Luận án Nghiên cứu giải pháp giảm thiểu nguy cơ mất an toàn, vệ sinh lao động tại các mỏ đá khu vực Bắc Trung Bộ

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu giải pháp giảm thiểu nguy cơ mất an toàn, vệ sinh lao động tại các mỏ đá khu vực Bắc Trung Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu giải pháp giảm thiểu nguy cơ mất an toàn, vệ sinh lao động tại các mỏ đá khu vực Bắc Trung Bộ

ng Rung toàn thân cũng là mối nguy xuất hiện ở hầu hết các máy, thiết bị sử dụng trong khai thác và chế biến đá. NLĐ vận hành xe nâng, máy xúc gầu, xúc lật, búa thuỷ lực chịu mức rủi ro cao, trong khi đó, NLĐ lái xe tải, vận hành máy xẻ đá, băm đá, quay đá mẻ, mài đá thủ công chịu mức rủi ro trung bình, còn NLĐ vận hành máy khoan tay, khoan tự hành, cắt đá, mài đá, sửa chữa máy/thiết bị chịu mức rủi ro thấp. Cần lưu ý rằng, rủi ro do rung toàn thân gây ra được đánh giá theo 3 nhóm máy/thiết bị (là: vận chuyển, vận chuyển-công nghệ và công nghệ) theo 3 thang đánh giá khác nhau. Ví dụ, mức rung ở sàn xe tải (124,3 dB) lớn hơn mức rung ở sàn xe nâng (123,2 dB) , nhưng mức rủi ro đối với lái xe tải (trung bình) lại thấp hơn mức rủi ro đối với lái xe nâng (cao). Tại một số vị trí khác như khoan tay, khoan tự hành, máy cắt, máy mài, máy bào, sửa chữa bảo dưỡng máy/thiết bị, thì rủi ro chỉ ở mức thấp. d. Vật văng bắn NLĐ vận hành máy cắt đá bằng dây kim cương có nguy cơ bị dây kim cương đứt, văng vào người. NLĐ vận hành máy nghiền sàng, lái máy xúc khu vực nghiền 70 sàng có nguy cơ bị đá văng từ máy kẹp hàm vào người. Rủi ro được đánh giá là mức trung bình. Hình 3.3. Ảnh hưởng của đá văng, đá rơi tới an toàn công trình và con người phía dưới tầng và bờ mỏ [28] e. Bụi silic Hoạt động khai thác và chế biến đá phát sinh bụi với hàm lượng silic dao động trong khoảng 2,7÷3,7%. Mức rủi ro do bụi gây ra được đánh giá dựa trên nồng độ silic tự do trong bụi hô hấp tại chỗ làm việc. Kết quả đo đạc cho thấy, nồng độ silic tự do trong bụi hô hấp tại các vị trí làm việc phát sinh nhiều bụi của các cơ sở được khảo sát nằm trong khoảng từ 1,1÷4 lần giới hạn cho phép theo QCVN 02:2019/BYT và mức rủi ro tương ứng được đánh giá từ thấp đến trung bình. NLĐ vận hành máy khoan tay, lái xe tải, máy xúc gầu, máy xúc lật, máy nghiền sàng và sửa chữa máy, thiết bị chịu mức rủi ro trung bình, trong khi đó, NLĐ vận hành máy khoan tự hành, búa thuỷ lực chỉ chịu mức rủi ro thấp. Một số nguyên nhân sau đây có thể làm giảm nhẹ mức phơi nhiễm bụi của người lao động: thứ nhất, ở khu vực khai thác đá và khu vực nghiền sàng, không gian rộng, lại có gió tự nhiên, nên bụi phát sinh khuếch tán nhanh vào không khí xuôi theo chiều gió; NLĐ có ý thức chọn 71 vị trí, tư thế làm việc để hạn chế phơi nhiễm; thứ hai, ở khu vực chế biến đá xẻ, trang bị hệ thống tưới nước dập bụi tại nguồn, nên lượng bụi còn lại phát tán vào không khí không nhiều. .[55, 60] g. Vật thể rơi do mang vác, vận chuyển Tại các vị trí như: vận hành máy khoan tay, máy cắt, máy mài, máy bào, lò quay đá, mài đá thủ công, bảo dưỡng sửa chữa máy, thiết bị, NLĐ phải nâng nhấc, vận chuyển máy, đá bằng tay, thì mối nguy vật thể rơi là hiện hữu. Đối với NLĐ vận hành máy khoan tay, máy cắt, máy mài, máy băm, mài đá thủ công, mức rủi ro được đánh giá là trung bình; trong khi đó, đối với NLĐ vận hành máy bào, lò quay đá, bảo dưỡng sửa chữa máy, thiết bị, mức rủi ro là thấp. Nguyên nhân là do sự khác nhau về mức nghiêm trọng của tai nạn. Các thiết bị nâng được sử dụng tại các cơ sở KTĐ, gồm: cẩu, tời (khu vực máy xẻ, bảo dưỡng sửa chữa máy, thiết bị), máy xúc gầu (khu vực khai thác, nghiền sàng), máy xúc lật (khu vực nghiền sàng), xe nâng (khu vực chế biến đá xẻ). Rủi ro do vật thể rơi tại các vị trí máy xúc gầu, xe tải, máy xẻ đá, xe nâng và bảo dưỡng sửa chữa máy, thiết bị, được đánh giá là mức trung bình; trong khi đó, tại các máy xúc gầu, máy xúc lật (khu vực nghiền sàng), mức rủi ro là thấp. Nguyên nhân là do sự khác nhau về mức nghiêm trọng của tai nạn. h. Trượt, ngã do trơn trượt Khu vực sửa chữa bảo dưỡng máy, thiết bị xuất hiện nhiều vật cản, dầu mỡ, nên mức rủi ro được xác định là trung bình; tại các vị trí vận hành máy khoan tay, máy khoan tự hành, máy cắt đá, máy mài đá, máy băm đá, lò quay đá và mài đá bằng tay, thì mức rủi ro là thấp. i. Mức độ nặng nhọc NLĐ vận hành máy khoan tay, khoan tự hành, máy xúc gầu, máy xúc lật, máy búa thuỷ lực, máy xẻ, máy cắt, mài mài, máy băm, mài đá thủ công và lái xe tải chịu mức rủi ro trung bình; trong khi đó, NLĐ vận hành lò quay đá, sửa chữa bảo dưỡng máy, thiết bị chỉ chịu mức rủi ro thấp. 72 k. Mức độ căng thẳng Các nghiên cứu cho thấy, NLĐ nổ mìn chịu mức rủi ro trung bình, còn NLĐ vận hành tổ hợp nghiền sàng, sửa chữa bảo dưỡng máy, thiết bị, chỉ chịu mức rủi ro thấp. Đối với 2 mối nguy là mức nặng nhọc và mức căng thẳng, chỉ có 4 mức rủi ro là cực thấp, rất thấp, thấp và trung bình; trong đó, mức rủi ro trung bình là mức cao nhất .[60] 3.1.3.5 Các biện pháp kiểm soát rủi ro tại các vị trí làm việc Đối với nhóm mức rủi ro bằng 1, 2, 3 và 4, cần phải đề xuất các biện pháp kiểm soát (BPKS) bổ sung để giảm thiểu mức rủi ro xuống mức chấp nhận được. Thứ tự ưu tiên kiểm soát là: 1 lớn hơn 2; 2 lớn hơn 3; 3 lớn hơn 4. Đối với nhóm 1, nếu chưa có BPKS triệt để hoặc có nhưng chưa đủ nguồn lực để thực hiện thì cần thực hiện ngay các BPKS tạm thời, ít nhất đưa rủi ro về mức cao, đồng thời, thực hiện thêm một số biện pháp khác như cảnh báo mối nguy, giám sát toàn thời gian và sẵn sàng ứng cứu khẩn cấp. Đối với mức rủi ro là 5, không cần bổ sung thêm các BPKS, nhưng cần phải duy trì các BPKS hiện có để đảm bảo duy trì được mức rủi ro rất thấp. Tuy vậy, khuyến khích áp dụng nếu có các BPKS đơn giản, không tốn kém nhằm tiếp tục giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp kiểm soát rủi ro bổ sung để giảm thiểu rủi ro được trình bày trong bảng 3.1 (Phụ lục III). 3.2. Phân tích CNKT phù hợp với các mỏ đá khu vực Bắc Trung Bộ 3.2.1. CNKT khi áp dụng HTKT khấu theo lớp bằng vận tải trực tiếp Hệ thống khai thác theo lớp bằng vận tải trực tiếp (Hình 3.4) là HTKT có góc bờ công tác = 0; có thể là xuống sâu hoặc không xuống sâu; tuyến công tác phát triển song song, rẽ quạt hoặc theo khoảnh; khi địa hình là núi cao thì thoát nước là tự chảy, khi địa hình bằng phẳng thì thoát nước thường là cưỡng bức; điều kiện địa hình cho phép đưa thiết bị vận tải tới tận gương khai thác. 73 Sau khi kết thúc công tác đào hào và bạt đỉnh núi tạo nên mặt bằng khai thác đầu tiên thì tiến hành cắt tầng và khai thác theo từng lớp từ trên xuống dưới, kế tiếp nhau. Chiều cao của một lớp lấy bằng chiều cao tầng. Bề rộng mặt tầng công tác lớn nhất sẽ bằng chiều rộng của núi và chiều dài bằng chiều dài của núi hoặc chiều dài khu vực khai thác theo quy định biên giới mỏ. Trong giai đoạn sản xuất bình thường, diện tích mặt tầng công tác phải đủ để đảm bảo tổ chức khai thác theo chu kỳ với các khu vực đang xúc, đã nổ mìn và đang khoan. Hình 3.4. Sơ đồ HTKT khấu theo lớp bằng vận tải trực tiếp [21, 109] Ưu điểm cơ bản của HTKT khấu theo lớp bằng vận tải trực tiếp là khả nămg cơ giới hoá cao, đáp ứng được nhu cầu sản lượng lớn, khối lượng công tác mở tầng và chuẩn bị nhỏ, điều kiện làm việc an toàn và thuận lợi, tổ chức điều hành công tác trên mỏ đơn giản và tập trung. 74 Hạn chế chủ yếu của HTKT này là khối lượng XDCB lớn, thời gian xây dựng mỏ kéo dài (đào hào, bạt ngọn núi), thi công đường hào khó khăn khi địa hình mặt đất của mỏ phức tạp, góc dốc sườn núi lớn. Đồng bộ thiết bị sử dụng trong HTKT này phụ thuộc vào quy mô sản xuất, tức là phụ thuộc vào sản lượng mỏ. Máy khoan có thể sử dụng loại các loại mũi choòng có đường kính từ 105250 mm (máy khoan đập khí nén, đập thuỷ lực, máy khoan xoay cầu), thiết bị xúc bốc có dung tích gầu từ 2,57 m3 và phối hợp với ô tô có tải trọng từ 2560 tấn hoặc hơn. 3.2.2. Công nghệ khai thác khi sử dụng HTKT khấu theo lớp bằng, vận tải qua máng (giếng) hoặc sườn núi HTKT này được áp dụng khi điều kiện địa hình núi đá phức tạp, sản lượng mỏ không cao, việc đưa thiết bị vận tải trực tiếp lên gương khai thác không kinh tế do phải chi phí quá lớn để làm đường ô tô lên núi. Thay cho việc vận tải ô tô từ các tầng khai thác trên cao xuống chân núi có thể áp dụng các hình thức vận tải bằng trọng lực - thả đá qua sườn núi (nếu cần thiết thì phải xén chân tuyến để tạo độ dốc cần thiết cho đá lăn). Đá tập trung tại chân tuyến được xúc đổ vào phương tiện vận tải nhờ máy xúc. Thiết bị xúc bóc và vận chuyển đá trên tầng, từ gương khai thác đến mép sườn núi có thể là máy xúc kết hợp với máy ủi hoặc máy chất tải bánh lốp. Ở Việt Nam, mỏ đá thuộc Công ty xi măng Bút Sơn hiện đang khai thác theo HTKT theo lớp bằng trên tầng và dùng máy ủi gạt đá xuống chân tuyến, sau đó dùng máy xúc chất lên ô tô để đưa về trạm nghiền là một thí dụ. Sau khi nổ mìn đá được chuyển xuống chân tuyến bằng máy xúc tay gầu. Việc khai thác các tầng được tiến hành theo từng lớp đứng từ ngoài vào trong, và trên mỗi lớp thì khai thác từ trên xuống dưới. Khi máy xúc dỡ tải, đá sẽ rơi lên bờ mỏ và lăn xuống bãi gom chân núi dưới tác dụng của trọng lượng bản thân. Việc chất khối lượng mỏ vào phương tiện vận tải ở mặt bằng tiếp nhận chân núi được tiến hành bằng máy xúc tay gầu hoặc máy chất tải. Gương của máy xúc được dịch chuyển dọc theo tầng trong giới hạn lớp khấu phù hợp với các thông số làm việc của nó. Sau khi khai thác xong dải khấu đầu tiên của tầng trên cùng, máy xúc được chuyển xuống tầng dưới kề đó 75 và bắt đầu một dải khấu mới. Tuyến khai thác được chia thành hai khu vực: khu vực thứ nhất dành cho máy xúc làm việc trên tầng dỡ tải đá xuống mặt bằng tiếp nhận, khu vực thứ hai dành cho máy xúc ở mặt bằng tiếp nhận chân tuyến chất đá lên phương tiện vận tải. Hình 3.5. HTKT khấu theo lớp đứng, xúc chuyển bằng máy xúc [14, 21] 1 - Lỗ khoan ; 2 - Máy xúc ở chân núi ; 3 - Ô tô Các máy xúc làm việc trên tầng di chuyển theo một hướng xác định, khoảng cách giữa chúng bằng chiều dài khu vực xúc. Khoảng cách an toàn nhỏ nhất giữa 76 máy xúc làm việc trên tầng và máy xúc làm việc trên mặt bằng tiếp nhận không được nhỏ hơn trị số tính theo biểu thức sau: Lat = sin tg.H oK , m (3.1) Trong đó: HK - chiều cao của bờ công tác, m; - góc nghiêng của bờ công tác, độ; o - góc lệch của đá lăn so với hướng lăn chính, độ. Để cho mỏ làm việc được nhịp nhàng và có hiệu quả, năng suất của máy xúc làm việc trên tầng và dưới chân tuyến phải bằng nhau. Nếu muốn chọn máy xúc làm việc trên tầng và dưới chân tuyến cùng loại thì căn cứ để chọn là điều kiện làm việc của máy xúc ở chân tuyến. *Ưu điểm: khả năng cơ giới hoá cao, có thể đáp ứng nhu cầu sản lượng lớn và điều kiện an toàn tốt hơn. *Nhược điểm: tăng khối lượng công tác mở tầng và chuẩn bị, sau mỗi lớp khấu thiết bị xúc bốc phải chuyển từ tầng thấp lên tầng cao nhất, ở giai đoạn đầu của mỗi lớp khai thác, khối lượng đá tiêu hao tạm thời để lấp đầy các đai bảo vệ lớn. 3.2.3. CNKT khi áp dụng HTKT khấu theo lớp dốc đứng, xúc chuyển bằng máy ủi Nội dung công nghệ của sơ đồ này cũng giống như sơ đồ công nghệ khấu theo lớp dốc đứng xúc chuyển bằng máy xúc, chỉ khác là máy xúc được thay bằng máy ủi để làm chức năng xúc chuyển trên tầng. Còn dưới chân tuyến vẫn sử dụng máy xúc thích hợp để chất đá lên phương tiện vận tải (Hình 3.6). Nói chung, các sơ đồ công nghệ khấu theo lớp dốc đứng xúc chuyển có khả năng sản lượng mỏ là như nhau khi dùng phương tiện xúc chuyển khác nhau, nếu trên mặt bằng tiếp nhận sử dụng thiết bị xúc bốc có năng suất như nhau. Để đảm bảo cho công tác mỏ được nhịp nhàng thì năng suất của thiết bị xúc bóc trên tầng khai thác và của thiết bị xúc bóc dưới chân tuyến phải bằng nhau. 77 Hình 3.6. HTKT khấu theo lớp dốc đứng, xúc chuyển bằng máy ủi [14, 21] 1 - Lỗ khoan ; 2 - Máy xúc đứng ở chân núi ; 3 - Ô tô 3.2.4 Công nghệ khai thác áp dụng HTKT khấu theo lớp dốc đứng, mặt tầng rộng, xúc chuyển bằng năng lượng chất nổ kết hợp thủ công Theo công nghệ này, đá được phá vỡ bằng khoan-nổ mìn lỗ nhỏ, 3 hàng, mìn nổ vi sai với chiều cao tầng 3÷5 m. Đá sau khi nổ mìn được chuyển xuống chân tuyến bằng năng lượng chất nổ kết hợp thủ công. Việc khai thác được tiến hành theo 78 từng lớp dốc đứng (độ dốc lớp khoảng ≈ 55o) từ ngoài vào trong, và khấu theo lớp bằng từ trên xuống dưới. Đá được lăn xuống bãi gom chân núi dưới tác dụng năng lượng chất nổ và trọng lượng bản thân. Bảng 3.1. Các thông số HTKT khấu theo lớp dốc đứng, mặt tầng rộng, xúc chuyển bằng năng lượng chất nổ kết hợp thủ công TT Tên chỉ tiêu Ký hiệu Giá trị Đơn vị 1 Chiều cao tầng khai thác ht 35 m 3 Chiều cao tầng kết thúc hkt 9 m 4 Góc nghiêng sườn tầng khai thác 55o độ 5 Góc nghiêng bờ công tác 5560 độ 6 Chiều rộng mặt tầng B 3,54,5 m 7 Chiều rộng khoảnh khai thác A 1,62 m 8 Đường kháng chân tầng W 1,62 m 9 Góc nghiêng sườn tầng khi kết thúc kt 7075 độ 10 Chiều rộng đai bảo vệ Bbv 1,52,5 m Ưu điểm của công nghệ này là công nhân được làm việc trên mặt bằng, có điều kiện an toàn tốt hơn, thay thế được cho công nghệ áp dụng “HTKT khai thác theo lớp dốc đứng, cắt tầng nhỏ, hất đá xuống chân tầng bằng năng lượng chất nổ”, là công nghệ mà trên thực tế không khả thi (vì nổ 1 hàng mìn thì không thể tạo ra mặt tầng). Công nghệ khai thác áp dụng HTKT khấu theo lớp dốc đứng, mặt tầng rộng, xúc chuyển bằng năng lượng chất nổ kết hợp thủ công áp dụng tốt cho hầu hết các mỏ nhỏ, trữ lượng ít, địa hình không cho phép đưa thiết bị cơ giới lên làm việc tại gương khai thác. 79 Hình 3.7. HTKT khấu theo lớp dốc đứng, mặt tầng rộng, xúc chuyển bằng năng lượng chất nổ kết hợp thủ công [14, 21, 109] 3.3. Các giải pháp công nghệ khai thác hợp lý cho các mỏ đá địa hình núi cao khu vực Bắc Trung Bộ Hiện nay đã có nhiều công trình khoa học trong và nước của nhiều tác giả đề cập tới việc phân loại mỏ. Tùy theo mục đích phân loại, cách tiếp cận trên các phương diện khác nhau mà có nhiều cách phân loại. Dưới đây là kết quả thống kê và phân tích các phương pháp phân loại mỏ của các tác giả, các văn pháp quy cũng như các sơ đồ công nghệ khai thác được đề phổ biến đề xuất áp dụng. 80 Với các loại hình đồi núi, các hệ thống khai thác có thể áp dụng như sơ đồ công nghệ nêu tại Hình 1.6 và các hệ thống công nghệ như sau: 3.3.1. HTKT theo lớp đứng, cắt tầng nhỏ vận chuyển đá bằng năng lượng nổ a) Đặc điểm Đối với công nghệ này tuyến khai thác được chia làm hai phần: phần thứ nhất ứng với công tác nổ mìn trên tầng, phần thứ hai trên mặt tầng tiếp nhận ở dưới chân tuyến. Sau khi kết thúc thời kỳ xây dựng cơ bản thì sườn núi đã được xén chân tuyến, hình thành một độ dốc cần thiết để đảm bảo cho đá lăn từ trên tầng xuống chân tuyến và mặt tầng có chiều rộng 3,5÷4,5 m. Mỏ được khai thác từ theo từng lớp đứng lần lượt theo từng tầng từ trên xuống dưới, hết lớp ngoài vào lớp trong. Đất đá sau khi nổ mìn được hất xuống sườn núi. Khoảng 15÷20% đá lưu lại trên các đai bảo vệ sẽ lần lượt được dọn sạch bằng thủ công khi chuẩn bị khai thác đến tầng đó. Đá dưới chân tuyến được xúc bốc bằng máy xúc và chuyên chở bằng ôtô về trạm chế biến. b) Sơ đồ công nghệ khai thác ¤t« tù ®æ M¸y Xóc 1, 2, 3... - Tr×nh tù khÊu c¸c tÇng tõ trªn xuèng d-íi I, II, ... - Tr×nh tù khÊu c¸c líp tõ ngoµi vµo trong A - A I 6 7 II 5 A 4 3 2 1 bv 81 M¸y Xóc ¤t« tù ®æ A A Hình 3.8. HTKT khấu theo lớp đứng, cắt tầng nhỏ, vận chuyển đất đá bằng năng lượng nổ mìn [14, 21] c) Ưu nhược điểm và điều kiện áp dụng HTKT - Ưu điểm: Đầu tư cơ bản nhỏ, thời gian xây dựng mỏ ngắn, không đòi hỏi các thiết bị đắt tiền, phù hợp với điều kiện địa hình phức tạp, sườn dốc khó khăn trong việc đưa thiết bị lên núi, tổ chức công tác đơn giản. - Nhược điểm: Sản lượng không cao, năng suất lao động thấp, công việc thủ công trên tầng còn nhiều, điều kiện an toàn còn kém. Bên cạnh đó kĩ thuật tạo tầng còn chưa hoàn thiện, tỉ lệ đá lưu trên mặt tầng còn nhiều. - Điều kiện áp dụng: áp dụng cho mỏ có công suất nhỏ, địa hình phức tạp, không có điều kiện đưa thiết bị khai thác. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, hầu hết các mỏ đá nhỏ đang áp dụng hệ thống khai thác này đều không tuân thủ thiết kế được phế duyệt, hầu như không duy trình được cắt tầng như thiết kế do điều kiện địa chất và khả năng kỹ thuật của mỏ. Do đó đã xảy ra nhiều tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng khi áp dụng hệ thống công nghệ này. Việc áp dụng hệ thống công nghệ này cần được xem xét kỹ và cần thiết điều chỉnh từ quy chuẩn kỹ thuật để quá trình áp dụng khả thi trong thực tế. 82 3.3.2. HTKT theo lớp đứng, xúc chuyển bằng máy xúc thủy lực a) Đặc điểm Theo công nghệ này, tuyến khai thác được chia làm 2 phần: phần thứ nhất ứng với máy xúc làm việc trên tầng, phần thứ 2 trên mặt bằng tiếp nhận ở chân tuyến. Sau khi kết thúc thời kỳ xây dựng cơ bản (XDCB), sườn núi đã được xén chân tuyến, hình thành một độ dốc cần thiết đảm bảo cho dá lăn từ trên tầng xuống chân tuyến. Sau khi nổ mìn trên tầng đá được chuyển xuống chân tuyến không phải chủ yếu bằng năng lượng nổ mìn mà bằng máy xúc. Việc khai thác các tầng trên được tiến hành theo từng lớp đứng từ ngoài vào trong và trên mỗi lớp từ trên xuống dưới. Khi dỡ gầu đất đá đất đá sẽ rơi lên bờ mỏ và lăn xuống dưới nhờ tác dụng của trọng lực. Sau khi khai thác xong dải khấu đầu tiên của tầng trên cùng máy xúc được di chuyển xuống tầng dưới kề đó và bắt đầu một dải khấu mới. Đất đá tập hợp ở dưới chân tuyến được xúc lên thiết bị vận tải bằng máy xúc hoặc máy chất tải. Bảng 3.2. Các thông số HTKT khấu theo lớp đứng, xúc chuyển bằng máy xúc thủy lực TT Tên chỉ tiêu Ký hiệu Giá trị Đơn vị 1 Chiều cao tầng khai thác ht 33,5 m 3 Chiều cao tầng kết thúc hkt 9 m 4 Góc nghiêng sườn tầng khai thác ỏ 75 độ 5 Góc nghiêng bờ công tác 5560 độ 6 Chiều rộng mặt tầng B 3,54,5 m 7 Chiều rộng khoảnh khai thác A 1,6 2 m 8 Đường kháng chân tầng W 1,62 m 9 Góc nghiêng sườn tầng khi kết thúc kt 7075 độ 10 Chiều rộng đai bảo vệ Bbv 1,52,5 m b) Sơ đồ công nghệ khai thác Sơ đồ công nghệ khai thác được thể hiện như trong Hình 3.9. 83 M¸y Xóc M¸y Xóc ¤t« A - A H d Bd A bv M¸y Xóc M¸y Xóc ¤t« M¸y khoan A A Lkn Lxb Hình 3.9. HTKT khấu theo lớp đứng, xúc chuyển đất đá bằng máy xúc [14, 21] 84 c) Ưu nhược điểm và điều kiện áp dụng - Ưu điểm: công nghệ khai thác này là khả năng cơ giới hoá cao, có thể đáp ứng nhu cầu sản lượng lớn và điều kiện an toàn tốt hơn. - Nhược điểm: làm tăng khối lượng công tác mở tầng và chuẩn bị (sau mỗi lớp khấu thiết bị xúc bốc phải di chuyển từ tầng thấp nhất lên tầng cao nhất. ở giai đoạn đầu của mỗi lớp khai thác, khối lượng tiêu hao tạm thời để lấp đầy các đai bảo vệ là khá lớn. - Điều kiện áp dụng: mỏ có yêu cầu sản lượng cao, điều kiện địa hình có thể đưa thiết bị xúc bốc lên tầng làm việc. 3.3.3. HTKT theo lớp bằng, vận tải trực tiếp a) Đặc điểm Đối với công nghệ này, phải tiến hành đào tuyến đường hào đưa thiết bị xúc bốc và thiết bị vận tải lên trực tiếp mặt tầng công tác. Sau khi kết thúc công tác đào hào và bạt ngọn (tạo ra mặt bằng công tác tối thiểu cho thiết bị xúc bốc và vận tải làm việc) tiến hành khai thác cắt tầng theo từng lớp (với = 0) từ trên xuống dưới, kế tiếp nhau. Bảng 3.3. Các thông số hệ thống khai thác lớp bằng vận tải trực tiếp TT Chỉ tiêu Đơn vị Giá trị 1 Chiều cao tầng bóc đất - Khi sản xuất (H) - Khi kết thúc (HKT) m m 10 1530 2 Chiều rộng mặt tầng công tác tối thiểu m 25 3 Chiều rộng đai vận tải m 911 4 Chiều rộng mặt tầng kết thúc m 57 5 Chiều rộng dải khấu A m 910 6 Góc dốc sườn tầng ( ) độ 75 7 Góc nghiêng bờ kết thúc độ 4560 85 b) Sơ đồ công nghệ Sơ đồ công nghệ khai thác được thể hiện như trong Hình 3.10. m¸ y x ó c t h u û l ù c « t « t ù ®æ +370 Bct h +380 +410 +440 Hkt A - A m¸ y x ó c t h u û l ù c « t « t ù ®æ +370 +380 +380 +410 +440 A A Hình 3.10. HTKT khấu theo lớp bằng vận tải trực tiếp [14, 21] c) Ưu nhược điểm và điều kiện áp dụng - Ưu điểm: khả năng cơ giới hoá cao, đáp ứng
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_giai_phap_giam_thieu_nguy_co_mat_an_toan.pdf
Thong tin tom tat ve KL moi cua LATS.pdf
Tom tat LATS T.Anh.pdf
Tom tat LATS T.Viet.pdf