Luận án Nghiên cứu điều kiện nuôi sinh khối vi tảo thalassiosira pseudonana để ứng dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng

Luận án Nghiên cứu điều kiện nuôi sinh khối vi tảo thalassiosira pseudonana để ứng dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu điều kiện nuôi sinh khối vi tảo thalassiosira pseudonana để ứng dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu điều kiện nuôi sinh khối vi tảo thalassiosira pseudonana để ứng dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu điều kiện nuôi sinh khối vi tảo thalassiosira pseudonana để ứng dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu điều kiện nuôi sinh khối vi tảo thalassiosira pseudonana để ứng dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu điều kiện nuôi sinh khối vi tảo thalassiosira pseudonana để ứng dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu điều kiện nuôi sinh khối vi tảo thalassiosira pseudonana để ứng dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu điều kiện nuôi sinh khối vi tảo thalassiosira pseudonana để ứng dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu điều kiện nuôi sinh khối vi tảo thalassiosira pseudonana để ứng dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu điều kiện nuôi sinh khối vi tảo thalassiosira pseudonana để ứng dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 167 trang nguyenduy 08/06/2025 660
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu điều kiện nuôi sinh khối vi tảo thalassiosira pseudonana để ứng dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu điều kiện nuôi sinh khối vi tảo thalassiosira pseudonana để ứng dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng

Luận án Nghiên cứu điều kiện nuôi sinh khối vi tảo thalassiosira pseudonana để ứng dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng
đã sử dụng T. weissflogii làm lô đối chứng để xác 
định đường cong sinh trưởng của loài đối chứng và loài nghiên cứu. Bởi vì, hiện nay T. 
weissflogii đang được nuôi trồng rất ổn định và có hiệu quả kinh tế cao trong tất cả các 
trại sản xuất giống TTCT với quy mô bình thủy tinh 0,25 - 2 L và bể composite 0,2 - 3,5 
m3 sẽ được sử dụng làm một số công thức đối chứng cho nghiên cứu của chúng tôi khi thí 
nghiệm với T. pseudonana. 
Kết quả nghiên cứu được chỉ ra trên hình 3.8 đã cho thấy MĐTB cực đại của T. 
pseudonana đạt cao hơn (1,59 ± 0,05) x 106 tb/mL so với công thức đối chứng 
(Thalassiosira weissflogii - (1,11 ± 0,03) x 106 tb/mL). Tuy nhiên, thời gian MĐTB đạt 
cực đại của loài T. pseudonana là 6 ngày (tương tự như ở công thức đối chứng) nhưng 
MĐTB đạt cực đại có sự sai khác về mặt thống kê sinh học (p<0,05). 
3.2. Điều kiện nuôi sinh khối Thalassiosira pseudonana ở các quy mô 
khác nhau 
Hiện nay, các hướng nghiên cứu về công nghệ nuôi Thalassiosira pseudonana đã được 
công bố khá rõ ràng trên thế giới. Tuy nhiên, khả năng thích nghi của mỗi loài vi tảo lại 
phụ thuộc rất nhiều vào nguồn gốc của giống, vùng địa lý nuôi trồng, nguồn nước biển sử 
dụng cho hệ thống nuôi, môi trường dinh dưỡng và các điều kiện môi trường khác. 
Ở các trại sản xuất giống tôm thẻ chân trắng của chúng tôi đang sử dụng môi trường 
AGP với tỉ lệ 20% để nuôi Thalassiosira weissflogii cho năng suất sinh khối cao (đánh 
giá thông qua MĐTB đạt cực đại và tốc độ sinh trưởng đặc trưng), chất lượng vi tảo ổn 
định, giá trị kinh tế cao gấp 5 lần so với sinh khối tươi sống được nuôi bằng các loại môi 
56 
trường khác như F/2, Walne. Thành phần dinh dưỡng của môi trường AGP 20% chứa 
rất nhiều chất dinh dưỡng vô cơ gồm có nguồn đạm (chủ yếu là muối Na2NO3), nguồn 
lân là muối H2PO4- của K hoặc N, nguồn silic là muối Na2SiO3, muối Fe3+, các khoáng 
chất vi lượng như Fe, Mn, Cu, Co các vitamin A, B1, B2, B3, B6, B12. Ngoài ra, môi 
trường này chiếm 2 thành phần chính là phốtpho và Nitơ giúp kích thích tăng trưởng và 
phân chia tế bào nhanh chóng. Hơn nữa, với tỉ lệ môi trường này chúng tôi không thấy 
hiện tượng dư thừa môi trường vì vi tảo đã hấp thu và sử dụng hết dinh dưỡng có trong 
môi trường được cung cấp trong cùng thời gian nuôi và không gây ô nhiễm thứ cấp có hại 
cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng khi sử dụng chúng làm nguồn thức ăn tươi sống ở giai 
đoạn zoea. 
Chính vì vậy, chúng tôi đã tiến hành xác định ảnh hưởng của tỉ lệ % môi trường AGP 
từ 5 - 25% cho các quy mô nuôi trồng T. pseudonana thông qua giá trị trung bình của 
MĐTB đạt cực đại và tốc độ sinh trưởng đặc trưng (µ/ngày). Ngoài ra các yếu tố khác 
như MĐTB ban đầu 0,2 x 106 tb/mL, nhiệt độ 25oC, CĐAS 5,0 - 10 klux, pH 7,0, độ mặn 
30‰, độ kiềm 150 - 180 mg CaCO3/L và CĐSK 24/24 giờ là các điều kiện thích hợp 
đang được áp dụng để nuôi đại trà T. weissflogii đạt ổn định và cho năng suất cao cũng sẽ 
được rà soát để áp dụng cho các thí nghiệm đối với T. pseudonana nhằm bảo đảm mục 
tiêu xem xét điều kiện nuôi trồng hiện nay đối với loài T. weissflogii có phù hợp với loài 
T. pseudonana ở quy mô nuôi trồng khác nhau trong phòng thí nghiệm (0,25 - 2 L) và 
pilot (0,2 - 3,5 m3) hay không. 
3.2.1. Điều kiện thích hợp để nuôi sinh khối Thalassiosira pseudonana ở 
quy mô phòng thí nghiệm 
3.2.1.1. Quy mô bình thủy tinh 0,25 L 
a. Ảnh hưởng của tỉ lệ % môi trường AGP 
Hiện nay, có nhiều loại môi trường dinh dưỡng có thể sử dụng để nuôi sinh khối 
các loài vi tảo khác nhau. Vi tảo Thalassiosira pseudonana đã được nuôi thành công 
trong các loại môi trường khác như môi trường F/2, TMRL, Conway và Walne, tuy 
nhiên, sinh khối thu được còn hạn chế so với tiềm năng sinh trưởng của sinh khối T. 
pseudonana. Môi trường AGP là sản phẩm đã được thương mại hóa, giàu dinh dưỡng 
có thể cung cấp đủ dưỡng chất cho sinh trưởng và phát triển của T. pseudonana và 
bảo đảm độ ổn định và tiện dụng của môi trường nuôi. Đặc tính của môi trường này là 
dạng đậm đặc nguyên chất, do đó, chúng tôi phải tiến hành khảo sát ảnh hưởng của tỉ 
lệ % môi trường AGP từ 5 - 25% để có thể chọn được tỉ lệ % môi trường AGP sao 
cho thích hợp nhằm thu được sinh khối cao với chi phí sản xuất thấp nhất. Kết quả 
nghiên cứu về ảnh hưởng của tỉ lệ % môi trường dinh dưỡng AGP lên sinh trưởng của 
T. pseudonana được trình bày ở trên hình 3.9: 
57 
Hình 3.9. Ảnh hưởng của tỉ lệ % môi trường AGP lên sinh trưởng của T. pseudonana có 
MĐTB đạt cực đại ở bình thủy tinh 0,25 L sau 6 ngày nuôi cấy 
Ghi chú: Các chữ cái a, b, c, d trong cùng thời điểm thể hiện sự sai khác có ý nghĩa (p<0,05). 
Kết quả được trình bày ở hình 3.9 cho ta thấy sau 14 ngày nuôi cấy, sinh trưởng của T. 
pseudonana trong môi trường có tỉ lệ % môi trường AGP là 20% (µ = 0,30/ngày), tương 
ứng mật độ tế bào đạt cực đại là (1,20 ± 0,05) x 106 tb/mL ở ngày nuôi thứ 6. Sự sai khác 
về MĐTB giữa các công thức thí nghiệm có ý nghĩa về mặt thống kê sinh học (p<0,05). 
Do vậy, tỉ lệ % môi trường AGP là 20% được chọn là tỉ lệ % môi trường AGP thích 
hợp cho T. pseudonana ở bình thủy tinh 0,25 L và tỉ lệ % môi trường này đã được chọn 
cho các thí nghiệm tiếp theo. 
Ở quy mô này, khi sử dụng tỉ lệ % môi trường AGP lên đến 25% thì có hiện tượng dư 
thừa môi trường (dấu hiệu để nhận biết dư thừa môi trường trong dịch nuôi có các cặn 
bẩn lơ lửng, tạo bọt và nổi thành váng trên bề mặt của thiết bị nuôi trồng), còn ở các mức 
<15% thì xảy ra hiện tượng màu sắc của tế bào kém và nhạt dần sau 6 ngày nuôi. Do vậy, 
T. pseudonana có khả năng sử dụng hết môi trường AGP với tỉ lệ 20%, chúng an toàn 
không gây ô nhiễm thứ cấp do dư thừa dinh dưỡng của môi trường nuôi và sử dụng 
nguồn nitơ có trong môi trường này hoàn toàn phù hợp với công bố của Stramski và cộng 
sự (2002) [124], Berges và cộng sự (2002) [125], Bucciarelli và Sunda (2003) [126]. 
b. Ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng 
Để nghiên cứu ảnh hưởng của các loại môi trường dinh dưỡng khác nhau lên sinh 
trưởng của Thalassiosira pseudonana, chúng tôi đã tiến hành khảo sát các môi trường 
dinh dưỡng AGP 20%, F/2, TMRL, Conway và Walne để lựa chọn môi trường thích hợp 
cho sinh trưởng của T. pseudonana ở bình thủy tinh 0,25 L. Đây là mức tăng sinh khối 
đầu tiên trong công nghệ nuôi T. pseudonana để sản xuất nguồn tảo giống có chất lượng 
tốt và sinh trưởng nhanh cho các cấp độ tiếp theo. Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của 
môi trường dinh dưỡng khác nhau lên sinh trưởng của T. pseudonana được trình bày trên 
hình 3.10. 
58 
Hình 3.10. Ảnh hưởng của môi trường khác nhau lên sinh trưởng của T. pseudonana 
có MĐTB đạt cực đại trong bình thủy tinh 0,25 L sau 6 ngày nuôi cấy 
Ghi chú: Các chữ cái a, b, c trong cùng thời điểm thể hiện sự sai khác có ý nghĩa (p<0,05). 
Kết quả được trình bày ở trên hình 3.10 cho thấy sau 14 ngày nuôi cấy trong các môi 
trường dinh dưỡng khác nhau, sinh trưởng của T. pseudonana ở môi trường AGP 20% (µ 
= 0,23/ngày), có mật độ tế bào đạt cực đại là (1,23 ± 0,04) x 106 tb/mL ở ngày nuôi thứ 6. 
Sinh trưởng của vi tảo này trong môi trường AGP 20% so với các môi trường còn lại có 
sự sai khác về mặt thống kê sinh học (p<0,05). Tuy nhiên, giữa môi trường F/2 và Walne 
không có sự sai khác về mặt thống kê sinh học (p>0,05). 
Nghiên cứu của Hoffmann và cộng sự (2012) [127] đã cho thấy rằng T. pseudonana có 
khả năng sinh trưởng ổn định và phát triển rất tốt trên môi trường F/2 trong suốt thời gian 
nuôi trồng. Kết quả thu được của chúng tôi cho thấy vi tảo nói trên cũng sinh trưởng và 
phát triển khá tốt trong các môi trường F/2, TMRL, Conway và Walne. Tuy nhiên, 
phương pháp pha loãng các môi trường này rất phức tạp, tốn kém thời gian, khó đáp ứng 
cho sản xuất đại trà trong các trại sản xuất giống tôm thẻ chân trắng có quy mô lớn so với 
môi trường AGP 20% (sản phẩm đã được thương mại hóa, giá thành rẻ; không bị dư thừa 
dinh dưỡng trong môi trường nuôi khi sử dụng sản phẩm làm thức ăn tươi sống cho ấu 
trùng TTCT ở giai đoạn zoea; tế bào tảo đồng đều, đẹp, màu sắc của dịch nuôi cấy đẹp và 
không có hiện tượng gây ô nhiễm thứ cấp). Kết quả nghiên cứu thu được MĐTB đạt cực 
đại cao và thời gian đạt cực đại sớm hơn 2 ngày khi nuôi chúng ở môi trường AGP 20% 
so với các môi trường khác. Kết quả của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với công bố của 
Hoffmann và cộng sự (2012) [127]. Chính vì vậy, môi trường AGP 20% là môi trường 
thích hợp đã được chọn để nuôi sinh khối T. pseudonana trong bình thủy tinh 0,25 L. 
c. Ảnh hưởng của mật độ tế bào ban đầu 
Mật độ tế bào ban đầu của Thalassiosira pseudonana ảnh hưởng đến khả năng đạt cực 
đại và thời gian đạt cực đại trong các hệ thống nuôi trồng khác nhau. Kết quả nghiên cứu 
59 
về ảnh hưởng của MĐTB ban đầu lên sinh trưởng của T. pseudonana được chỉ ra ở trên 
hình 3.11. 
Hình 3.11. Ảnh hưởng của mật độ tế bào ban đầu lên sinh trưởng của T. pseudonana có 
MĐTB đạt cực đại ở bình thủy tinh 0,25 L sau 6 ngày nuôi cấy 
Ghi chú: Các chữ cái a, b, c, d trong cùng thời điểm thể hiện sự sai khác có ý nghĩa (p<0,05). 
Kết quả được trình bày ở hình 3.11 cho ta thấy sinh trưởng của T. pseudonana ở 
MĐTB ban đầu 0,2 x 106 tb/mL (µ = 0,20/ngày), có MĐTB đạt cực đại là (1,30 ± 0,04) x 
106 tb/mL tại ngày nuôi thứ 6. Sự sai khác về sinh trưởng của tảo ở các lô thí nghiệm sau 
6 - 8 ngày nuôi cấy có ý nghĩa thống kê sinh học (p<0,05). 
Ở các lô thí nghiệm có MĐTB ban đầu <0,2 x 106 tb/mL có MĐTB đạt cực đại thấp 
tương ứng đạt 0,58 ± 0,05 x 106 tb/mL, 0,97 ± 0,05 x 106 tb/mL và thời gian đạt cực đại 
dài hơn (ở ngày nuôi thứ 7 và 8). Ngược lại, ở các lô thí nghiệm có MĐTB ban đầu từ 
(0,25 - 0,3) x 106 tb/mL có MĐTB đạt cực đại khá cao (1,00 ± 0,04 x 106 tb/mL, 0,97 ± 
0,03 x 106 tb/mL) và sớm hơn so với lô có MĐTB ban đầu 0,2 x 106 tb/mL từ 1 - 2 ngày. 
Tuy nhiên, thời gian duy trì quần thể của các lô này rất ngắn. Thời gian duy trì quần thể 
của vi tảo nói trên phụ thuộc vào MĐTB ban đầu của giống nhưng cũng phụ thuộc vào 
thời gian đạt cực đại của quần thể được nuôi cấy. Theo Lê Thị Trung và Huỳnh Thị Ngọc 
Như (2010) [75] đã công bố T. pseudonana được nuôi cấy với MĐTB ban đầu rất thấp 
5,000 tb/mL có MĐTB đạt cực đại vào ngày nuôi thứ 8 nhưng hình thái tế bào của chúng 
không có sự thay đổi đáng kể (p>0,05) so với nguồn giống ban đầu đem nuôi trồng. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, hình thái tế bào không có sự khác biệt đáng kể (p>0,05) 
so với giống được nuôi cấy ở quy mô nuôi này. Mặc dù, chúng tôi đã sử dụng MĐTB ban 
đầu cao hơn so với các tác giả đã công bố ở trên nên thời gian đạt mật độ cực đại sớm 
hơn 2 ngày nhưng hình thái và màu sắc của tế bào không có sự sai khác đáng kể so với 
nguồn giống ban đầu (p>0,05). Kết quả này hoàn toàn phù hợp với công bố của Lê Thị 
60 
Trung và Huỳnh Thị Ngọc Như (2010) [75]. Như vậy, MĐTB ban đầu 0,2 x 106 tb/mL 
là thích hợp cho nuôi cấy T. pseudonana ở quy mô bình thủy tinh 0,25 L. 
d. Ảnh hưởng của nhiệt độ 
Nhiệt độ là một trong những thông số kỹ thuật ảnh hưởng đến khả năng quang hợp của 
Thalassiosira pseudonana. Theo Baek và cộng sự (2011) [79]: T. pseudonana có khả 
năng phát triển trong dải nhiệt độ rất rộng từ 5 - 30oC. Kế thừa công bố này, chúng tôi 
tiếp tục khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ lên sinh trưởng của T. pseudonana. Kết quả 
nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ (từ 15 - 35oC) lên sinh trưởng của Thalassiosira 
pseudonana được trình bày ở hình 3.12. 
Hình 3.12. Ảnh hưởng của nhiệt độ lên sinh trưởng của T. pseudonana có MĐTB đạt cực đại 
trong bình thủy tinh 0,25 L sau 6 ngày nuôi cấy 
Ghi chú: Các chữ cái a, b, c, d trong cùng thời điểm thể hiện sự sai khác có ý nghĩa (p<0,05). 
Kết quả được trình bày ở trên hình 3.12 cho thấy sinh trưởng của T. pseudonana tốt 
nhất trong môi trường ở 25oC với mật độ tế bào đạt cực đại là (1,26 ± 0,05) x 106 tb/mL 
vào ngày nuôi thứ 6. Ở các mức nhiệt độ còn lại sinh trưởng của T. pseudonana cũng đạt 
khá tốt. Tuy nhiên, khi giảm nhiệt độ nuôi cấy xuống 15oC, sinh trưởng giảm xuống thấp 
nhất (µ = 0,13/ngày) có MĐTB đạt cực đại là (0,68 ± 0,03) x 106 tb/mL và thời gian đạt 
cực đại muộn nhất ở ngày nuôi thứ 8 so với các nhiệt độ khác. Điều này chứng minh 
ngưỡng nhiệt độ < 15oC không thích hợp cho sinh trưởng của T. pseudonana trong bình 
thủy tinh 0,25 L. Ngoài ra, tại ngưỡng nhiệt độ 25oC, tảo sinh trưởng nhanh (µ = 
0,28/ngày), dịch nuôi ở dạng huyền phù và có màu nâu đậm, không có bọt xuất hiện. Ở 
các mức nhiệt độ khác, tảo sinh trưởng chậm, dịch nuôi màu sắc nhạt dần và có dấu hiệu 
chết sau 14 ngày nuôi cấy. Sinh trưởng của chúng trong môi trường có nhiệt độ 25oC so 
với các nhiệt độ khác trong cùng thí nghiệm có sự sai khác về mặt thống kê sinh học 
61 
(p<0,05). Tuy nhiên, giữa công thức có nhiệt độ 20 oC và 35oC không có sự sai khác về 
mặt thống kê sinh học (p>0,05). 
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy nhiệt độ nuôi cấy thích hợp của các loài thuộc chi 
Thalassiosira phụ thuộc rất nhiều vào nguồn gốc của từng loài, khí hậu và khu vực địa lý 
nơi chúng được nuôi trồng. Loài T. pseudonana là loài có khả năng thích nghi với sự thay 
đổi nhiệt độ lớn và có thể phát triển tốt trong môi trường sống có nhiệt độ từ 18 - 28oC 
[65], [124]. Công bố của Lê Thị Trung và Huỳnh Thị Ngọc Như (2010) [75] đã cho thấy 
rằng Thalassiosira sp. trong phòng thí nghiệm theo phương pháp bán liên tục ở bình thủy 
tinh 0,25 L trong môi trường nuôi ở 25 ± 2oC thu được MĐTB đạt cực đại rất thấp vào 
ngày nuôi thứ 8. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với công bố của 
Gao và Yang (2012) [65], Lê Thị Trung và Huỳnh Thị Ngọc Như (2010) [75], Stramski 
và cộng sự (2002) [124]. Do vậy, nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng của T. 
pseudonana ở quy mô bình thủy tinh 0,25 L là 25oC. 
e. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng 
Cường độ ánh sáng là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới mật độ tế bào của 
Thalassiosira pseudonana ở bình thủy tinh 0,25 L. Kết quả thu được của CĐAS khác 
nhau lên sinh trưởng của T. pseudonana được trình bày ở trên hình 3.13. 
Hình 3.13. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng lên sinh trưởng của T. pseudonana có MĐTB 
đạt cực đại ở bình thủy tinh 0,25 L sau 6 ngày nuôi cấy 
Ghi chú: Các chữ cái a, b, c, d trong cùng thời điểm thể hiện sự sai khác có ý nghĩa (p<0,05). 
Kết quả được trình bày ở hình 3.13 cho ta thấy sinh trưởng của T. pseudonana trong 
môi trường có CĐAS là 5,0 klux (µ = 0,25/ngày), có MĐTB đạt cực đại là (1,24 ± 0,04) 
x 106 tb/mL tại ngày nuôi thứ 6. Ngoài ra, ở các công thức từ 4,0 klux trở xuống, tảo sinh 
trưởng khá chậm (µ = 0,20/ngày, µ = 0,23/ngày) và thấp hơn so với công thức > 5,0 klux 
có thể do hiện tượng tảo bị quang ức chế. Tuy nhiên, giữa MĐTB đạt cực đại của chúng 
62 
ở 4,0 klux và 7,0 klux không có sự sai khác về mặt thống kê sinh học (p>0,05). Sự sai 
khác về sinh trưởng của chúng ở 5,0 klux so với các mức còn lại sau 14 ngày nuôi có ý 
nghĩa thống kê sinh học (p<0,05). Do đó, chúng tôi đã chọn được giải pháp để nâng 
cao năng suất sinh khối nuôi trồng là cung cấp ánh sáng 5,0 klux với chu kỳ sáng : tối 
là 12 : 12 giờ cho T. pseudonana ở bình thủy tinh 0,25 L. 
Theo kết quả nghiên cứu của Pratoomyot và cộng sự (2005) [2]: nuôi Thalassiosira sp. 
ở CĐAS 143 µE/m2/s đã ảnh hưởng đến hàm lượng và thành phần các axít béo của 
chúng, đặc biệt là EPA (11,32 - 16,65% so với TFA) và DHA (0,80 - 1,33% so với TFA). 
Trong nghiên cứu này, đã thu được EPA đạt 16,42% so với TFA và DHA đạt 1,65% so 
với TFA. Cũng trong quy mô nói trên, sinh trưởng của T. pseudonana có MĐTB đạt cực 
đại vào ngày nuôi thứ 8 ở (3 ± 0,5) klux [75] thấp hơn so với (3 ± 1) klux chỉ đạt (0,87 ± 
0,03) x 106 tb/mL và thời gian đạt mật độ cực đại sớm hơn 1 - 2 ngày. Kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với công bố của Pratoomyot và cộng sự (2005) [2], 
Lê Thị Trung và Huỳnh Thị Ngọc Như (2010) [75]. 
f. Ảnh hưởng của pH 
pH là một trong những yếu tố ảnh hưởng lên sự phát triển của Thalassiosira 
pseudonana. Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của pH lên sinh trưởng của T. 
pseudonana được trình bày ở trên hình 3.14. 
Hình 3.14. Ảnh hưởng của pH lên sinh trưởng của T. pseudonana có MĐTB đạt cực đại ở 
bình thủy tinh 0,25 L sau 6 ngày nuôi cấy 
Ghi chú: Các chữ cái a, b, c, d, e trong cùng thời điểm thể hiện sự sai khác có ý nghĩa (p<0,05). 
Kết quả nghiên cứu được chúng tôi trình bày ở hình 3.14 cho thấy sinh trưởng của T. 
pseudonana trong môi trường nuôi trồng ở pH 7,0 là cao nhất có µ = 0,26/ngày và 
MĐTB đạt cực đại ở ngày nuôi thứ 6 là (1,35 ± 0,01) x 106 tb/mL. Sinh trưởng của vi tảo 
63 
này ở pH 7,0 so với các mức pH khác có sự sai khác về mặt thống kê sinh học (p<0,05). 
Tuy nhiên, ở mức pH 5,0 và pH 9,0 không có sự sai khác về mặt thống kê sinh học 
(p>0,05). 
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy ở môi trường nuôi có giá trị pH thấp (pH 4,0), T. 
pseudonana không thích nghi được nên sinh trưởng của chúng bị ức chế và có MĐTB đạt 
cực đại thấp sau 4 ngày nuôi cấy (0,87 ± 0,03 x 106 tb/mL) do môi trường có độ axít quá 
cao (dư thừa H+). Vì vậy, pH 4,0 được xem là giới hạn dưới về pH cho sinh trưởng của 
hầu hết các loài thuộc chi Thalassiosira trong đó có loài T. pseudonana. Sau 14 ngày 
nuôi cấy, pH của dịch tảo nuôi cấy có xu hướng dịch chuyển về mức pH 7,0, điều này 
cho thấy tế bào của T. pseudonana cũng có khả năng tự điều chỉnh pH ban đầu của môi 
trường và dịch chuyển về ngưỡng pH thích hợp cho sinh trưởng của chúng, tương tự như 
các loài vi tảo quang tự dưỡng khác. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên 
cứu của Mejía và cộng sự (2013) [128]. Vì vậy, chúng tôi đã chọn được giá trị pH 7,0 là 
thích hợp để nuôi sinh khối T. pseudonana ở bình thủy tinh 0,25 L. 
g. Ảnh hưởng của độ mặn 
Loài Thalassiosira pseudonana là loài có khả năng sinh trưởng tốt ở độ mặn rộng từ 2 
- 30‰ [79]. Tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn đến sự phát triển của tảo, kết hợp 
với những tài liệu thu thập được để từ đó rút ra kết luận về độ mặn thích hợp cho loài T. 
pseudonana nhằm giúp cho việc nhân giống và nuôi sinh khối ổn định. Kết quả nghiên 
cứu về ảnh hưởng của độ mặn khác nhau (15, 20, 25, 30 và 35 ± 5‰) lên sinh trưởng của 
T. pseudonana được trình bày ở trên hình 3.15. 
Hình 3.15. Ảnh hưởng của độ mặn lên sinh trưởng của T. pseudonana có MĐTB đạt cực đại 
trong bình thủy tinh 0,25 L sau 6 ngày nuôi cấy 
Ghi chú: Các chữ cái a, b, c, d trong cùng thời điểm thể hiện sự sai khác có ý nghĩa (p<0,05). 
64 
Kết quả nghiên cứu được trình bày ở hình 3.15 cho ta thấy sinh trưởng của T. 
pseudonana có thể thích nghi và phát triển tốt ở độ mặn từ 15 - 35‰, chúng có mật độ tế 
bào đạt cực đại và thời gian đạt cực đại hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên, sinh trưởng tốt 
nhất trên môi trường ở 30‰ có tốc độ sinh trưởng đặc trưng cao nhất (µ = 0,24/ngày) và 
MĐTB đạt cực đại là (1,30 ± 0,04) x 106 tb/mL tại ngày nuôi thứ 6. Màu sắc của tế bào 
và cụm tế bào ở độ mặn này có màu nâu đậm, ngược lại, ở các độ mặn khác màu sắc của 
tế bào rất xấu và khi quan sát dưới kính hiển vi độ phóng đại 400 lần trong các nghiệm 
thức này có độ đồng đều của tế bào chỉ đạt khoảng 40 - 50%. Độ mặn nằm ngoài ngưỡng 
từ 15 - 35‰ đều không thích hợp cho sinh trưởng của vi tảo nói trên và các mức còn lại 
không có sự sai khác về mặt thống kê sinh học (p>0,05). Ở giai đoạn này, chúng có xu 
hướng thích nghi môi trường có độ mặn cao. Sinh trưởng của vi tảo này ở 30‰ và các độ 
mặn khác có sự sai khác về mặt thống kê sinh học (p<0,05). MĐTB đạt cực đại có xu 
hướng giảm xuống trong điều kiện nuôi với độ mặn thấp <20‰ (0,86 ± 0,03 x 106 tb/mL, 
0,70 ± 0,03 x 106 tb/mL) và thời gian đạt cực đại muộn hơn tương ứng ở ngày nuôi thứ 7 
và 8. Kết quả thu được cho thấy, T. pseudonana sinh trưởng tốt trong môi trường nước 
có độ mặn 30‰ ở bình thủy tinh 0,25 L. Kết quả nghiên cứu này hoàn toàn phù hợp với 
công bố của Trần Thị Lê Trang (2014) [5]. 
h. Ảnh hưởng của độ kiềm 
Độ ki

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_dieu_kien_nuoi_sinh_khoi_vi_tao_thalassio.pdf
  • pdfPLLA Nguyen Van Cong ngay 12.12.2019.pdf
  • pdfTTLA Nguyen Van Cong ngay 12.12.2019.pdf
  • pdfTTLA Nguyen Van Cong.pdf