Luận án Nghiên cứu hiện trạng, phân bố và đề xuất giải pháp bảo tồn loài nai cà tông (Rucervus eldii M’Clelland, 1842) tại Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu hiện trạng, phân bố và đề xuất giải pháp bảo tồn loài nai cà tông (Rucervus eldii M’Clelland, 1842) tại Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu hiện trạng, phân bố và đề xuất giải pháp bảo tồn loài nai cà tông (Rucervus eldii M’Clelland, 1842) tại Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào

tỷ lệ tử vong. d. Tỷ lệ con non Kết quả cứu cho thấy tỷ lệ con non của Nai cà tông thấp hơn với các nhóm tuổi khác. Trong số 93 cá thể đã được ghi nhận thì chỉ có 8 con non (chiếm 8,60 %), đồng nghĩa với tỷ lệ con non so với các cá thể khác là 1:10,63 và tỷ lệ con non so với cá thể cái trưởng thành là 1:5,75. Trong thực tế, tỷ lệ con non so với cá thể cái trưởng thành là chỉ số phản ánh được khả năng tăng hay giảm của số lượng cá thể trong đàn. Với điều kiện môi trường sống tốt thì con cái trưởng thành sẽ sinh sản hàng năm hoặc sinh hai con non (Pierce et al. 2011)[51] và đối với một số loài hươu nai, nếu sinh cảnh tốt và đầy đủ các nhân tố sinh dưỡng thì tỷ lệ con non so với con cái trưởng thành là 1:1. Tại Khu bảo tồn Nai cà tông Xonnabouly tỷ lệ con non so với con cái trưởng thành của Nai cà tông khá thấp (1:5,75), do đó việc tăng trưởng kích thước quần thể Nai cà tông sẽ gặp rất nhiều khó khăn và sẽ càng trở nên khó khăn hơn khi các yếu tố bất lợi ảnh hưởng đến môi trường sống và sự an toàn của loài không được kiểm soát tốt. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra Nai cà tông, một số con non có thể không được phát hiện do chúng nhỏ và thấp, dễ bị che khuất. Hơn nữa, việc phân biệt giữa con non và cá thể bán trưởng thành của Nai rất khó, nhất là trong giai đoạn chuyển từ con non thành cá thể bán trưởng thành (Downing et al. 1977)[47]. 3.2. Một số đặc điểm sinh thái của Nai cà tông tại KBT Xonnabouly 3.2.1. Đặc điểm sinh cảnh Khu bảo tồn Nai cà tông Xonnabouly nằm trong vùng đồng bằng Savannakhet, một trong 3 vùng đồng bằng lớn nhất của nước. Hai vùng đồng 81 bằng khác là đồng bằng Viêng Chăn ở miền trung và đồng bằng Champasak ở miền Nam (Ghophanxay 2012)[165]. Đồng bằng Savannakhet nằm trong vùng khí hậu Á nhiệt đới với 2 mùa rõ rệt, gồm mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa có lượng mưa trung bình năm dưới 1,500 mm và có nhiệt độ khá nắng nóng nhất là vào mùa khô. Dạng thảm thực vật chính là rừng khộp (Khotpathoom et al. 2018)[166]. Sinh cảnh đóng vai trò quan trọng cho các loài sinh vật trong hệ sinh thái tự nhiên bởi sinh cảnh là nơi sinh sống của các quần thể sinh vật (Odum 1971, Patton 1992, Bhumpakphan 2000)[101],[107],[175]. Mỗi một loài sinh vật có khả năng thích ứng với các sinh cảnh khác nhau (Hoàng Kim Ngũ và Phùng Ngọc Lan 2005, Phạm Văn Điển and Phạm Xuân Hoàn 2016)[6],[15]. Có loài chỉ thích ứng được một loại sinh cảnh, nhưng cũng có những loài có thể thích ứng được nhiều loài sinh cảnh khác nhau (Anderson 1985)[22]. Có nhiều loại sinh cảnh được ghi nhận trong phạm vi Khu bảo tồn Nai cà tông Xonnabouly (Khotpathoom et al. 2018)[166]. Khu vực điều tra có 7 dạng sinh cảnh, trong đó chỉ có 5 dạng sinh cảnh đã được tiến hành điều tra về đặc điểm phân bố, sử dụng của Nai cà tông, gồm: rừng khộp, rừng thường xanh, rừng bán thường xanh, trảng cỏ và đất nông nghiệp (Hình 3.4). Dạng sinh cảnh khu dân cư là nơi đông dân, có tác động mạnh, kết quả điều tra sơ thám và nghiên cứu tài liệu cho thấy Nai cà tông thường kiếm ăn cách khu dân cư hơn 1 km (Yan et al. 2016)[159] nên khu vực này không được chọn để điều tra. Còn các khu vực sông suôi (ao, hồ, đập...) thì không thuận lợi cho việc lập tuyến và di chuyển nên cũng được loại bỏ trong quá trình điều tra 82 Hình 3.4: Tỷ lệ diện tích của các dạng sinh cảnh tại khu điều tra, ở Khu bảo tồn Nai cà tông Xonnabouly. Tỷ lệ các dạng sinh cảnh tại khu điều tra và năm dạng sinh cảnh được điều gồm có rừng thường xanh, rừng bán thường xanh, rừng khộp, trảng cỏ và đất nông nghiệp (Hình 3.4). Trong 5 dạng sinh cảnh được điều tra, rừng khộp có diện tích lớn nhất với 243,92 km2 (chiếm 81,22 %), tiếp theo là rừng bán thường xanh với 26,49 km2 (chiếm 9,82%), đất nông nghiệp với 16,8360 km2 chiếm (5,60 %), trảng cỏ với 5,22 km2 (chiếm 1,74 %) và thấp nhất là rừng thường xanh với 1,54 km2 (chiếm 0,51%). 3.2.1.1 Rừng khộp Rừng khộp là kiểu sinh cảnh phổ biến và có diện tích lớn nhất ở Khu bảo tồn Nai cà tông cũng như tại khu điều tra (249,92 km2, chiếm 81,22 %). Dạng sinh cảnh này còn có thể được chia thành 2 kiểu phụ: rừng khộp hỗn loài và rừng khộp thuần loài. Tại khu điều tra, rừng khộp hỗn loài phổ biến nhất, nhưng chúng có sự khác biệt về cả trữ lượng và thành phần loài tùy theo chất lượng và độ dầy của tầng đất (Marod and Kutintara 2009, Khotpathoom et al. 2018)[166],[180]. Rừng khộp hỗn loài trung bình khá phổ biến, nhưng cũng đã phát hiện được rừng khộp nghèo ở nơi có lớp đất mỏng và có đá cát nổi lên bề mặt (Hình 3.6 a), phân bố rải rác trong cả khu điều tra, nhiều nhất là ở phía Đông của phân khu bảo vệ nghiêm ngặt. Rừng khộp thuần loài phân bố ở một số khu vực của khu điều tra (Hình 3.6 b) 83 Hình 3.5: Cấu trúc rừng khộp hỗn loài Ảnh (a): Thananh (2019); Ảnh (b): Thananh (2018). Kiểu sinh cảnh rừng khộp với đặc điểm tán khá thưa, độ tàn che thấp rất phù hợp với đặc tính sinh thái của thú ăn cỏ như Nai cà tông vì chúng có sừng rộng và nhiều nhánh nên không thuận lợi khi di chuyển ở sinh cảnh có độ tàn che cao và có thảm tươi dưới tán dày (Bhumpakphan et al. 2010)[174]. Cấu trúc thảm thực vật của kiểu sinh cảnh RK này thay đổi theo từng kiểu phụ khác nhau. Cấu trúc của thảm thực vật rừng khộp thuần loài thường chỉ có 2 tầng gồm tầng tán và thảm tươi, trong khi đó, kiểu RK hỗn loài giầu và trung bình thường có 3 tầng, gồm: tầng tán, tầng cây bụi hoặc cây con và tầng thảm tươi. Theo kết quả điều tra theo OTC, kiểu sinh cảnh rừng khộp hỗn loài có khoảng 84 loài cây gỗ và cây bụi. Các loài chiếm ưu thế và quan trọng nhất dựa trên chỉ số IVI gồm có Cà chắc (Shorea obtusa) (IVI= 58.58 %), Dầu đồng (Dipterocarpus tuberculatus) (IVI = 35.91 %), Dầu tra beng (Dipterocarpus. Obtusifolius) (IVI = 20.87 %), Cẩm xe (Xylia xylocarpa) (IVI= 18.45 %), Cẩm liên (Shorea siamensis) (IVI= 14.30 %). Chi tiết các loài chiếm ưu thế dược trình bày tại Phụ lục 05. a b 84 Hình 3.6: Cấu trúc của RK hỗn loài ngèo (a) và RK thuần loài (b) Ảnh (a): Thananh (2019); Ảnh (b): Thananh (2018). Các loài cây ở tầng dưới tán và cây bụi chiếm ưu thế nhất gồm có Sổ xoan (sổ trai) (Dillenia ovata), Thẩu táu long (Aporosa villosa), Sầm ngọt (Memecylon edule), Sầm núi (Memecylon ovatum), Găng (Randia dasycarpa), Le cỏ (Vietnamosasa pusilla), Sổ hooker (Dillenia hookeri), Cò ke (Grewia vestita), Mực hoa trắng nhỏ (Holarrhena curtisii) và cây Tổ kén (Dó hẹp) (Helicteres angustifolia). Hơn nữa, một số loài trong họ nghệ (Zingiberaceae) rất phổ biến như Nghệ lá hẹp (Curcuma angustifolia), cây(Curcuma singularis), Nghệ đắng (Curcuma comosa) và một số loài cỏ như: Tranh (Imperata cylindrica), Cỏ (Andropogon koretrostachys) và cỏ Lô sậy (Themeda arundinacea). 3.2.1.2. Rừng thường xanh Rừng thường xanh phân bố tại khu điều tra có tổng diện tích 1,54 km2, chiếm 0,51 % tổng diện tích của khu điều tra. Dạng sinh cảnh này phần lớn phân bố tại khu vực phía Nam, giáp với sông Bang Hiang và ở khu phía Bắc, giáp với khu rừng bảo vệ Dong Phou Vieng, dọc theo sông Koum Kam (Hình 3.7). Kiểu sinh cảnh rừng thường xanh thường có cấu trúc nhiều tầng, độ tàn che của tầng cây cao và độ che phủ của tầng cây bụi thảm tươi khá lớn. Do b a 85 vậy, kiểu sinh cảnh này không hợp cho với Nai cà tông. Hiện nay, kiểu sinh cảnh này đang có nguy cơ suy giảm cả về chất lượng lẫn diện tích do hiện tượng khai thác gỗ trái phép và xâm lấn đất rừng phục vụ canh tác nông nghiệp của người dân địa phương. Khu vực bị tác động mạnh nhất là khu phía Nam giáp với sông Bang Hiang và khu phía Bắc của khu điều tra. Kết quả điều tra thảm thực vật đã xác định kiểu sinh cảnh RTX có 4 tầng, gồm: tầng tán chính, tầng dưới tán, tầng cây bụi và tầng thảm tươi. Tầng tán chính có chiều cao trung bình 30-40 m; độ che phr của tầng tán chính và dưới tán khoảng 70-80 %. Tầng cây bụi thảm tươi có chiều cao trung bình 5- 10 m, độ che phủ 30-40 %. Kết quả điều tra trong OTC cho thấy có khoảng 54 loài thực vật trong kiểu sinh cảnh này. Các loài cây chủ yếu được xác định dựa trên kết quả phân tích chỉ số quan trọng (IVI) gồm có: Kơ nia (Irvingia Malayana) (IVI = 20.44 %), Lòng mán lá phong (Pterospermum acerifolium) (IVI = 17.66 %), Sao đen (Hopea odorata) (IVI = 16.32 %), Xoay (Dialium cochinchinensis) (IVI = 14.54 %), Gõ mật (Sindora siamensis) (IVI = 13.78 %). Danh sách các loài ưu thế được thể hiện chi tiết tại Phụ lục 06. Hình 3.7: Cấu trúc của rừng RTX tại phía bắc Khu bảo tồn. Ảnh (a): Thananh (2017); Ảnh (b): Anousak (2018). a b 86 Các loài cây chiếm ưu thế trong tầng cây bụi gồm có Bứa rừng (búa núi) (Garcinia oliveri), Chòi mòi (Antidesma ghaesembilla), Dung lụa (Symplocos sumuntia), Sổ xoan (Dillenia ovata), Cù đèn (Croton roxburgii) và các loài phổ biến nhất ở lớp thảm tươi gồm có Trung quân lợp nhà (dây trung quân) (Ancistrocladus tectorius), Phất dủ bầu dục (Dracaena elliptica), Bách bệnh (mật nhân) (Eurycoma longifolia) và một số loài thuộc họ nghệ (Zingiberaceae), nhất là chi riềng (Alpinia spp). 3.2.1.3. Rừng bán thường xanh Dạng sinh cảnh rừng bán thường xanh ở khu điều tra có tổng diện tích 26,49 km2, chiếm 9,82 % của tổng diện tích của khu điều tra. Kiểu sinh cảnh này gồm cả các loài cây rụng lá và không rụng lá với tỷ lệ tương đồng, phân bố rải tại các khu vực ven sông, suối và khu giáp ranh với rừng thường xanh. Dạng sinh cảnh RBTX thường có cấu trúc 2 hoặc 3 tầng. Tầng tán chính có chiều cao 15-25 m, tầng cây bụi có chiều cao 5-10 m và thảm tươi khoảng 1-2 m. Tầng cây bụi và thảm tươi có độ che phủ thường không quá 30 %. Kiểu sinh cảnh RBTX thỉnh thoảng là nơi kiếm ăn, trú ẩn và nghỉ ngơi của Nai cà tông. Hiện nay, diện tích RBTX đang bị suy giảm mạnh do các tác động của con người như đắp đập làm hồ chứa nước, nhất là ở phía Tây Bắc của khu điều tra phía Bắc. Dựa trên kết quả điều tra trong OTC, thảm thực vật của kiểu sinh cảnh RBTX khá đa dạng về loài cây gỗ với tổng số 43 loài. Dựa trên kết quả phân tích chỉ số IVI, loài cây gỗ quan trọng nhất gồm có Vên vên (Anisoptera costata) (IVI = 32.82 %), Lim vàng (Peltophorum dasyrrhachis) (IVI = 31.03), Táu muối (Vatica odorata) (IVI = 27.16 %), Thành ngạnh đẹp (Cratoxylum formosum) (IVI = 23.93 %), Gõ mật (Sindora siamensis) (IVI = 14.53 %). Chi tiết cụ thể xem thêm tại Phụ lục 07. 87 Hình 3.8: Dạng sinh cảnh rừng bán thường xanh Ảnh: Thananh (2019). Các loài cây chiếm ưu thế trong tầng cây bụi gồm có Huyệt thảo lỗ (Hymenodictyon orixense), Sầm (Memecylon amplexicaule), Sổ xoan (Dillenia ovato), Dương đầu leo (Olax psittacorum). Các loài phổ biến nhất trong lớp thảm tươi gồm có Le cỏ (Vietnamosasa pusilla), Mạy lay (Gigantochloa albociliata), Hồ liên lá to (mộc hoa trắng) (Holarrhena pubescens), Dây săng máu (Celastrus paniculatus), Móng gà (đầu gà) (Ellipanthus tomentosus), Tổ kén tròn (dó trĩu) Helicteres isora, Tổ kén (Helicteres angustifolia), Phất dủ bầu dục (Dracaena elliptica), Trung quân lợp nhà (Ancistrocladus tectorius), Dó leo Enkleia siamensis và một số loài thuộc họ gừng (Zingiberaceae) như (Curcuma singularis), Nghệ lá hẹp (Curcuma angustifolia). Một số loài cỏ như Dị thảo vặn (Heteropogon contortus) và cỏ Tranh (Imperata cylindrica). 3.2.1.4. Trảng cỏ Dạng sinh cảnh trảng cỏ có diện tích không đáng kể và phân bố trong phạm vi hẹp, chủ yếu ở phân khu bảo vệ nghiêm ngặt. Sinh cảnh trảng cỏ có tổng diện tích khoảng 5,22 km2, chiếm 1,74 % tổng diện tích của khu điều tra. Thảm thực vật gồm cả cây bụi nhỏ và các loài cỏ. Hàng năm, vào mùa khô (tháng 1-2) trảng cỏ sẽ bị cháy tự nhiên và cháy sớm nhất so với các dạng 88 sinh cảnh khác trong Khu bảo tồn. Mặc dù diện tích nhỏ nhưng dạng sinh cảnh này lại rất quan trọng với Nai cà tông vì là nơi cung cấp nguồn thức ăn, đặc biệt là vào thời kỳ sau mùa cháy. Hình 3.9: Sinh cảnh trảng cỏ tại phân khu bảo vệ nghiêm ngặt Ảnh: Thananh (2017). Cấu trúc thảm thực vật của kiểu sinh cảnh này rất đơn giản với các loại cỏ chiếm ưu thế, đan xen một vài cây bụi và cây gỗ lớn. Theo kết quả điều tra trên OTC, chỉ có 8 loài cây gỗ trong sinh cảnh kiểu này. Kết quả phân tích chỉ số quan trọng IVI cho thấy các loài cây phổ biến nhất là Dầu tra beng (Dipterocarpus obtusifolius) (IVI = 141.70 %), Dầu trai (D. Intricatus) (IVI = 68.19 %), Kơ nia (Irvingia malayana) (IVI = 28.77 %), Lương xương (Chè béo) (Anneslea fragrans) (IVI = 12,60 %), Sổ trai (Sổ tai) (Dillenia ovata) (IVI = 12,60 %) (xem thêm trong Phụ lục 08). Ở lớp thảm cỏ, loài chiếm ưu thế nhất cỏ Lách (cỏ bông lau) (Saccharum spontaneum), cỏ Tranh Imperata cylindrica, cỏ (Andropogon koretrostachys) và xen lẫn một số cây bụi như Tổ kén (Dó hẹp) (Helicteres angustifolia), Mu ếch (ham ếch) (Symplocos racemosa), Sim (Rhodomyrtus parviflora), Sổ hooker (sổ bạc) (Dillenia hookeri), Cò ke nhám (cò ke lông) (Grewia hirsute), Đùi gà (Decaschistia parviflora), Giối harmand (Clausena harmandiana) và Mua bà (Melastoma sanguineum). 89 3.2.1.5. Đất nông nghiệp Diện tích đất nông nghiệp vào khoảng 16,836 km2, chiếm 5,60 %. Phần lớn đất nông nghiệp phân bố rải rác trong khu điều tra. Kiểu sinh cảnh này tập trung rải rác tại khu phía Bắc và phía Đông của khu điều tra và các khu vực gần khu dân cư. Đây cũng là một trong những sinh cảnh có Nai cà tông xuất hiện, đặc biệt là những khu vực cách xa khu dân cư và nằm trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt. Đất nông nghiệp ở đây chủ yếu là ruộng lúa nước một mùa nên cũng là nơi cung cấp nguồn thức ăn cho Nai cà tông vào sau mùa thu hoạch hoặc đầu mùa mưa. Hình 3.10: Sinh cảnh đất nông nghiệp (a: mùa khô và b: mùa mưa) Ảnh (a,b): Thananh (2018). Về mặt cấu trúc, thảm thực vật của sinh cảnh này có 2 tầng, tầng tán chính và tầng thảm cỏ. Đất nông nghiệp tại Khu bảo tồn chủ yếu phân bố trong khu rừng khộp, bởi vậy các loài cây chiếm ưu thế là các loài cây rụng lá. Theo kết quả điều trên OTC và phân tích chỉ số quan trọng IVI thì các loài cây phổ biến gồm có: Dầu lá bóng (Dipterocarpus turbulatus) (IVI = 136.92 %), Cà chắc (Shorea obtusa) (IVI = 113.88 %), Trâm mốc (Syzygium cumini) (IVI = 12.97 %), Bằng lăng nhiều hoa (Lagerstroemia floribunda) (IVI = 5.94 %) (Phụ Lục 09). Tổ thành các loại cỏ chủ yếu ở sinh cảnh đất nông nghiệp khác nhau giữa mùa mưa và mùa khô. a b 90 Trong mùa mưa loài cỏ chiếm ưu thế là lúa nước (Oryza sativa), cỏ Vàng (Xyris indica), cỏ Tranh (Imperata cylindrica), Le cỏ (Vietnamosasa pusilla) và một số cây bụi như Rau mương thon (Ludwigia hyssopifolia), Ngỗ ăn (Rau om) (Limnophila aromatica). Trong mùa khô thì loài cỏ chiếm ưu thế là cỏ Tranh (Imperata cylindrica), Le cỏ (Vietnamosasa pusilla). 3.2.2. Đặc điểm sử dụng sinh cảnh sống 3.2.2.1. Đặc điểm sử dụng theo dạng sinh cảnh Năm dạng sinh cảnh chính được xác định và điều tra tại khu điều tra ở Khu bảo tồn Xonnabouly, bao gồm: rừng bán thường xanh, rừng khộp, rừng thường xanh, trảng cỏ và đất nông nghiệp. Dựa trên số liệu phát hiện trực tiếp và phát hiện gián tiếp qua các dấu vết khác của Nai cà tông (dấu chân, dấu mài sừng, dấu gặm cỏ, phân...) trên các sinh cảnh tại các tuyến điều tra trong cả mùa khô và mùa mưa từ năm 2017-2019 và cho thấy tần suất phát hiện theo mỗi dạng sinh cảnh có sự khác nhau. Cụ thể, Nai cà tông xuất hiện nhiều nhất ở dạng sinh cảnh trảng cỏ với 27 lần/27,8 km (0,97 lần/km), tiếp theo là ở dạng sinh cảnh kiểu đất nông nghiệp với 16 lần/58,3 km (0,26 lần/km), sinh cảnh kiểu rừng bán thường xanh với 21 lần/81,9 km (0,26 lần/km) và cuối cùng là rừng khộp với 128 lần/583,3 km (0,22 lần/km). Nai cà tông không xuất hiện ở dạng sinh cảnh rừng thường xanh (Bảng 3.5). Bảng 3.5: Tần suất phát hiện Nai cà tông trên các dạng sinh cảnh Sinh cảnh Số lần phát hiện Chiều dài tuyến (km) Tần suất phát hiện (lần/km) Trảng cỏ 27 27,8 0,97 Đất nông nghiệp 16 58,3 0,27 Rừng BTX 21 81,9 0,26 Rừng khộp 128 583,3 0,22 Rừng TX 0 3,8 0 Tổng 192 755,10 91 Kết quả nghiên cứu này cũng tượng tự với kết quả nghiên cứu về sinh cảnh sống của Nai cà tông tại một số nước trong khu vực. Tại Myanma, Nai cà tông phân loài R.e. thamin phân bố chủ yếu ở những nơi có sinh cảnh rừng khộp (Salter and Sayer 1986)[118], trong khi đó tại đảo Hải Nam, Trung Quốc, Nai cà tông phân loài R.e. siamensis thường xuyên xuất hiện ở sinh cảnh rừng thưa, hầu như không xuất hiện ở những khu rừng thuần loài và rừng rậm (Pan et al. 2014)[105]. Tại Thái Lan, Puwinsaksakul (2013)[181] đã nghiên cứu về sinh thái của Nai cà tông ở khu bảo tồn Wiang Lor, tỉnh Phayao và kết luận chúng ưa thích dạng sinh cảnh trảng cỏ và cây bụi, nơi gần khu làm việc của cán bộ khu bảo tồn bởi chúng là những cá thể được nuôi nhuốt trước khi thả lại về rừng tự nhiên; ngoài ra chúng đã chọn những nơi an toàn để kiếm ăn và trú ẩn. Nhưng khác với Nai cà tông phân loài R.e. eldii ở vườn guốc gia Keibul Lamjao của Ấn Độ, ở đó có 2 dạng sinh cảnh, trảng cỏ cây bụi vùng đầm lầy và khu đất nông nghiệp (Singsit 2003a)[123]. Chúng phân bố chủ yếu tại sinh cảnh trảng cỏ cây bụi ở vùng đầm lầy (Tuboi and Husson 2016)[140]. 3.2.2.2. Đặc điểm sử dụng sinh cảnh theo mùa Khí hậu tại Khu bảo tồn Nai cà tông Xonnabouly chỉ có 2 mùa chính: mùa khô (tháng 10-tháng 4 năm sau) và mùa mưa bắt đầu (từ tháng 5 đến tháng 9). Luận án này đã phân tích theo 2 mùa, nhưng số liệu phần lớn được ghi nhận trong mùa khô với có tổng số lần phát hiện là 119 lần (n=119) và trong mùa mưa với 93 lần (n=93). Kết quả phân tích tần suất xuất hiện của mỗi mùa khác nhau rõ rệt. a. Mùa khô Mùa khô tại Khu bảo tồn Nai cà tông Xonnabouly, tỉnh Savannkhet, CHDCND Lào có nhiệt độ trung bình rất cao. Nhiệt độ ban ngày vào tháng 3 và tháng 4 có thể cao tới 42-43ºC. Nhiệt độ cao và kéo dài làm cho nguồn thức ăn và nguồn nước của Nai cà tông khá khan hiếm. Tuy nhiên, theo 92 Hartley (2014)[58], Nai cà tông có khả năng chống chịu sự thiếu nước tốt. Kết quả điều tra về đặc điểm phân bố theo mùa cũng dựa trên tần suất phát hiện cho từng sinh cảnh tính riêng cho từng mùa. Bảng 3.6: Tần suất phát hiện Nai cà tông tại các dạng sinh cảnh dựa trên số lần bắt gặp trên chiều dài của tuyến điều tra trong mùa khô Sinh cảnh Số lần phát hiện Chiều dài tuyến (km) Tần suất phát hiện (lần/km) Trảng cỏ 15 24 0,63 Rừng BTX 16 69,7 0,23 Rừng khộp 82 522,9 0,16 Đất nông nghiệp 6 53,1 0,11 Rừng TX 0 3,8 0 Tổng 119 673,50 Trong mùa khô, Nai cà tông sử dụng các dạng sinh cảnh khá khác với các sinh cảnh trong mùa mưa, đặc biệt với kiểu sinh cảnh đất nông nghiệp do trong mùa mưa nguồn thức ăn ở kiểu sinh cảnh này rất phong phú, trong khi rất hạn chế vào mùa khô do nhiệt độ cao và thiếu nước. Đây có thể là một nguyên nhân khiến cho Nai cà tông ở Khu bảo tồn Xonnabouly ít xuất hiện ở sinh cảnh đất nông nghiệp trong mùa khô. Ngược lại, Nai cà tông tại khu bảo tồn Chatthin, Myanmar xuất hiện và di chuyển đến gần khu đất nông nghiệp nhiều hơn trong mùa khô và đặc biệt là những cá thể trưởng thành cái (Monfort et al. 2015)[95]. Tại Khu bảo tồn Xonnabouly, những sinh cảnh được Nai cà tông sử dụng nhiều nhất trong mùa khô là khu trảng cỏ với tần suất phát hiện với 15 lần/24 km (0,63 lần/km); tiếp theo là kiểu sinh cảnh rừng bán thường xanh với 16 lần/69,7km (0,23 lần/km), rừng khộp với 82 lần/522,9 km (0,16 lần/km) và 93 đất nông nghiệp với 6 lần/53,1 km (0,11 lần/km). Nai cà tông không được phát hiện ở dạng sinh cảnh rừng thường xanh (Bảng 3.6). b. Mùa mưa Mùa mưa tại Khu bảo tồn Nai cà tông, Xonnabouly thường chỉ kéo dài 5 tháng và ngắn hơn so với mùa khô, bắt đầu từ tháng 5- tháng 10, trong đó tháng 8 có lượng mưa trung bình lớn nhất. Mùa mưa đã tạo điều kiện cho tất cả các loài thực vật sinh trưởng và phát triển, trong đó có cả lúa nước. Kết quả điều tra về đặc điểm phân bố của Nai cà tông theo sinh cảnh trong mùa mưa c
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_hien_trang_phan_bo_va_de_xuat_giai_phap_b.pdf
CV DeNghiDang Web ThananhKhopathoom.pdf
TomTatLuanAn (TiengAnh)- ncs.ThananhKhotpathoom_DHLN.pdf
TomTatLuanAn (TiengViet) - ncs.ThananhKhotpathoom_DHLN.pdf
TrangThongTinDiemMoi (Viet-Anh) - ncs.ThananhKhotpathoom_DHLN.docx
TrichYeuLuanAn (Viet-Anh) - ncs.ThananhKhotpathoom_DHLN.docx