Luận án Nghiên cứu giải pháp xử lý rơm nhằm cải thiện môi trường đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long

Luận án Nghiên cứu giải pháp xử lý rơm nhằm cải thiện môi trường đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu giải pháp xử lý rơm nhằm cải thiện môi trường đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu giải pháp xử lý rơm nhằm cải thiện môi trường đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu giải pháp xử lý rơm nhằm cải thiện môi trường đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu giải pháp xử lý rơm nhằm cải thiện môi trường đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu giải pháp xử lý rơm nhằm cải thiện môi trường đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu giải pháp xử lý rơm nhằm cải thiện môi trường đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu giải pháp xử lý rơm nhằm cải thiện môi trường đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu giải pháp xử lý rơm nhằm cải thiện môi trường đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu giải pháp xử lý rơm nhằm cải thiện môi trường đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 127 trang nguyenduy 17/06/2025 110
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu giải pháp xử lý rơm nhằm cải thiện môi trường đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu giải pháp xử lý rơm nhằm cải thiện môi trường đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long

Luận án Nghiên cứu giải pháp xử lý rơm nhằm cải thiện môi trường đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long
và góp phần gây hiệu ứng nhà kính do thải các khí độc như CO, CO2, NOx, 
CH4, H2S,... và có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe con người và cả hệ sinh thái 
(Gadde et al, 2009;Trương Thị Nga và ctv., 2013). 
Việc lựa chọn ngẫu nhiên các hộ phỏng vấn với diện tích đất canh tác khác 
nhau cho thấy được xu hướng sử dụng rơm chung cho cả khu vực nghiên cứu. Vụ 
Đông Xuân năm 2013, phần lớn nông dân trong khu vực khảo sát đều chọn xử lý 
rơm bằng hình thức đốt rải. Tất cả nông hộ cho rằng không còn đốt đồng như trước 
do sử dụng máy gặt đập liên hợp rơm được trải đều trên mặt ruộng, do vậy đốt đồng 
là giải pháp nhanh nhất để tăng vụ. 
Sau khi thu hoach, khi thời tiết thuận lợi người nông dân tiến hành đốt đồng. 
Tùy theo diện tích ruộng nhiều hay ít, thời gian cháy kéo dài khoảng 10 phút đến 2 
giờ. Vụ Đông Xuân do rơm đã được phơi khô nên cháy rất nhanh, trong quá trình đốt 
đồng bố trí dụng cụ và người quan sát để tránh cháy lan và ngược lại vụ Xuân Hè và 
vụ Hè Thu mưa nhiều rơm ướt và khó đốt hơn. Hầu hết các hộ dân được phỏng vấn 
đều canh tác lúa ngắn ngày 85-90 ngày chủ yếu là các giống IR50404, OM4900... 
việc xuống giống đồng loạt theo lịch của ngành nông nghiệp địa phương, nên toàn 
khu vực đốt rất nhanh kết thúc sau 1-2 ngày. Tùy theo cơ cấu đất ruộng mà mỗi hộ 
sẽ xới đất hay không xới đất để gieo trồng vụ tiếp theo. Tuy nhiên, do trong nông 
dân có sẵn tính cạnh tranh về năng suất nên sau khi đốt họ vẫn xới đều. Bên cạnh đó 
việc sử dụng máy gặt đập liên hợp trong thu hoạch thì đốt đồng sẽ không chết hết rạ 
nên phải xới trước khi sạ. Theo ý kiến của nông dân mục đích chính của việc đốt 
đồng như: (1) Tiêu diệt mầm bệnh, sâu bọ còn trên ruộng và đốt hết lượng lúa lép, 
lúa lộn còn sót lại trên rơm; (2) Sử dụng lượng tro sau khi đốt làm phân bón cho lúa, 
hạ phèn cho ruộng; (3) làm sạch ruộng để gieo trồng vụ sau. Một số ý kiến khác cho 
rằng, đốt đồng cũng giúp giảm lượng phèn, cung cấp tro, làm chết sâu bọ và các mầm 
50 
bệnh gây hại cho lúa. Tập quán đốt đồng rạ sau khi thu hoạch đã có từ khi người dân 
chuyển từ trồng lúa 1 vụ sang 2 vụ/năm. Tập quán này càng trở nên phổ biến khi quá 
trình canh tác liên tục 3 vụ/năm, có những nơi quay vòng liên tục, nhất là khu vực 
trong đê bao lũ. Theo kết quả khảo sát, khi chuyển sang sản xuất lúa 3 vụ từ những 
năm 1985 và việc đốt đồng bắt đầu từ những năm 1979-1980, người dân phải đốt 
đồng nhanh chóng sau thu hoạch để vệ sinh đồng ruộng và chuẩn bị cho vụ lúa sau. 
Các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Chợ Gạo, Gò Công Tây thuộc tỉnh Tiền Giang đã cơ 
giới hóa nông nghiệp nên chủ yếu đốt theo phương thức rải đều khi máy cắt phun ra, 
trừ khi mùa mưa không đốt rải được thì nông dân gom đống và đốt. 
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng nông dân chưa có giải pháp xử lý rơm 
phù hợp với điều kiện canh tác trong khu vực, việc nghiên cứu tìm ra phương thực 
xử lý là một hướng đi phù hợp với ý kiến của người dân. 
Sau khi thu hoạch vụ Xuân Hè và Hè Thu, người dân cũng rải rơm ra phơi và 
đốt. Tuy nhiên, thời điểm thu hoạch vụ Hè Thu thường là vào mùa mưa, đôi khi lại 
gặp lũ sớm nên nông dân không xử lý rơm bằng cách đốt rải hoặc sẽ gom đống và 
đốt hoặc bỏ rơm để lại trên đồng phân hủy tự nhiên. Theo Ngô Ngọc Hưng (2009) 
việc để rơm lại trên đồng phân hủy tự nhiên sẽ mang đến năng suất cao hơn so với 
mang rơm ra khỏi ruộng nếu được thực hiện đầy đủ trong một số mùa vụ nhất định. 
Nếu xét trong thời gian ngắn việc bỏ rơm lại trên đồng hay vùi xuống đất làm giảm 
năng xuất lúa tuy nhiên vài năm tiếp theo năng suất sẽ tương đương hay cao hơn. 
4.1.2 Các hình thức sử dụng rơm rạ khác 
 Tại huyện Chợ Gạo người dân tận dụng rơm làm thức ăn gia súc, làm nấm, 
trồng dưa trong mùa Đông Xuân. Các huyện còn lại trong khu vực nghiên cứu chọn 
xử lý rơm bằng cách đốt phổ biến chiếm trên 92% cả trong ba mùa vụ Đông Xuân, 
Xuân Hè và Hè Thu. 
4.1.2.1 Sử dụng rơm trong chăn nuôi 
Rơm có thể dung làm thức ăn cho gia súc, khi nguồn cỏ tươi khan hiếm vào 
mùa khô, rơm là nguồn thức ăn thay thế rất tốt. Kết quả điều tra ở huyện Chợ Gạo 
và Gò Công Tây người dân tận dụng phần lớn rơm rạ dự trữ cho chăn nuôi gia súc, 
những hộ chăn nuôi nhiều thường mua rơm từ những hộ khác không chăn nuôi. Khảo 
sát thực tế, chăn nuôi bò nhiều nhất ở huyện Chợ Gạo, vì vậy lượng rơm được dùng 
cho chăn nuôi chủ yếu là rơm rạ tại địa phương và cũng sử dụng rơm của vụ Đông 
Xuân. Do lượng rơm được sử dụng cho chăn nuôi ít tại các huyện khác trong khu 
vực, nên lượng rơm còn lại tại các huyện khác trong khu vực rất lớn và được xử lý 
51 
bằng cách đốt. 
Sử dụng rơm cho chăn nuôi gia súc đem lại hiệu quả kinh tế cho người nông 
dân. Tuy nhiên chăn nuôi bò phụ thuộc rất lớn vào địa hình và thời tiết, nên những 
vùng chuyên canh cây lúa trong vùng lũ chăn nuôi bò gặp nhiều khó khăn. Do đó sử 
dụng rơm trong chăn nuôi bò không đáng kể so với lượng rơm sinh ra hàng năm. 
 4.1.2.2 Sử dụng rơm trồng dưa và các cây trồng cạn khác 
Rơm có thể được dùng để phủ lên mặt đất trồng hoa màu. Việc phủ rơm có 
tác dụng làm giảm sự bốc hơi nước từ đất, làm tăng lượng nước thấm vào đất và làm 
cho đất không bị xói mòn, tăng cường cung cấp chất hữu cơ cho đất. 
Kết quả khảo sát cả khu vực chỉ có từ 4-18% hộ trồng dưa. Trồng dưa và hoa 
mùa sau các vụ lúa không được phổ biến trong khu vực khảo sát. Do đó dù có hiểu 
biết về việc sử dụng rơm để trồng dưa và hoa mùa có nhiều lợi ích nhưng lượng rơm 
sau thu hoạch được sử dụng trồng dưa rất ít, chỉ có một số ít trường hợp người dân 
sử dụng rơm để trồng dưa tại địa phương. 
Việc trồng dưa đem lại lợi nhuận không nhỏ, tuy nhiên chỉ có lãi đối với những 
người có kinh nghiệm, trồng dưa nhiều năm. Do đó, lượng rơm sử dụng không đáng 
kể so với lượng rơm sinh ra sau mỗi vụ mùa vì diện tích trồng dưa không lớn mặc dù 
trong trồng dưa lượng rơm được sử dụng nhiều. Bên cạnh đó, hiện nay người trồng 
dưa sử dụng màng phủ nông nghiệp chỉ sử dụng một lượng nhỏ rơm để bảo vệ trái, 
do đó lượng rơm được giữ lại trong trồng dưa rất thấp. 
4.1.2.3 Tận dụng rơm trồng nấm 
Nấm rơm không chỉ là nguồn thu nhập thêm cho người nông dân nghèo mà 
còn là sản phẩm có thể mang lại lợi ích đáng kể nhờ vào xuất khẩu. Sử dụng rơm sau 
trồng nấm bón vào đất trồng lúa làm tăng năng suất và tăng hiệu quả kinh tế. Theo 
kết quả khảo sát, trồng nấm chiếm tỷ lệ rất nhỏ chỉ xuất hiện đơn lẻ ở một số hộ của 
huyện Chợ Gạo và Gò Công Tây. Tỉ lệ trồng nấm đạt 6% ở huyện Chợ Gạo và 3% ở 
huyện Gò Công Tây. Đối với một số hộ, việc trồng nấm chỉ mang tính chất tạm thời 
tận dụng rơm không phải là hoạt động chuyên nghiệp, vì các hộ chủ yếu là trồng lúa. 
4.1.2.4 Vùi rơm hoặc để rơm trên ruộng phân hủy tự nhiên 
Kết quả khảo sát cho thấy biện pháp vùi rơm hay bỏ rơm trên đồng để phân 
hủy tự nhiên được áp dụng ở hai huyện Cái Bè và Cai Lậy khi mùa lũ tới. 
Trong giai đoạn ngắn thì vùi rơm đem lại năng suất thấp hơn so với đốt đồng, 
đây là nguyên nhân có ít những hộ nông dân vùi rơm nhằm cung cấp chất hữu cơ cho 
52 
đất. Do quá trình phân hủy rơm trong đất việc lấy đi lượng đạm của đất, việc sinh ra 
nhiều chất ức chế quá trình phát triển của lúa cũng là nguyên nhân làm giảm năng 
suất. Tuy nhiên, phải thực hiện vài năm sau đó thì biện pháp vùi rơm mới cho năng 
suất hạt tương đương hoặc cao hơn so với đốt đồng. Ngoài ra vùi rơm còn làm làm 
tăng tính hữu dụng của các nguyên tố khác như kali, lân. Vùi rơm còn giúp cải thiện 
các tính chất vật lý đất, tăng chất hữu cơ trong đất. Tuy nhiên, có thể trong điều kiện 
yếm khí thì vùi rơm có thể sinh CH4. 
Kết quả điều tra cho thấy có đến 25% nông hộ ở huyện Cái Bè bỏ rơm phân 
hủy tự nhiện trên đồng ruộng vào vụ Hè Thu và 54% nông hộ ở huyện Cai Lậy bỏ 
rơm phân hủy tự nhiên trên ruộng lúa. Việc vùi rơm hoặc bỏ tự nhiên trên đồng chỉ 
thực hiện khi mùa lũ đến. Vùng ĐBSCL có đến 3 tháng lũ nên với chừng đó thời 
gian thì đủ để rơm phân hủy và cung cấp chất hữu cơ cho đất. Do đó, rơm phân hủy 
tự nhiên là một lựa chọn cho phương pháp xử lý rơm trong mùa lũ của nông dân. 
4.1.3 Lượng rạ còn lại sau thu hoạch 
Quá trình canh tác thâm canh lúa của nông dân thải ra một lượng lớn rơm rạ. 
Việc xác định sinh khối rơm, rạ trên một đơn vị diện tích là cơ sở để ước tính lượng 
phát thải các khí gây ô nhiễm môi trường trong quá trình đốt đồng sau mỗi vụ thu 
hoạch cũng như lượng rạ còn lại sau quá trình đốt. 
Việc xác định chiều cao rạ làm cơ sở cho việc ước lượng rơm rạ còn lại trên 
ruộng lúa sau thu hoạch và sau khi đốt, cũng như đánh giá ảnh hưởng lên tính chất 
đất của việc đốt đồng. 
Kết quả phỏng vấn trong các huyện có truyền thống thâm canh cây lúa nhất là 
huyện Cái Bè, huyện Cai Lậy người dân trồng chủ yếu các giống lúa IR50404 và 
OM4900, riêng ở huyện Chợ Gạo và Gò Công Tây chủ yếu sử dụng giống C10 và 
IR5451. Kết quả khảo sát chiều cao và khối lượng rạ nhằm ước lượng được lượng rạ 
còn lại sau đốt đồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy người nông dân chọn các giống 
có chiều cao thấp và thời gian sinh trưởng ngắn, nhằm tránh đổ ngã. 
Kết quả nghiên cứu được thể hiện qua (Bảng 4.2): 
53 
Bảng 4.2: Chiều cao rạ, khối lượng rạ còn lại trên ruộng lúa vụ Đông xuân 
 Kết quả nghiên cứu trên cho thấy, lượng rạ còn lại trên ruộng sau khi đốt 
đồng phụ thuộc vào tình trạng ruộng lúa đứng hay đổ ngã. Do đó, tình trạng lúa đổ 
ngã sẽ ảnh hưởng lên lượng rạ còn lại sau khi thu hoạch, đối với ruộng đổ ngã lượng 
rơm phát sinh nhiều và bị đốt đi nhiều do máy cắt hạ thấp thiết bị cắt, trường hợp này 
rạ còn lại trên ruộng sau khi đốt sẽ ít đi. 
Ở vụ Đông Xuân, do điều kiện thời tiết trời nắng, ruộng khô nên thuận lợi cho 
việc gặt bằng máy và đốt đồng. Vụ Xuân Hè và Hè Thu trời mưa nhiều, ruộng ướt, 
lúa hay đổ ngã việc gặt bằng máy gặp nhiều khó khăn nên đa số người dân phải phụ 
thuộc rất nhiều vào thời tiết và thương lái mua lúa. 
Nếu không đốt đồng thì mỗi mùa vụ có thể bổ sung, cung cấp lại cho đất chất 
hữu cơ và nhiều lợi ích khác của chất hữu cơ đối với đất. Theo Brady (1996) nếu đốt 
5 tấn rơm sẽ làm mất đi 45 kg N, 2 kg P, 25 kg K và khoảng 2 kg S. Kết quả nghiên 
cứu cho thấy, sau khi đốt rạ cháy một phần, phần còn lại sẽ phân hủy tại chỗ hoặc sẽ 
được xới vùi vào đất và theo kết quả điều tra hầu hết người dân chuẩn bị vụ mùa mới 
đều xới đất giúp cho quá trình vùi rạ xuống đất triệt để. Trước khi đốt rạ trên đồng 
trung bình mùa Đông Xuân là 3,67 tấn/ha, sau đốt còn lại 2,83 tấn/ha và trong điều 
kiện khô kiệt thì lượng rạ ước tính khoảng 1,11 tấn/ha. Đây là lượng chất hữu cơ bổ 
sung cho đất sau thu hoạch lúa. 
4.1.4 Sử dụng phân bón 
Phân bón được xem như là một nhân tố quan trọng quyết định đến việc hình 
thành rễ cũng như việc đẻ nhánh ở cây lúa và hình thành các yếu tố cấu thành nên 
năng suất lúa: số bông, số gié/bông, số hạt, tỉ lệ hạt chắc/lép Lượng phân bón phụ 
thuộc rất lớn vào thành phần dinh dưỡng trong đất, tuổi lúa và mùa vụ. Ở giai đoạn 
mạ, cây lúa cần phân bón để thúc đẩy sự hình thành bộ rễ (lúa từ 10-15 ngày), giai 
đoạn lúa từ 30-40 ngày thì phân bón rất cần thiết cho sự đẻ nhánh, giai đoạn từ 50-
60 ngày thì cây lúa rất cần phân bón để trổ bông và hình thành hạt. Đối với những 
vụ có lượng mưa ít thì phân bón là điều không thể thiếu cho cây lúa, do đó phân bón 
tiêu hao rất nhiều. Trái lại, đối với những vụ có mưa thì có thể tiết kiệm được một 
lượng phân vì trong nước mưa vẫn có một hàm lượng nhất định của chất dinh dưỡng 
cung cấp cho cây lúa. 
Đặc điểm ruộng lúa Chiều cao (cm) Rạ tươi (g/m2) Rạ sau đốt (g/m2) 
Lúa đứng 22,55±6,10 467,5±26,38 372,3±19,65 
Lúa đổ ngã 11,46±1,92 272,7±68,76 214,2±61,53 
54 
Đối với vụ Đông Xuân và Hè Thu thì lượng phân bón được sử dụng phổ biến 
là 430 kg/ha (bao gồm phân Urê, DAP, K, NPK (20-20-0; 20-20-15; 16-16-8)) . Do 
đặc điểm của canh tác lúa 3 vụ làm cho đất ngày càng nghèo dinh dưỡng nên lượng 
phân bón được sử dụng nhiều ở vụ 2 và vụ 3 (Vụ sau tăng 25% mỗi loại; rước mầm: 
30kg Ure/ha) 
 Kết quả điều tra cho thấy nông dân thường bón phân 3 lần/vụ, tuy nhiên nếu 
lúa có màu xấu, phát triển kém thì bón phân thêm lần 4: 
Lần 1. (50 Ure + 100 DAP )/ha hay (41 kgN/ha + 46 kgP) 
Lần 2. (50 Ure + 50 DAP + 30 Kali)/ha hay (32 kgN/ha + 23 kgP + 18 kgK/ha) 
Lần 3. (50 Ure + 50 DAP + 50 Kali )/ha hay (32 kgN/ha + 23 kgP + 30 kgK/ha) 
Lần 4. (30 Ure + 30 Kali )/ha hay (13,8 kg N/ha + 18 kg K/ha) 
 Lượng phân sử dụng trung bình: (150 Ure + 200 DAP + 80 Kali )/ha/vụ tương 
đương (105 kg N + 92 kg P + 48 kg K)/ha/vụ (Với Ure: 46% N, DAP: 18 N: 46 P, 
Kali: 60% K). Lượng phân đạm sử dụng trong khu vực thuộc mức từ 60-80 
kgN/ha/vụ chiếm 38 %, lượng phân đạm từ 80-100 kgN/ha/vụ cũng chiếm tỉ lệ tương 
đối cao (46,7%). Theo Ngô Ngọc Hưng et al., (2004) liều lượng đạm thích hợp cho 
lúa trên các vùng đất phèn trung bình và nhẹ là 80-100 kgN/ha/vụ. 
Bảng 4.3. Nông dân sử dụng phân Lân và Kali trong khu vực nghiên cứu 
Lượng phân sử dụng (Kg/ha/vụ) 70 
Hộ dân sử dụng phân Lân (%) 11,7 16,7 41,6 30.0 
Hộ dân sử dụng phân Kali (% ) 33,3 30,0 25,0 11,7 
Hộ nông dân sử dụng phân lân từ 50-70 kgP/ha/vụ chiếm tỉ lệ cao. Khoảng 30% 
số hộ được phỏng vấn cho rằng họ đã sử dụng nhiều hơn 70 kg P2O5/ha/vụ. Mức độ 
sử dụng phân Kali dao động dưới 50 kg K2O5/ha/vụ chiếm số lượng cao cho thấy 
người dân có chú trọng đến việc cung cấp kali cho đất. 
4.1.5 Hình thức thu hoạch 
Trước đây người dân thu hoạch lúa chủ yếu là bằng tay, trong quá trình thu 
hoạch khó tránh khỏi thất thoát nên làm ảnh hưởng đến sản lượng lúa. Hiện nay, do 
phát triển của khoa học kỹ thuật nên việc thu hoạch lúa trở nên rất dễ dàng. Máy gặt 
đập liên hợp giúp cho nông dân có thể tiết kiệm được thời gian và nhân công khi thu 
hoạch lúa. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cũng có thể áp dụng được hình 
thức thu hoạch hiện đại này. 
Việc thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp phụ thuộc rất lớn vào độ chặt nền 
đất ruộng. Nếu đất quá mềm thì máy gặt đập sẽ không thể di chuyển để cắt lúa. Chính 
55 
vì thế, đối với những vùng đất có nền ruộng mềm thì thu hoạch lúa bằng tay là lựa 
chọn ưu tiên. Kết quả phỏng vấn cho thấy thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp 
chiếm 97,7%. 
Thu hoạch bằng máy đem lại nhiều lợi ích cho người dân, tuy nhiên việc thu 
gom rơm lại rất tốn công sức do đặc thù của máy là phun rải đều rơm lên ruộng. Do 
đó, đối với những hộ thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp thì tất cả đều sử dụng biện 
pháp đốt đồng để xử lý rơm rạ. Ngược lại, thu hoạch bằng tay tuy tốn công sức và 
chi phí thuê mướn nhân công nhưng rơm sau khi thu hoach lúa có thể dễ dàng thu 
gom để trồng nấm hay để sử dụng vào các mục đích khác. 
4.1.6 Năng suất lúa 
Năng suất được nông dân xem như là yếu tố để đánh giá tính hiệu quả của vụ 
gieo trồng. Năng suất càng cao thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại. Vụ Đông 
Xuân được xem như là vụ chính của người nông dân nên việc chăm sóc cánh đồng 
lúa vào vụ Đông Xuân cũng được người dân đặc biệt quan tâm. Người nông dân cho 
rằng “Vụ Đông Xuân thuận lợi, không cần chăm sóc nhiều nhưng lúa vẫn rất đạt 
năng suất và rất ít sâu bệnh phá hại mùa màng”. 
Vụ Đông Xuân có năng suất lúa rất cao: Có 86,7% số hộ đạt năng suất từ 6-8 
tấn/ha 5% số hộ đạt năng suất trên 8 tấn/ha. Vụ Hè Thu và Thu Đông năng suất đạt 
rất thấp. Có 73,3% nông hộ đạt năng suất 2-6 tấn/ha vụ Hè Thu và 83,3% nông hộ 
đạt năng suất 4-6 tấn/ha vụ Thu Đông.. 
Vụ Hè Thu thường có nắng gắt, cuối vụ thường có mưa, vụ Thu Đông thường 
mưa nhiều, các yếu tố thời tiết trên đều ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển cây 
lúa, năng suất và chẩm chất gạo giảm. Đất thiếu chất dinh dưỡng cũng ảnh hưởng 
đến năng suất lúa. Đồng thời, việc canh tác nhiều vụ lúa/năm mà không bổ sung đầy 
đủ dinh dưỡng cho đất sẽ làm độ phì nhiêu đất giảm, làm giảm năng suất lúa. Vì vậy, 
cần tạo thời gian nghĩ cho đất giữa các mùa vụ và bón phân hữu cơ, cải tạo đất là vấn 
đề cần thiết để nâng cao năng suất cây trồng. 
4.1.7 Lợi nhuận trong canh tác lúa 
Qua kết quả lợi nhuận thể hiện qua hình 4.2 cho thấy, Vụ Đông Xuân có 81,7% 
hộ đạt lợi nhuận 10-15 triệu/ha và có 8,3% số nông hộ đạt >15triệu/ha. Vụ Hè Thu 
có tới 75% hộ đạt lợi nhuận < 10 triệu/ha và chỉ có 20% hộ đạt 10-15 triệu/ha. Vụ 
Thu Đông có 85% hộ đạt lợi nhuận <10 triệu/ha và 10% hộ đạt 10-15 triệu/ha. Từ 
lợi nhuận thu được của nông dân cho thấy rằng, vụ Đông Xuân là vụ có mức lợi 
nhuận cao. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với kết quả năng suất lúa đạt được. 
56 
10.0
81.7
8.3
75.0
20.0 5.0
85.0
10.0 5.0
< 10 triệu/ha
10-15 triệu/ha
> 15 triệu/ha
Hình 4.1. Lợi nhuận thu được sau khi thu hoạch lúa của nông dân 
4.1.8 Những thuận lợi và hạn chế của các biện pháp xử lý rơm của nông dân 
Trong quá trình sản xuất lúa, việc quản lý và xử lý rơm rạ sau thu hoạch tùy 
theo từng thời tiết, chế độ thủy văn, từng địa phương, từng vùng. Mỗi khu vực, mỗi 
vùng sản xuất lúa có truyền thống, kỹ thuật xử lý khác nhau. Có những vùng giữ rơm 
trồng nấm, cho gia súc ăn hay có những vùng chỉ đốt đồng hoặc bỏ lại trên đồng 
ruộng. Trong mỗi phương pháp quản lý hay xử lý rơm sẽ có những thuận lợi và bất 
lợi đối với môi trường và nhất là tính chất đất. 
Các phương pháp xử lý đều mang lại những thuận lợi và lợi ích. Tuy nhiên 
bên cạnh cũng còn nhiều bất lợi, nếu như đốt đồng có kiểm soát như một số nước 
tiên tiến đã làm thì vấn đề ô nhiễm sẽ giảm. 
Đốt đồng có thể tiêu diệt mầm bệnh, côn trùng gây hại, xử lý rơm thừa nhanh, 
triệt để. Tuy nhiên, gây ô nhiễm môi trường. 
Để rơm trên ruộng cung cấp chất hữu cơ cho đất, tuy nhiên thởi gian phân hủy 
chậm trong tự nhiên. 
Chăn nuôi có thể tận dụng lượng rơm rạ bỏ đi, hạn chế được phần nhỏ việc 
đốt đồng như tại huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Tuy nhiên, sẽ làm mất dần nguồn 
chất hữu cơ bổ sung cho đất. 
Chăn nuôi cũng góp phần vào giảm đốt đồng tuy nhiên do nguyên nhân chủ 
quan và khách quan, chăn nuôi bò ở ĐBSCL chưa phát triển mạnh do tập quán chăn 
nuôi và địa hình ngập lũ thường xuyên. 
Trồng nấm là một giải pháp vừa mang lại hiệu quả kinh tế vừa hạn chế ô 
nhiễm môi trường do đốt đồng, vừa trả lại chất hữu cơ cho đất nếu bón phân sau 
trồng nấm cho ruộng lúa. Tuy nhiên, yếu tố chủ quan người nông dân chưa hiểu biết 
nhiều về trồng nấm và thị trường nấm cũng chưa ổn định. Việc trồng nấm còn phụ 
Đông Xuân Hè Thu Thu Đông 
57 
thuộc nhiều yếu tố như địa hình, khí tượng thủy văn và tập quán sống nên mô hình 
trồng nấm rơm khó phát triển. 
Ủ phân compost là hình thức xử lý rơm hiệu quả đối với môi trường không 
khí và cả môi trường đất, là nguồn cung cấp chất hữu cơ cho đất hạn chế bệnh cho 
cây trồng. Tuy nhiên, với đặc điểm địa hình khác với các tỉnh Miền Bắc và Miền 
Trung, vì ĐBSCL nước lũ thường xuyên và kéo dài việc ủ phân compost từ rơm trên 
đất rất khó thực hiện. Bên cạnh khan hiếm nguồn lao động và kỹ thuật ủ phân 
compost chưa phổ biến với người dân nên hình thức xử lý này chưa được người dân 
ĐBSCL áp dụng. 
Tóm lại: 
Kết quả nghiên cứu cho thấy các hình thức sử dụng rơm chủ yếu là: chăn nuôi, 
bán cho chăn nuôi, trồng nấm, trồng dưa, đốt và để rơm phân hủy tự nhiên (bỏ rơm 
trên đồng hay xới vào đất khi lũ tới). Vụ Đông Xuân trong khu vực được khảo sát có 
92-97% ý kiến trả lời của người dân ở các huyện khảo sát đều đốt đồng sau khi thu 
hoạch trong vụ đông xuân, trừ huyện Chợ Gạo tận dụng tốt nguồn rơm rạ vụ Đông 
Xuân khoảng 95%. Quá trình cơ giới hóa nông nghiệp làm cho hình thức thu hoạch 
thay đổi nên có 100% nông dân đốt đồng theo hình thức đốt rải. Tại khu vực nghiên 
cứu nông dân đầu tư phân bón khá cao do đó giá thành sản xuất cao dẫn đến lợi nhận 
thấp. Người dân chủ yếu đốt rơm sinh ra sau thu hoạch và chưa có hướng xử lý thích 
hợp, do đó nghiên cứu ủ phân compost từ rơm cũng là một lựa chọn nhằm xử lý 
nguồn rơm lớn mỗi mùa vụ đồng thời cũng góp phần bảo vệ môi trường bên cạnh đó 
việc bổ sung chế phẩm sinh học ủ phân compost cũng là một phương thức bổ sung 
vi sinh vật qua sản phẩm thu được từ việc ủ phân,

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nghien_cuu_giai_phap_xu_ly_rom_nham_cai_thien_moi_t.pdf
  • docThongtinluanan-Vi.doc
  • docThongtinluanvan-En.doc
  • pdfTomtatluanan-En.pdf
  • pdfTomtatluanan-Vi.pdf