long

Luận án Nghiên cứu đặc tính môi trường đất, nước ảnh hưởng đến khả năng phát triển cây mấm đen (avicennia officinalis l.) vùng biển Tây đồng bằng sông Cửu Long trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu đặc tính môi trường đất, nước ảnh hưởng đến khả năng phát triển cây mấm đen (avicennia officinalis l.) vùng biển Tây đồng bằng sông Cửu Long trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu đặc tính môi trường đất, nước ảnh hưởng đến khả năng phát triển cây mấm đen (avicennia officinalis l.) vùng biển Tây đồng bằng sông Cửu Long trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu đặc tính môi trường đất, nước ảnh hưởng đến khả năng phát triển cây mấm đen (avicennia officinalis l.) vùng biển Tây đồng bằng sông Cửu Long trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu đặc tính môi trường đất, nước ảnh hưởng đến khả năng phát triển cây mấm đen (avicennia officinalis l.) vùng biển Tây đồng bằng sông Cửu Long trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu đặc tính môi trường đất, nước ảnh hưởng đến khả năng phát triển cây mấm đen (avicennia officinalis l.) vùng biển Tây đồng bằng sông Cửu Long trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu đặc tính môi trường đất, nước ảnh hưởng đến khả năng phát triển cây mấm đen (avicennia officinalis l.) vùng biển Tây đồng bằng sông Cửu Long trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu đặc tính môi trường đất, nước ảnh hưởng đến khả năng phát triển cây mấm đen (avicennia officinalis l.) vùng biển Tây đồng bằng sông Cửu Long trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu đặc tính môi trường đất, nước ảnh hưởng đến khả năng phát triển cây mấm đen (avicennia officinalis l.) vùng biển Tây đồng bằng sông Cửu Long trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu đặc tính môi trường đất, nước ảnh hưởng đến khả năng phát triển cây mấm đen (avicennia officinalis l.) vùng biển Tây đồng bằng sông Cửu Long trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 196 trang nguyenduy 16/06/2025 120
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu đặc tính môi trường đất, nước ảnh hưởng đến khả năng phát triển cây mấm đen (avicennia officinalis l.) vùng biển Tây đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu đặc tính môi trường đất, nước ảnh hưởng đến khả năng phát triển cây mấm đen (avicennia officinalis l.) vùng biển Tây đồng bằng sông Cửu Long

Luận án Nghiên cứu đặc tính môi trường đất, nước ảnh hưởng đến khả năng phát triển cây mấm đen (avicennia officinalis l.) vùng biển Tây đồng bằng sông Cửu Long
u tra rừng và của 17 loài thực vật đã được 
thống kê. 
Kết quả tổng hợp ở Bảng 4.8 cho thấy: 
 + Chiều cao cây ở tiểu vùng 1, tiểu vùng 2 đều thấp hơn 6 m khác biệt 
không có ý nghĩa với nhau nhưng khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) đối với tiểu 
vùng 3 và tiểu vùng 4 đều có chiều cao lớn hơn 7,5 m. 
 + Đường kính thân cây D1,3 của tiểu vùng 1, tiểu vùng 2 nhỏ hơn 9,5 cm 
không khác biệt nhau nhưng tiểu vùng 3, tiểu vùng 4 đều có D1,3 lớn hơn 9,5 
cm khác biệt có ý nghĩa với tiểu vùng 1. 
 + Tiết diện tán tiểu vùng 2, tiểu vùng 3 lớn hơn 9 m2 không khác biệt 
nhau nhưng khác biệt có ý nghĩa đối với tiểu vùng 1 và tiểu vùng 4 (đều nhỏ 
hơn 7 m2). 
 + Cấp sinh trưởng của cây rừng tại 4 điểm vùng đều > 3 đạt khá tốt. 
 - Về mối quan hệ giữa các loài và các quần xã dựa vào phương pháp 
phân tích Primer cho thấy các loài và các kiểu hỗn giao phù hợp với điều kiện 
tự nhiên tại mỗi tiểu vùng làm cơ sở cho việc xem xét bố trí các loài cây trồng 
thích hợp với nhau để phát triển rừng ngập mặn tại khu vực nghiên cứu. 
4.2 Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến sự hiện 
diện và sinh trưởng cây Mấm đen trên các tiểu vùng sinh thái khu vực 
nghiên cứu 
Khi nghiên cứu về rừng ngập mặn Việt Nam, các nhà khoa học xác định 
rừng ngập mặn phát sinh và phát triền bởi nhiều yếu tố, trong đó các yếu tố chi 
phối là tính chất đất đai, đặc điểm thủy văn, yếu tố khí hậu, địa hìnhTheo 
Phan Nguyên Hồng và cộng sự (2001) rừng ngập mặn sinh trưởng và phát 
triển những nơi có điều kiện thuận lợi theo 7 yếu tố sau: Chất đất, độ mặn của 
đất và nước, mực thủy triều, dòng nước ngọt, lượng mưa, nhiệt độ và địa hình. 
Trên cơ sở thực tế tại khu vực nghiên cứu và kết quả có từ phân vùng 
sinh thái rừng ngập mặn của Mục 4.1 đã cho thấy trên các tiểu vùng sinh thái 
khác nhau thì có các điều kiện tự nhiên về môi trường khác nhau và có mối 
quan hệ với sự hiện diện của cây Mấm đen, đề tài tiếp tục nghiên cứu mối 
tương quan giữa điều kiện tự nhiên đến sự hiện diện cây Mấm đen thông qua 
các yếu tố: 
 71 
- Khí hậu – thủy văn bao gồm: Nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa và mực nước ngập. 
- Môi trường nước bao gồm độ mặn của nước, pH nước, TSS (tổng chất 
rắn hòa tan), DO, COD và NH4. 
- Địa hình. 
- Đặc tính đất bao gồm tính chất vật lý đất và hóa học đất. 
4.2.1 Ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu – thủy văn và môi trường 
4.2.1.1 Yếu tố khí hậu – thủy văn 
Các yếu tố khí hậu thủy văn ở 4 tiểu vùng trong khu vực nghiên cứu 
được trình bày trong Bảng 4.9. 
Bảng 4.9 Khí hậu - thủy văn tại khu vực nghiên cứu 
Tiểu 
vùng 
Nhiệt độ 
oC 
Độ ẩm 
% 
Lượng mưa 
Mm 
Mực nước ngập 
Cm 
BQ Max Min BQ Max Min BQ Max Min BQ Max Min 
TV1 27,02 32,97 22,45 81,5 96,5 56,67 2.004 3.084 1.745 113 127 94 
TV2 27,4 32,97 22,45 81,42 96,5 56,67 2.031 3.084 1.745 113 127 94 
TV3 27,52 33,33 22,87 81,5 96,75 58,42 2.031 3.084 1.745 113 127 94 
TV4 27,52 32,88 22,96 81,5 96,75 58,42 2.300 3.084 1.745 116 127 106 
(Đài Khí tượng - Thủy văn tỉnh Kiên Giang, 2015) 
a. Khí hậu 
Số liệu tham khảo được từ Đài Khí tượng - Thủy văn tỉnh Kiên Giang 
được trình bày ở Bảng 4.9 cho thấy: (Bản đồ phân bố nhiệt độ, ẩm độ, lượng 
mưa xem phụ lục 2): 
Nhiệt độ ở 4 tiểu vùng dao động từ 27,02oC đến 27,52oC, cao nhất ở tiểu 
vùng 4 và thấp nhất ở tiểu vùng 1. Theo Nguyễn Ngọc Bình và cộng sự (2001) 
thì loài Mấm đen phân bố phổ biến ở vùng ven biển Nam Trung bộ, Đông 
Nam bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long, đặc biệt ở vùng Bán đảo Cà Mau và 
không có Mấm đen phân bố tự nhiên ở Miền Bắc Việt Nam, điều này cho thấy 
điều kiện khí hậu ảnh hưởng rõ rệt đến phân bố của loài cây Mấm đen. Ở vùng 
nghiên cứu, nhiệt độ thấp nhất trung bình nhiều năm và nhiệt độ cao nhất 
trung bình nhiều năm nằm trong khoảng 22,45oC đến 32,97oC là mức nhiệt độ 
ôn hòa rất phù hợp cho các loài cây rừng ngập mặn nói chung và loài cây 
Mấm đen nói riêng sinh trưởng và phát triển. 
Độ ẩm trung bình nhiều năm ở mức khá cao và đồng đều ở các tiểu vùng 
là 81,5%, độ ẩm cao nhất đạt tới 96,75% trong các tháng mùa mưa và thấp 
nhất trong các tháng mùa khô chỉ đạt 56,67%. Ẩm độ quá cao là điều kiện tốt 
 72 
cho các loài cây rừng sinh trưởng phát triển, nhưng cũng là điều kiện tốt cho 
sâu bệnh hại cây rừng sinh sôi nảy nở, cần lưu ý trong công tác chăm sóc rừng. 
Lượng mưa trung bình nhiều năm dao động ở các tiểu vùng từ 2.004 mm 
đến 2.300 mm, thấp nhất là tiểu vùng 1 có 2.004 mm, cao nhất là tiểu vùng 4 
đạt 2.300 mm, lượng mưa bình quân cao nhất tại các tiểu vùng là 3.084 mm và 
thấp nhất là 1.745 mm. Lượng mưa phân bố không đều trong năm, cao nhất 
trong các tháng mùa mưa và thấp nhất trong các tháng mùa khô. 
b. Thủy văn 
Mực nước ngập trung bình nhiều năm ở 4 tiểu vùng có mức độ chênh 
lệch không đáng kể, dao động 113 cm đến 116 cm. Mực nước ngập cao nhất là 
trong các tháng mùa mưa đạt 127 cm, thấp nhất là trong các tháng mùa khô 
dao động từ 94 cm đến 106 cm. 
Kết quả thí nghiệm về ảnh hưởng của mực nước ngập đến sinh trưởng 
của loài cây Mấm đen ở mục 4.3 của đề tài cho thấy: Trong điều kiện mực 
nước ngập nhưng nếu có khoảng thời gian thủy triều rút xuống phơi mặt đất 
trong ngày thì không ảnh hưởng đến khả năng tái sinh và sinh trưởng của cây 
rừng ngập mặn. Ở vùng nghiên cứu, do ảnh hưởng của chế độ nhật triều không 
đều nhưng đảm bảo trong ngày có 1 lần triều lên và 1 lần triều xuống phơi bãi 
tạo điều kiện thuận lợi cho các loại trái giống bám đất, các loài cây rừng ngập 
mặn sinh trưởng và phát triển. 
Nhìn chung, điều kiện khí hậu - thủy văn tại khu vực nghiên cứu là phù 
hợp cho các loài cây rừng ngập mặn và cây Mấm đen sinh trưởng và phát 
triển. 
4.2.1.2 Yếu tố môi trường nước tại khu vực nghiên cứu 
 Yếu tố môi trường nước bao gồm: Độ mặn, pH nước, tổng chất rắn hòa 
tan (TSS), oxy hoà tan (DO), nhu cầu oxy hoá học (COD), NH4 được nghiên 
cứu cho các tiểu vùng sinh thái. Kết quả các yếu tố môi trường nước khu vực 
nghiên cứu của các tiểu vùng sinh thái rừng ngập mặn được trình bày trong 
các Bảng 4.10, Bảng 4.11, Bảng 4.12, Bảng 4.13 
 73 
Bảng 4.10 Yếu tố môi trường nước tại 4 vùng sinh thái khu vực nghiên cứu 
Tiểu 
vùng 
Độ mặn (‰) pH nước TSS (mg/l) 
Tháng 
 6 
Tháng 
 12 
Tháng 
6 
Tháng 
12 
Tháng 
6 
Tháng 
12 
TV1 13,18±1,26b 19,76±4,38a 7,54±0,27a 7,50±0,58a 247,72±37,23a 81,93±7,50b 
TV2 9,02±1,32b 11,95±0,78a 6,16±0,28b 7,04±0,27a 196,89±9,23a 123,34±8,43b 
TV3 3,88±0,61b 6,19±0,44a 6,13±0,80a 6,97±0,47a 239,47±40,72a 114,56±43,07b 
TV4 9,83±1,16b 12,88±2,52a 7,44±0,30a 7,37±0,68a 376,71±22,58a 156,01±33,33b 
Ghi chú: Trong cùng một cột có ít nhất một chữ cái giống nhau thì khác biệt không 
có ý nghĩa thống kê 5% qua kiểm định Duncan. 
Bảng 4.11 So sánh trung bình yếu tố môi trường nước tại 4 vùng sinh thái ở 
khu vực nghiên cứu 
Tiểu vùng Độ mặn (‰) pH nước TSS (mg/L) 
Tiểu vùng 1 16,47±4,61a 7,52±0,43a 164,82±90,29b 
Tiểu vùng 2 10,48±1,85b 6,60±0,53b 160,12±39,32b 
Tiểu vùng 3 5,03±1,31c 6,55±0,77b 177,01±76,50b 
Tiểu vùng 4 11,35±2,46b 7,40±0,50a 266,36±118,41a 
Ghi chú: Trong cùng một cột có ít nhất một chữ cái giống nhau thì khác biệt không có 
ý nghĩa thống kê 5% qua kiểm định Duncan. 
a. Độ mặn 
Kết quả nghiên cứu cho thấy tháng 6 là tháng đầu mùa mưa do lượng 
nước mưa tăng dần từ tháng 4 là 423,8 mm/tháng, đến tháng 6 lượng mưa tăng 
538,1 mm/tháng, lượng mưa cao nhất vào tháng 8 ở mức 831,5 mm/tháng rồi 
giảm dần đến tháng 12 là tháng bắt đầu mùa khô lượng mưa chỉ còn 154,2 mm 
và thấp nhất là tháng 1 là 38,8 mm/tháng (Đài Khí tượng - Thủy văn, 2015) 
cùng với các sông, kênh, rạch đổ nước thượng nguồn về nên độ mặn thấp, dao 
động tại các tiểu vùng từ 3,88‰ là mức thấp nhất ở tiểu vùng 3 đến 13,18‰ là 
mức cao nhất ở tiểu vùng 1, tiểu vùng 2 là 9,02‰, tiểu vùng 4 là 9,83‰, độ 
mặn tháng 6 thấp hơn mức độ mặn trung bình năm ở cả 4 tiểu vùng. Đến tháng 
12 là tháng đầu mùa khô độ mặn tăng cao, dao động từ 6,19‰ thấp nhất tại 
tiểu vùng 3 và cao nhất tại tiểu vùng 1 là 19,76‰, tiểu vùng 2 là 11,95‰, tiểu 
vùng 4 là 12,88‰. 
Độ mặn nước trung bình ở khu vực nghiên cứu dao động từ 5,03‰ đến 
16,47‰, bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như: Nhiệt độ, lượng mưa, các ion hòa 
tan trong nước. Độ mặn ở các tiểu vùng có khác biệt với nhau, độ mặn ở tiểu 
vùng 2 và 4 khác biệt không ý nghĩa với nhau nhưng có ý nghĩa với tiểu vùng 
1 và 3, độ mặn tiểu vùng 1, 2 và 4 khác biệt có ý nghĩa với tiểu vùng 3, cao 
nhất ở tiểu vùng 1 và thấp nhất ở tiểu vùng 3. Tiểu vùng 1 có độ mặn cao nhất 
16,47‰, do địa hình đồi núi, biên độ nhiệt lớn, lượng mưa trung bình năm 
 74 
thấp hơn các tiểu vùng khác (2.004 mm), lượng bốc thoát hơi nước nhiều làm 
cho nồng độ muối trong nước biển cao, kéo theo độ mặn tăng lên. Riêng ở tiểu 
vùng 3 có độ mặn tương đối thấp, do ở khu vực này gần hệ thống cửa biển lớn, 
có sự giao thoa với nước trong nội địa chảy ra, làm giảm độ mặn của nước, 
đặc biệt là các kênh thoát lũ ra biển Tây tập trung ở tiểu vùng này. 
Độ mặn là một trong các yếu tố quan trọng có ảnh hưởng sâu sắc đến 
sinh trưởng và phát triển các loài cây trong khu vực nghiên cứu. Rừng ngập 
mặn bao gồm các loài cây chịu ngập và chịu mặn nhưng trong giới hạn của 
chúng, độ mặn quá thấp hay quá cao đều không phù hợp vì ảnh hưởng đến các 
hoạt động sinh lý của các loài cây. Kết quả điều tra rừng ngập mặn của đề tài ở 
khu vực nghiên cứu thể hiện ở bảng 4.2 có 17 loài, trong đó loài cây Bần chua 
(Sonneratia caseolaris) chỉ phân bố ở các bãi bồi cửa sông ven biển có nguồn 
nước lợ, độ mặn của nước 4‰ mùa mưa và 20‰ mùa khô, hay đối với loài 
cây Mấm biển (Avicennia marina) độ mặn nước biển biến động từ 15‰ - 35‰ 
ở Quảng Ninh và 7‰ - 22‰ ở Bến Tre (Nguyễn Ngọc Bình, 2001). Mặt khác, 
kết quả khảo sát đặc điểm sinh trưởng thực vật tại khu vực nghiên cứu ở Bảng 
4.8 cho thấy cấp sinh trưởng các loài cây rừng ngập mặn dao động từ 3,11 - 
3,63 trên thang 5 điểm là đạt khá tốt. Điều này chứng tỏ rằng độ mặn ở khu 
vực nghiên cứu nằm trong khoảng phù hợp cho các loài cây rừng ngập mặn 
sinh trưởng và phát triển. 
Theo Hoàng Văn Thơi (2008) thì loài Mấm đen (AO) phân bố nhiều ở độ 
mặn từ 19,8‰ - 38‰, nhưng theo Nguyễn Ngọc Bình (2001) đối với loài 
Mấm đen độ mặn nước biển cũng biến động rất lớn từ 3‰ - 28‰, độ mặn 
nước biển và mức độ biến thiên về độ mặn của nước trong một năm có ảnh 
hưởng rõ rệt đến sự phân bố và sinh trưởng của loài cây Mấm đen. Tuy nhiên, 
theo Zimenez (1990) dẫn từ Nguyễn Ngọc Bình và cộng sự (2001) thì biên độ 
biến đổi về độ mặn của nước nơi có rừng Mấm đen (AO) và Mấm biển (AM) 
rất rộng từ 0‰ - 35‰, khi nước có độ mặn 0‰ và 35‰ thì cây Mấm đen sinh 
trưởng kém nhất. Điều này cho thấy độ mặn ở khu vực nghiên cứu bao gồm 4 
tiểu vùng dao động từ 5,03‰ thấp nhất ở tiểu vùng 3 đến 16,47‰ cao nhất ở 
tiểu vùng 1 vẫn nằm trong mức giới hạn của loài cây Mấm đen có thể tồn tại 
và phát triển. 
b. pH nước 
Kết quả nghiên cứu cho thấy pH nước trong tháng 6 và tháng 12 có 
chênh lệch nhau rất ít, tháng 6 mức độ pH thấp nhất là 6,13 tại tiểu vùng 3, tại 
tiểu vùng 2 cao hơn không nhiều là 6,16, cao nhất là tiểu vùng 1 và 4 lần lượt 
là 7,54 và 7,44. Vào tháng 12 pH nước có tăng lên dao động trong khoảng từ 
 75 
6,97 thấp nhất tại tiểu vùng 3 đến 7,50 cao nhất tại tiểu vùng 1, tiểu vùng 2 là 
7,04, tiểu vùng 4 là 7,37. 
pH nước bình quân ở khu vực nghiên cứu có sự khác biệt nhau, tiểu vùng 
1 và tiểu vùng 4 khác biệt nhau không ý nghĩa nhưng có ý nghĩa với tiểu vùng 
2 và tiểu vùng 3, giữa tiểu vùng 2, tiểu vùng 3 sự khác biệt không có ý nghĩa. 
Giá trị pH bình quân cao nhất ở tiểu vùng 1 là 7,52, thấp nhất ở tiểu vùng 3 là 
6,55, tiểu vùng 2 là 6,60 và tiểu vùng 4 là 7,40. pH giảm dần từ tiểu vùng 1 
đến tiểu vùng 3, tăng mạnh ở tiểu vùng 4. Theo Chester (2012), pH trong nước 
biển dao động từ 7,5 đến 8,4 do tính đệm của nước biển. 
So với ngưỡng pH cho phép vùng nuôi trồng thủy sản, bảo tồn thủy sinh 
theo Quy chuẩn Việt Nam năm 2015 của Bộ Tài nguyên-Môi trường (QCVN 
10MT:2015/BTNMT) thì giá trị giới hạn thông số pH chất lượng nước biển 
ven bờ từ 6,5 - 8,5. Theo Nguyễn Ngọc Bình và cộng sự (2008) cho rằng, 
ngoài đặc điểm độ mặn của nước triều có liên quan đến quy luật phân bố và 
sinh trưởng của các loài cây rừng ngập mặn, cũng còn tính chất khác có ảnh 
hưởng trực tiếp đến rừng ngập mặn như pH của nước triều thích hợp với sinh 
trưởng của rừng ngập mặn từ 6,5 - 7,5. Từ đó cho thấy, pH nước biển ở 4 tiểu 
vùng đều nằm trong giới hạn để rừng ngập mặn và cây Mấm đen sinh trưởng 
và phát triển. 
 c. TSS (Tổng chất rắn hòa tan) 
Kết quả nghiên cứu cho thấy tháng 6 là tháng mùa mưa và tháng 12 là 
tháng đầu mùa khô, hàm lượng TSS biến động rất lớn. Tháng 6 hàm lượng 
TSS cao nhất ở tiểu vùng 4 là 376,71 mg/l giảm xuống còn 156,01 mg/l trong 
tháng 12 nhưng vẫn là ở mức độ cao nhất trong 4 tiểu vùng. Thấp nhất là ở 
tiểu vùng 2 trong tháng 6 là 196,89 mg/l và tháng 12 vẫn ở mức thấp là 123, 
34 mg/l, thấp nhất là tiểu vùng 1 tháng 12 chỉ còn 81,93 mg/l. 
 Kết quả phân tích cho thấy hàm lượng tổng chất rắn hòa tan trong nước 
(TSS) bình quân có sự khác biệt, ở tiểu vùng 1, 2, 3, sự khác biệt không có ý 
nghĩa nhưng có ý nghĩa với tiểu vùng 4. TSS cao nhất ở tiểu vùng 4 là 266,36 
mg/l, trung bình ở tiểu vùng 3 là 177,01 mg/l và thấp hơn ở tiểu vùng 1, 2 lần 
lượt là 164,82 mg/l và 160,12 mg/l. Đặc điểm của tiểu vùng 3 là có các con 
kênh xả lũ ra biển Tây mang theo nhiều phù sa, phèn và các chất hòa tan khác 
ra vùng ven biển nên xảy ra các phản ứng hóa học làm lắng các chất lơ lửng 
trong nước nên ở đây có hàm lượng TSS thấp, nhưng so với Quy chuẩn Kỹ 
thuật Quốc gia về chất lượng nước biển (QCVN 10-MT:2015/BTNMT) của 
Bộ Tài nguyên và Môi trường thì mức độ TSS cho phép đối với vùng ven bờ 
là 50 mg/l thì cả 4 tiểu vùng đều vượt Quy chuẩn. Hàm lượng TSS trong nước 
 76 
quá cao có khả năng làm giảm lượng oxy hòa tan trong nước gây ảnh hưởng 
đến sự sống của các sinh vật dưới nước. 
Tuy nhiên, hàm lượng TSS cao là đặc điểm của vùng ven biển khu vực 
nghiên cứu vì đây là nguồn nguyên liệu bồi lắng, nhờ tác dụng của các loài 
cây rừng ngập mặn (các loài cây Mấm, cây Đước) mà các bãi được bồi nhanh 
và lấn biển ra xa, đồng thời cung cấp chất dinh dưỡng cho các loài cây rừng 
ngập mặn. Schuster (1952) (Dẫn từ Phan Nguyên Hồng, 1988) cho biết ảnh 
hưởng của chất lượng đất đến thảm thực vật thấy rất rõ ở Indonesia và 
Australia, phù sa từ các con sông đổ ra cửa biển tạo điều kiện cho rừng ngập 
mặn sinh trưởng tốt. Trái lại, trên các bãi lầy ít lượng phù sa, nghèo chất dinh 
dưỡng thì rừng ngập mặn thấp và cằn cổi. 
Vì vậy, hàm lượng TSS tuy có sự khác biệt giữa các tiểu vùng nhưng 
nhìn chung cả 4 tiểu vùng đều vẫn ở mức rất cao so với Quy chuẩn và thực tế 
cho thấy mức độ bồi lắng và lấn biển ở tiểu vùng 4 là nhanh nhất so với 3 tiểu 
vùng còn lại và chưa thấy có ảnh hưởng rõ rệt nào đến sự phân bố của các loài 
cây rừng ngập mặn nói chung và loài cây Mấm đen nói riêng. 
Bảng 4.12 Yếu tố môi trường nước tại 4 vùng sinh thái khu vực nghiên cứu 
Tiểu 
vùng 
DO (mg/l) COD (mg/l) NH4+ (mg/l) 
Tháng 6 Tháng 12 Tháng 6 Tháng 12 Tháng 6 Tháng 12 
TV1 6,31±1,5a 5,27±0,87a 13,90±5,6a 15,99±4,32a 0,21±0,22a 0,11±0,08a 
TV2 5,66±1,54a 5,30±0,62a 15,82±7,78a 17,13±1,54a 0,12±0,13a 0,06±0,04a 
TV3 5,68±1,28a 5,15±0,40a 10,88±4,43b 17,56±4,26a 0,36±0,12a 0,25±0,19a 
TV4 5,45±1,21a 5,13±0,57a 16,07±8,31a 19,15±1,11a 0,26±0,13a 0,15±0,11a 
Ghi chú: Trong cùng một cột, cùng ký tự là không khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 5% 
theo kiểm định Duncan. 
Bảng 4.13 So sánh trung bình yếu tố môi trường nước tại 4 vùng sinh thái ở 
khu vực nghiên cứu 
Tiểu vùng Oxy hòa tan (mg/l) COD (mg/l) NH4+ (mg/l) 
Tiểu vùng 1 5,79±1,30a 14,94±4,90a 0,15±0,16b 
Tiểu vùng 2 5,48±1,14a 16,48±5,39a 0,09±0,09b 
Tiểu vùng 3 5,41±0,95a 14,22±5,42a 0,30±0,16a 
Tiểu vùng 4 5,29±0,91a 17,61±5,88a 0,20±0,13ab 
Ghi chú: Trong cùng một cột, cùng ký tự là không khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 5% 
theo kiểm định Duncan. 
 77 
d. Oxy hoà tan (DO) 
 Hàm lượng DO trong nước theo Quy chuẩn Việt Nam (QCVN 10-
MT:2015/BTNMT) năm 2015 của Bộ Tài nguyên Môi trường thì mức giới 
hạn cho phép ≥ 5 mg/l. Kết quả ở bảng 4.12 cho thấy vào tháng 6 hàm lượng 
DO dao động từ 5,45 mg/l - 6,31 mg/l trên 4 tiểu vùng, cao nhất ở tiểu vùng 1 
là 6,31 mg/l nhưng sự khác biệt giữa 4 tiểu vùng không có ý nghĩa và hầu hết 
các giá trị đều trên ngưỡng giới hạn của QCVN 10-MT:2015/BTNMT. Tháng 
12, hàm lượng DO ở 4 tiểu vùng dao động không lớn, từ 5,13 mg/l - 5, 30 mg/l 
sự khác biệt không ý nghĩa, tương tự như tháng 6, hàm lượng DO ở tháng 12 
hầu hết các giá trị ở 4 tiểu vùng đều trên ngưỡng giới hạn của QCVN 10-
MT:2015/BTNMT. 
 Hàm lượng DO trung bình năm ở khu vực nghiên cứu (4 tiểu vùng) 
tương đối ổn định khi sự dao động không cao chỉ từ 5,29 mg/l - 5,79 mg/l, 
hàm lượng DO trong nước bị ảnh hưởng bởi các yếu tố: Thời tiết, nhiệt độ 
không khí trên bề mặt nước, thành phần hoá học của nguồn nước, số lượng vi 
sinh vật, sinh vật trong nước, hàm lượng chất hữu cơ... Tuy nhiên, kết quả 
diễn biến của hàm lượng DO trung bình từ tháng 6 đến tháng 12 và trung bình 
từ năm 2010 - 2015 đều > 5 mg/l nên là ngưỡng phù hợp cho các loài cây rừng 
ngập mặn nói chung và loài cây Mấm đen nói riêng sinh trưởng và phát triển. 
 e. COD (Nhu cầu oxy hoá học) 
Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng COD trung bình trong tháng 6 
ở 4 tiểu vùng dao động từ 10,88 mg/l - 16,07 mg/l, thấp nhất ở tiểu vùng 3 là 
10,88 mg/l, cao nhất ở tiểu vùng 4 là 16,07 m/l, tiểu vùng 1 và 2 lần lượt là 
13,90 mg/l và 15,82 mg/l, sự khác biệt ở tiểu vùng 1, 2 và 4 không có ý nghĩa 
với nhau nhưng có ý nghĩa với tiểu vùng 3. Hàm lượng COD trung bình tháng 
12 dao động ở 4 tiểu vùng từ 15,99 mg/l - 19,15 mg/l, thấp nhất ở tiểu vùng 1 
là 15,99 mg/l, cao nhất ở tiểu vùng 4 là 19,15 m/l, tiểu vùng 2 và 3 lần lượt là 
17,13 mg/l và 17,56 mg/l sự khác biệt ở 4 tiểu vùng không có ý nghĩa. 
 Theo Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng nước mặt (QCVN 8-
MT:2015/BTNMT) năm 2015 của Bộ Tài nguyên Môi trường thì hàm lượng 
COD trong nước giới hạn là 15 mg/l. Kết quả cho thấy hàm lượng COD trung 
bình từ năm 2010 - 2015 ở 4 tiểu vùng không có sự khác biệt nhau, nhưng tiểu 
vùng 1 và 3 hàm lượng COD < 15 mg/l, tiểu vùng 2 và 4 hàm lượng COD là 
16,48 mg/l và 17,61mg/l đều > 15 mg/l là trên ngưỡng giới hạn của Quy chuẩn 
kỹ thuật Quốc gia về chất lượng nước mặt (QCVN 8-MT:2015/BTNMT) năm 
2015 của Bộ Tài nguyên Môi trường. Tuy nhiên, kết quả điều tra rừng của đề 
tài thể hiện ở Bảng 4.8 về kết quả khảo sát đặc điểm sinh trưởng thực vật tại 
 78 
khu vực nghiên cứu cho thấy cấp sinh trưởng của các loài cây rừng ngập mặn 
ở tiểu vùng 2 là 3,55 trên thang 5 điểm và tiểu vùng 4 là 3,63 trên thang 5 
điểm, cao hơn so với cấp sinh trưởng của 2 tiểu vùng còn lại, điều này chứng 
tỏ rằng hàm lượng COD trong khu vực nghiên cứu chưa gây ảnh hưởng gì đến 
sinh trưởng và phát triển của các loài cây rừng ngập mặn và cây Mấm đen. 
 f. NH4 
Kết quả phân tích cho thấy hàm lượng NH4 trung bình tháng 6 ở 4 tiểu 
vùng dao động từ 0,12 mg/l - 0,36 mg/l, thấp nhất ở tiểu vùng 2 là 0,12 mg/l, 
cao nhất ở tiểu vùng 3 là 0,36 mg/l, tiểu vùng 1 là 0,21 mg/l, tiểu vùng 4 là 
0,26 mg/l, sự khác biệt ở 4 tiểu vùng không có ý nghĩa. Tương tự, hàm lượng 
NH4 trung bình tháng 12 dao động từ 0,06 mg/l – 0,25 mg/l, tuy sự khác biệt 
không có ý nghĩa ở 4 tiểu vùng nhưng hàm lượng NH4 vẫn cao nhất ở tiểu 
vùng 3 là 0,25 mg/l. 
 Kết quả trung bình của hàm lượng NH4 từ năm 2010 - 2015 ở 4 tiểu 
vùng dao động từ 0,09 mg/l - 0,30 mg/l, hàm lượng NH4 ở tiểu vùng 1 là 0,15 
mg/l, tiểu vùng 2 thấp nhất là 0,09 mg/l, tiểu vùng 4 là 0,20 mg/l, cao nhất ở 
tiểu vùng 3 là 0,30 mg/l, sự khác biệt có ý nghĩa giữa tiểu vùng 3 và các tiểu 
vùng còn lại. Kết quả này phù hợp với điều kiện thực tế, vì đặc điểm của tiểu 
vùng 3 là tập trung các con kênh xả lũ 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_dac_tinh_moi_truong_dat_nuoc_anh_huong_de.pdf
  • docThong tin luan an tieng anh.doc
  • docThong tin luan an.doc
  • pdftomtatluanan_en.pdf
  • pdftomtatluanan_vi.pdf