Luận án Nghiên cứu khả năng sử dụng một số giống lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long trong sản xuất bia

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu khả năng sử dụng một số giống lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long trong sản xuất bia", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu khả năng sử dụng một số giống lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long trong sản xuất bia
tiêu chuẩn về độ ẩm của malt đại mạch (< 4,5%) (Briggs et al., 2004). Hàm lượng tinh bột giảm đáng kể (từ 71,48 xuống 58,94 g/100gCK) được quan sát thấy sau 4 ngày nẩy mầm và sấy. Có sự gia tăng về các thành phần axit amin, đường khử tương ứng với sự sụt giảm của hàm lượng tinh bột và protein trong malt lúa. Bảng 4.13 cho thấy, có sự gia tăng về các thành phần acid amin, đường khử, hoạt tính enzyme amylase và protease tương ứng với sự sụt giảm của hàm lượng tinh bột và protein trong malt. Chế biến malt (Malting) là một quá trình ba giai đoạn bao gồm ngâm, nẩy mầm và tách ẩm, để chuyển lúa mạch thành malt phù hợp để sản xuất bia (Zhao, 2015). Trong quá trình nẩy mầm để sản xuất malt, sự tổng hợp các enzyme để bắt đầu tạo ra sự biến đổi các thành phần nội nhũ. Các thành phần như carbohydrate, protein và lipid được biến đổi bởi hoạt động của enzyme thành các thành phần nhỏ hơn như đường, amino và acid béo (Shewry & Steven 2014; Lekkas et al., 2014). Hoạt tính của enzyme α-amylase và protease trong lúa nguyên liệu thể hiện khá thấp tương ứng ở 1,76 U/gCK và 0,068 U/gCK. Có sự gia tăng hoạt động amylase và protease trong malt (1,36 lên 56,39 U/gCK và 0,068 lên 1,44 U/GCK chất khô tương ứng). Trong quá trình sản xuất malt, các thành phần như carbohydrate, protein và lipid được biến đổi bởi hoạt động của enzyme thành các thành phần nhỏ hơn như đường, amino và axit béo (Shewry & Steven 2014; Lekkas et al., 2014; Zhao, 2015). Hoạt tính của enzyme α-amylase trong malt lúa khá tương đồng so với công bố của Bamforth, (2006) là >45 U/gCK và protease thể hiện khá thấp tương ứng ở 1,76 U/gCK và 0,068 U/gCK. 4.5 Đánh giá đặc tính kháng nhiệt và kháng protease của thành phần protein trong malt lúa Trong quá trình sản xuất malt, protein dự trữ trong lúa được phân hủy một phần bởi các proteinase thành các acid amin và peptide rất quan trọng để thu được malt chất lượng cao ảnh hưởng đến chất lượng bia. Trong khi hầu hết các protein trong lúa mạch bị kết tụ khi bị phân huỷ bởi các protease trong suốt quá trình chế biến (đường hóa và nấu), một số protein chống lại các điều kiện khắc nghiệt này do tính kháng protease và sự ổn định nhiệt (Čakajdová, 2015). Vì vậy mục đích của thí nghiệm này để xác định giống lúa chứa thành phần protein kháng protease và kháng nhiệt từ đó làm cơ sở cho việc lựa chọn giống lúa phù hợp cho thí nghiệm sau. Protein kháng với Luận án tiến sĩ khóa 2016 Trường Đại học Cần Thơ Ngành Công nghệ thực phẩm 84 Khoa Nông nghiệp proteinase K rất hiếm vì hiệu lực, độ pH tối ưu rộng và độ đặc hiệu liên kết peptide thấp của enzyme này (Gary et al., 1991). Đặc tính kháng protease của protein lúa sau nẩy mầm được thực hiện trên malt của 5 giống lúa được thể hiện ở Bảng 4.14. Bảng 4.14: Ảnh hưởng của protein trong dịch chiết malt lúa đối với hoạt tính phân giải protein của proteinase K trên casein agar thông qua đường kính vùng ức chế (cm) Giống Proteinase K Proteinase K + dịch chiết malt gia nhiệt Proteinase K + dịch chiết malt Jammine 85 2,10±0,10a 2,00±0,10a 1,90±0,15a OM 6976 2,00±0,10a 1,93±0,12a 1,81±0,10a OM 5451 2,13±0,06c 2,03±0,06b 1,87±0,03a IR 50404 2,13±0,06b 2,03±0,06b 1,85±0,05a OM 4900 2,10±0,06b 2,10±0,06b 1,83±0,06a Đại mạch 2,10±0,10b 1,97±0,06ab 1,85±0,05a Ghi chú: Thể hiện giá trị trung bình 3 lần lập lại và độ lệch chuẩn. a,b,cthể hiện sự khác biệt thống kê giữa các phương thức xử lý. Hình 4.17: Kết quả đánh giá vùng ức chế trên môi trường casein agar Ghi chú: 1: proteinase K, 2: proteinase K+dịch malt gia nhiệt; 3: proteinase + dịch malt Bảng 4.14 cho thấy, có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa các giống lúa (p<0,05). Hầu hết các giống lúa việc đưa proteinase K chưa được xử lý vào kiểm tra khuếch tán agar casein cho thấy vùng ức chế có đường kính lớn nhất và ít sự chệnh Luận án tiến sĩ khóa 2016 Trường Đại học Cần Thơ Ngành Công nghệ thực phẩm 85 Khoa Nông nghiệp lệch giữa các giống lúa. Việc bổ sung dịch malt dẫn đến đường kính vùng ức chế giảm đáng kể ví dụ ở giống lúa IR50504 từ 2,13±0,06 xuống 1,85±0,05 cm. Đường kính vùng ức chế của cả Protein K, proteinase K ủ với dịch malt xử lý và không xử lý nhiệt đều cho kết quả gần bằng với đại mạch (Hình 4.17). Hình 4.18: Gel điện di protein từ dịch chiết của malt được gia nhiệt (100oC, 30 phút) Ghi chú: OM6976 (A), Jasmine85 (B), IR50404 (C), OM5451 (D), OM4900 (E). Phần dịch malt được xử lý nhiệt trước khi phối trộn chung với proteinase K trong thử nghiệm làm tăng đường kính khuếch tán trên môi trường và đường kính khuếch tán này gần như tương đương đới với thử nghiệm chỉ có proteinase K (không có dịch malt) ở giống IR50404, OM4900 và OM5451. Có sự chênh lệch vùng ức chế giữa dịch malt xử lý nhiệt (100oC/30 phút) và không xử lý nhiệt trước khi được ủ với proteinase K. Dựa vào kết quả thu nhận chứng minh việc xử lý nhiệt đã làm thay đổi đặc tính protein trong malt dẫn đến mất tính chất kháng protease, đó là dẫn chứng cho sự biến tính protein. Đối với các thử nghiệm trên đại mạch, khả năng ức chế protease và kháng nhiệt của các giống lúa mạch được lý giải là do vẫn còn tồn tại hàm lượng các chất ức chế protease như (Protein Z, LTP1) ở mức có ý nghĩa thống kê tồn tại sau quá trình nẩy mầm và sản xuất malt. Protein Z4 và protein Z7 (~40 kDa) và LTP1 được chứng minh là chất ức chế protease (Li et al., 2014; Specker et al., 2014). Theo công bố của Sprecker et al. (2014), protein Z4, dạng serpin protein Z phong phú nhất của đại mạch, là một trong những thành phần chính của bọt bia và ức chế hoạt động của serine protease. I II Luận án tiến sĩ khóa 2016 Trường Đại học Cần Thơ Ngành Công nghệ thực phẩm 86 Khoa Nông nghiệp Theo Taylor et al. (2013), liên quan đến các loại protein liên quan đến bọt bia, LTP1 (lipid tranfer protein 1) với đặc tính kháng protease dường như đóng một vai trò quan trọng trong việc ổn định bọt bia. Mặt khác, hạt ngũ cốc nhiệt đới cũng chứa LTP, và giống như LTP trong lúa mạch, chúng dường như được biểu hiện chủ yếu ở aleurone và mầm. Bên cạnh đó, đã có báo cáo về các phản ứng dị ứng gạo và một số trong số các protein này là các protein gây dị ứng từ hạt như chất ức chế α- amylase/trypsin, globulin, β-glyoxylase và một số glutelin (Graziano et al., 2020). Trong số các chất gây dị ứng gạo được báo cáo là expansin (35 kDa) và profilin A (14 kDa), một nhóm protein 14–16 kDa chứa 11 isoallergens thuộc họ chất ức chế α- amylase/trypsin. Lập luận này phù hợp với kết quả kiểm chứng đối với thành phần protein từ dịch chiết của malt lúa được gia nhiệt 100oC/30 phút (Hình 4.18- Giếng A, B, C, D và E). Đối với dịch chiết malt từ các giống lúa khảo sát, còn tồn tại 1 dải các protein quanh vùng 14 KDa (Hình 4.18-I) và tồn tại xuyên suốt trong quá trình chế biến malt và sau khi gia nhiệt. Bên cạnh đó, theo công bố của Benkovská & Práce, (2013), chất ức chế protease (PI) hoặc PR-6 tạo thành nhóm protein lớn nhất được xác định trong lúa mạch, malt và bia. Các protein này có thể đóng một vai trò trong việc kiểm soát hoạt động của các proteinase lúa mạch trong quá trình nẩy mầm và chúng có thể bảo vệ hạt và cây non khỏi vi khuẩn hoặc sâu bệnh bằng cách ức chế các enzyme. Trong đó, chất ức chế α-amylase/trypsin dimeric lúa mạch (BDAI) có thể trải qua những thay đổi cấu trúc bao gồm glycation và phosphoryl hóa và góp phần quan trọng vào sự ổn định của bọt bia. Hơn nữa, đối với dịch chiết malt từ 2 giống lúa IR50404 (giếng C) và OM4900 (giếng E) vẫn còn 1 dải protein có trọng lượng phân tử trong vùng 55÷70 KDa (Hình 4.18-II). Theo Picariello et al., (2015), tương tự các vai trò của ns-LTP1 trong bia lúa mì, khi phân tích khối phổ đã chứng minh rằng có một dải protein mờ của bia từ lúa mì có trọng lượng phân tử khoảng 65 kDa chứa các ion peptid đặc trưng cho các serpin loại Z. Phù hợp với dữ liệu trước đó, các dải này phải được quy cho các tập hợp sinh ra từ liên kết chéo cộng hóa trị do nhiệt gây ra của các protein (Picariello et al., 2015). Theo Kim et al. (2009), protein kháng khuẩn (peptide) được biết là có hoạt tính kháng sinh mạnh mẽ chống lại vi khuẩn, nấm, và thậm chí một số virus. Thực vật tạo ra nhiều loại protein (peptide) có liên quan đến việc bảo vệ chống lại mầm bệnh và các sinh vật xâm nhập, bao gồm protein bất hoạt ribosome, các chất ức chế protease và peptide kháng nấm (protein). Đặc biệt, các chất ức chế protease có thể ức chế aspartic proteinase, serine và cysteine. Tăng mức độ ức chế trypsin và chymotrypsin tương quan với tính kháng thực vật đối với mầm bệnh. Bên cạnh đó, theo Gary et al., (1991), thì các nghiên cứu gần đây đã xác định các protein kháng proteinase K có kích thước phân tử khoảng 28, 30, 66 và 76 kDa ở một loài thuộc lớp Mollicutes, Luận án tiến sĩ khóa 2016 Trường Đại học Cần Thơ Ngành Công nghệ thực phẩm 87 Khoa Nông nghiệp Spiroplasma mirum. Cũng theo tác giả này, một lớp protein kháng proteinase K mới có kích thước 40 và 46 kDa có trong hai chủng Mycoplasma hyorhinis, một mầm bệnh ở lợn cũng là một chất gây ô nhiễm phổ biến trong quá trình nuôi cấy mô động vật có vú. Như vậy, qua kết quả đánh giá các thành phần protein chức năng có đặc điểm kháng protease và kháng nhiệt từ thí nghiệm 2 cho thấy, ở tất cả giống lúa khảo sát đều có kết quả tốt đối với đặc tính kháng protease và kháng nhiệt (dải protein 14 KDa). Trong đó, hai giống là IR50404 và OM4900 có tồn tại thêm 1 dải protein 65 KDa. Bên cạnh đó, theo kết quả đánh giá về các chỉ số đặc trưng khác cho nguyên liệu và malt như thành phần protein, năng lực đường hóa, hoạt tính enzyme amylase, hoạt tính protease thì giống IR50404 và có giá trị cao nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các giống lúa bước đầu đã thỏa mãn đước các đặc tính cơ bản này. Do đó, giống lúa IR50404 được lựa chọn cho việc tiến hành các thí nghiệm tiếp theo cho việc sản xuất malt và nấu bia với thời gian ngâm và thời gian nẩy mầm tương ứng là 24 giờ và 4 ngày. Khi sản xuất bia, nhà sản xuất thường không quan tâm đến loại malt có hàm lượng protein quá cao vì như thế protein ảnh hưởng đến chất lượng chất chiết ít và vì co mối tương quan giữa hàm lượng protein của malt và protein của sản phẩm cuối cùng là nguyên nhân gây đục cho bia. Hàm lượng protein trong malt từ 10-11% malt khô là rất tốt và 10-11% là trung bình (Hà và ctv., 2014). Hàm lượng protein của các giống sau 4 ngày nẩy mầm giảm nhưng không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê. Tuy chưa qua quá trình sấy tạo malt hoàn thiện nhưng kết quả cho thấy hàm lượng protein qua quá trình nẩy mầm không mất mát nhiều do đó không gây bất lợi cho quá trình sản xuất bia sau này. Hơn nữa hàm lượng protein của các giống tuy thấp hơn so với đại mạch nhưng đây có thể là nguyên liệu hứa hẹn sản xuất malt và cho sản phẩm bia tốt. Do có hàm lượng tinh bột cao (khoảng 70÷75%), gạo là nguyên liệu thích hợp để sản xuất bia, ngay cả khi nó có hàm lượng nitơ thấp, cần thiết cho dinh dưỡng của nấm men. Trong quá trình sản xuất bia, nó thường được sử dụng như một chất phụ trợ vì nó có thể làm tăng đáng kể hàm lượng chiết xuất của quá trình nấu. Cấu trúc và thành phần khác nhau giữa gạo và lúa mạch đòi hỏi sự cần thiết phải tối ưu hóa các điều kiện ủ tạo malt và dịch hóa (nấu bia) (Cela et al., 2020). Luận án tiến sĩ khóa 2016 Trường Đại học Cần Thơ Ngành Công nghệ thực phẩm 88 Khoa Nông nghiệp Quy trình tuyển chọn giống lúa phù hợp cho sản xuất malt và bia Lúa nguyên liệu [OM4900; IR50404; OM5451; OM6976; Jasmine85 ↓ Xử lý [Rửa nước sạch → Ngâm Na2S2O5 0,1%/30 phút → Rửa nước sạch] ↓ Ngâm [24 giờ (lúa/nước: 1/3), nhiệt độ 30oC] ↓ Nẩy mầm [IR50404: 4 ngày; OM4900; OM5451; OM6976; Jasmine85: 5-6 ngày, 30oC] ↓ Malt lúa non ↓ Sấy 50oC/24 giờ ↓ Malt lúa ↓ Chiết xuất malt ↓ Đánh giá trình kháng nhiệt và kháng protease [proteinase K: 30µg/ml; gia nhiệt 100oC/30 phút] ↓ Giống lúa phù hợp: IR50404 Hình 4.19: Quy trình tuyển chọn giống lúa phù hợp Luận án tiến sĩ khóa 2016 Trường Đại học Cần Thơ Ngành Công nghệ thực phẩm 89 Khoa Nông nghiệp 4.6 Xây dựng quy trình chế biến malt từ giống lúa IR50404 4.6.1 Ảnh hưởng của quá trình ủ nhiệt đến chất lượng malt Malt có thể được phân loại thành malt nhạt (lager) và malt sậm màu (đặc biệt). Malt màu tối có thể được phân loại thành malt màu, malt caramel (pha lê) và malt rang. Malt màu (loại Munich) được sản xuất khi sử dụng nhiệt độ xử lý tăng cao (lên tới 105°C), trong khi malt caramel và malt rang thu được bằng cách rang malt non và malt pilsner (220÷250°C). Đối với malt caramel, công đoạn ủ nhiệt được tiến hành trước khi rang để cho phép thủy phân carbohydrate và protein (Cechovska et al., 2012). So với malt nhạt màu, malt sậm màu cần phải chịu nhiệt độ xử lý cao hơn, từ đó dẫn đến hiện tượng hóa nâu không enzyme mạnh hơn (phản ứng Maillard). Tùy thuộc vào phương pháp xử lý nhiệt được áp dụng trong quá trình ủ nhiệt hoặc rang, một loại malt sậm màu có thể được tạo ra có màu từ vàng nhạt đến màu hổ phách đến màu nâu đến gần như đen, tức là từ 5÷1600 đơn vị EBC. Trong quá trình gia nhiệt malt non, nhà sản xuất có thể cung cấp nhiệt gián tiếp hoặc nhiệt trực tiếp. Gia nhiệt gián tiếp được sử dụng cho giai đoạn đường hóa ban đầu, trong khi gia nhiệt trực tiếp được áp dụng trong giai đoạn caramel hóa về sau (Coghe et al., 2006). Mục tiêu chính của quá trình ủ nhiệt là giúp thúc đẩy việc hình thành các thành phần chất dinh dưỡng được chuyển hóa (acid amin hòa tan, đường khử, màu sắc,) thông qua việc kích thích các nhóm enzyme nội bào trong malt góp phần cải thiện chất lượng của malt về dinh dưỡng, màu sắc và đặc tính chống oxi hóa. 4.6.1.1 Sự thay đổi hoạt tính enzyme α-amylase và hàm lượng đường khử Sự thay đổi hoạt tính enzyme α-amylase của giống lúa IR50404 được khảo sát ủ nhiệt ở các mức nhiệt độ được thể hiện ở Hình 4.20. Hình 4.20: Sự thay đổi hoạt tính enzyme α-amylase theo nhiệt độ và thời gian ủ 45 50 55 60 0 30 60 90 120 H o ạ t tí n h α -a m y la se ( U /g ) Thời gian (phút) 40⁰C 50⁰C 60⁰C 70⁰C Luận án tiến sĩ khóa 2016 Trường Đại học Cần Thơ Ngành Công nghệ thực phẩm 90 Khoa Nông nghiệp Hình 4.21: Sự thay đổi đường khử theo nhiệt độ và thời gian ủ Hình 4.20 và 4.21 cho thấy, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hoạt tính amylase và đường khử tương ứng giữa các mức nhiệt độ và thời gian ủ nhiệt. Hoạt tính enzyme α-amylase tăng cao nhất là ở nhiệt độ ủ 50oC, 30 phút (56,26 U/gCK), thấp nhất là ở nhiệt độ ủ 70oC, 60 phút. Nhìn chung hoạt tính enzyme α-amylase không tăng nhiều theo thời gian và nhiệt độ ủ nhiệt nhưng hoạt tính enzyme α-amylase sau khi ủ nhiệt tăng nhiều hơn so với malt sau khi nẩy mầm. Tuy nhiên, khi tăng nhiệt độ và thời gian ủ nhiệt hoạt tính của enzyme α-amylase có xu hướng giảm. Mặc dù sự thay đổi hoạt tính của enzyme α-amylase giữa các nhiệt độ và thời gian ủ nhiệt là không rõ ràng nhưng sự thay đổi hàm lượng đường khử được thể hiện rõ hơn qua Hình 4.20. Tuy nhiên, khi tăng nhiệt độ và thời gian ủ nhiệt hoạt tính của enzyme α-amylase có xu hướng giảm. Mặc dù sự thay đổi hoạt tính của enzyme α-amylase giữa các nhiệt độ và thời gian ủ nhiệt là không rõ ràng nhưng sự thay đổi hàm lượng đường khử được thể hiện rõ hơn qua Hình 4.21. Sự khác biệt về hàm lượng đường khử có ý nghĩa thống kê giữa các mức thời gian và nhiệt độ ủ nhiệt. Hàm lượng đường khử gia tăng theo thời gian và nhiệt độ ủ. Cụ thể, lượng đường khử tăng mạnh từ 30 đến 90 phút ủ nhiệt ở tất các các mức nhiệt độ khảo sát và sau thời gian này lượng đường khử có dấu hiện giảm xuống theo kết quả ở 120 phút và khác nhau tùy theo mức nhiệt độ ủ. Hàm lượng đường khử tăng mạnh nhất là ở 70oC, sau 60 phút và tăng cao hơn so với hàm lượng đường khử của malt non sau nẩy mầm. Theo Coghe et al. (2006), khi malt non được xử lý bên trong trống kín và nhiệt độ của hạt tăng lên khoảng 70°C, khi đó dòng không khí nóng chỉ truyền qua xung quanh trống kín, hạt malt vẫn ở mức độ ẩm không đổi khoảng 43%. Điều kiện nhiệt độ này là nhiệt độ tối ưu cho hoạt động 0 50 100 150 200 250 0 30 60 90 120 Đ ư ờ n g k h ử ( m g /g ) Thời gian (phút) 40⁰C 50⁰C 60⁰C 70⁰C Luận án tiến sĩ khóa 2016 Trường Đại học Cần Thơ Ngành Công nghệ thực phẩm 91 Khoa Nông nghiệp amylase, làm thủy phân một phần đáng kể phần tinh bột trong hạt. Chính ở giai đoạn này, phần bên trong của hạt (nội nhũ) đã được chuyển hóa và quá trình đường hóa hóa đã diễn ra. Malt caramel là loại malt duy nhất có một phần chuyển hóa đáng kể tinh bột thành đường xảy ra trước khi tiến hành dịch hóa trong sản xuất bia. Như vậy, nhiệt độ và thời gian ủ nhiệt có ảnh hưởng rất lớn đến hàm lượng đường khử có trong malt, hàm lượng đường khử tăng khi nhiệt độ tăng nhưng khi tăng nhiệt độ và thời gian ở một thời điểm nào đó hàm lượng đường khử có xu hướng giảm cụ thể là ở 70oC, 60 phút hàm lượng đường khử từ 188,71 mg/gCK giảm còn 160,31 mg/gCK. 4.6.1.2 Sự thay đổi hoạt tính enzyme protease và hàm lượng acid amin hòa tan (Free acid amins – FAN) Hoạt tính enzyme protease của giống lúa IR50404 sau khi ngâm 24 giờ và nẩy mầm 96 giờ ở 30oC được khảo sát quá trình ủ nhiệt tại các mức nhiệt độ 40÷70oC và thời gian 30÷120 phút. Kết quả đánh giá hoạt tính protease được thể hiện qua Hình 4.21. Hình 4.22: Ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian ủ nhiệt đến hoạt tính của enzyme protease Hình 4.22 cho thấy, có sự khác biệt về hoạt tính protease giữa các mức nhiệt độ ủ theo thời gian. So với malt tươi, hoạt tính enzyme protease tăng lên trong quá trình ủ nhiệt. Nhìn chung hoạt tính enzyme protease tăng nhiều ở hai mức nhiệt độ ủ là 40 và 50oC, tăng mạnh nhất là ở nhiệt độ ủ 50oC (0,168÷0,214 U/gCK). Ở nhiệt độ ủ 60oC và 70oC, hoạt động của enzyme bị ức chế, hoạt tính enzyme gần như bị mất hoàn toàn, thấp hơn nhiều so với malt tươi ban đầu. Cụ thể ở hai mức nhiệt độ ủ 60 và 70oC hoạt tính enzyme protease giảm dần từ 30 phút đến 120 phút, thấp hơn lúa tươi 7,08 lần (0,012 U/gCK ở 60oC) và 2,43 lần (0,035 U/gCK ở 70oC). Như vậy ở quá trình ủ nhiệt thì hai mức nhiệt độ này là không hiệu quả để cho enzyme hoạt động. Điều này cho thấy, nhiệt độ ủ ảnh hưởng rất lớn đến phản ứng của enzyme. 0 0.05 0.1 0.15 0.2 0.25 0.3 0 30 60 90 120 H o ạ t tí n h p ro te a se ( U /g ) Thời gian (phút) 40⁰C 50⁰C 60⁰C 70⁰C Luận án tiến sĩ khóa 2016 Trường Đại học Cần Thơ Ngành Công nghệ thực phẩm 92 Khoa Nông nghiệp Theo Lương Đức Phẩm, (2011), tốc độ phản ứng tăng khi nhiệt độ tăng và đến một nhiệt độ nhất định thì tốc độ phản ứng của enzyme sẽ tăng đến cực đại rồi giảm dần xuống đến triệt tiêu. Đa số các enzyme thực vật họat động ở nhiệt độ tối thích 40÷60oC nếu nhiệt độ cao hơn nữa ở khoảng 70÷80oC thì hoạt tính của enzyme sẽ bị mất vì nhiệt độ cao làm biến tính protein. Hoạt tính protease thay đổi theo thời gian ủ nhiệt. Theo Taylor & Boyd (1986) nhiệt độ tối ưu của enzyme protease từ 43÷50oC trong hạt lúa miến điều này cũng phù hợp với hoạt tính protease được khảo sát ở giống IR50404. Hình 4.
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_kha_nang_su_dung_mot_so_giong_lua_gao_o_d.pdf
QĐCT_Nguyễn Tấn Hùng.pdf
TOM TAT NGUYENTANHUNG -ENGLISH.pdf
TOM TAT NGUYENTANHUNG - Viet Nam.pdf
Trang thong tin luan an NGUYEN TAN HUNNG - English.docx
Trang thong tin Luan An-NGUYENTANHUNG - Viet Nam.docx

