Luận án Nghiên cứu khả năng thích nghi và tiềm năng phát triển của cá măng sữa Chanos Chanos ở vùng biển Đông Nam Việt Nam

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu khả năng thích nghi và tiềm năng phát triển của cá măng sữa Chanos Chanos ở vùng biển Đông Nam Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu khả năng thích nghi và tiềm năng phát triển của cá măng sữa Chanos Chanos ở vùng biển Đông Nam Việt Nam

ảm đột ngột nhất, tăng cao đến mức 0.259 mg/L vào 90 ngày, sau đó lại giảm rất mạnh đến mức 0.133 mg/L vào ngày 105 tiếp theo. Nhìn chung, chiều hướng biến động hàm lượng Nitrite ban đầu sẽ tăng dần, đạt cao điểm trong khoảng giữa kỳ, sau đó giảm dần vào cuối kỳ thực nghiệm. Phù hợp với quy luật khi Ammonia tích lũy với hàm lượng cao, sẽ đóng vai trò là cơ chất để ô xi hóa thành Nitrite. Lượng Nitrite tích lũy lại tiếp tục bị ô xi hóa thành Nitrate nên nồng độ sau đó sẽ giảm dần. Biến động nồng độ Nitrite khá phức tạp, gồm những giai đoạn tăng giảm với độ dốc khác nhau. Nguyên nhân do quá trình chuyển hóa Ammonia thành Nitrite và Nitrite thành Nitrate trong ao nuôi còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác là nhiệt độ, oxi hòa tan và độ mặn (Dvir và ctv, 1999). Từ quy luật nồng độ Nitrite giảm dần vào cuối kỳ, cho thấy cá Măng sữa giúp duy trì hệ vi sinh vật cân bằng, không làm suy giảm nồng độ ô xi hòa tan về dưới mức 5 mg/l, là ngưỡng ức chế phản ứng khử Nitrite thành Nitrate trong ao nuôi (Dvir và ctv, 1999). Các kết quả biến động hàm lượng Nitrite trong khoảng 0.002 – 0.162 mg/L ở thực nghiệm độ mặn, và 0.003 – 0.267 mg/L ở thực nghiệm thức ăn cho thấy cá Măng sữa thích nghi tốt với Thực nghiệm thức ăn Thực nghiệm độ mặn 92 các điều kiện nuôi. 3.3.1.6. Biến động hàm lượng Nitrate (NO3 – N) Nitrate tích lũy trong ao nuôi có nguồn gốc chủ yếu từ phản ứng khử Nitrite và lượng phân bón bổ sung vào. Nitrate không gây độc cho cá nuôi, là chất dinh dưỡng cho sinh vật sản xuất sơ cấp nên khi hàm lượng gia tăng sẽ gây hiện tượng phú dưỡng, gián tiếp gây hại cho cá do biến đổi các chỉ tiêu thủy lý hóa khác. Biến động hàm lượng Nitrate trong các thực nghiệm (Phụ lục 6.3), thể hiện ở Biểu đồ 3.4 như sau: Biểu đồ 3.4. Biến động hàm lượng Nitrate Hàm lượng Nitrate của thực nghiệm độ mặn dao động trong khoảng 0.044 – 0.189 mg/L, biến đổi theo chiều hướng giảm dần theo thời gian nuôi. Do ao được bón phân trong giai đoạn chuẩn bị nên hàm lượng Nitrate ban đầu khá cao, lần lượt là 0.175 mg/L, 0.189 mg/L và 0.181 mg/L ở các nghiệm thức 15 ppt, 25 ppt và 35 ppt. Hàm lượng Nitrate sau đó giảm dần theo sự tăng trưởng của tảo, xen kẽ trong chiều hướng giảm là những giai đoạn tăng nhẹ do lượng phân bón bổ sung vào. Đỉnh tăng cao nhất là ngày 60 của nghiệm thức 25 ppt, đạt mức 0.163 mg/L. Nitrate ở thực nghiệm thức ăn dao động từ 0.001 – 0.292 mg/L, nghiệm thức kết hợp có hàm lượng Nitrate ban đầu khá cao là 0.149 mg/L, do tích lũy từ lượng phân bón chuẩn bị ao trước đó. Hàm lượng sau đó giảm dần đến mức thấp nhất là 0.102 mg/L do không bổ sung thêm phân. Đến giai đoạn từ 60 ngày nuôi, cá chuyển sang thức ăn chế biến nên hàm lượng Nitrate tăng nhẹ đến mức 0.123 mg/L tại thời điểm 75 ngày tuổi. Mức độ tích lũy tăng dần đến 0,.199 mg/L vào thời điểm kết thúc là 120 ngày. Với 2 nghiệm thức chế biến và công nghiệp, hàm lượng Nitrate ban đầu rất Thực nghiệm độ mặn Thực nghiệm thức ăn 93 thấp, chỉ 0.002 và 0.001 mg/L. Sau đó do quá trình biến dưỡng từ lượng thức ăn dư thừa, nên hàm lượng Nitrate tăng dần, gia tăng tuyến tính với thời gian nuôi. Hình ảnh trên Biểu đồ 4.4 (b) cho thấy nghiệm thức công nghiệp tích lũy Nitrate nhiều hơn, do hàm lượng protein trong thức ăn công nghiệp cao hơn thức ăn chế biến. Biểu đồ của cả 3 nghiệm thức đều xuất hiện điểm uốn ở giai đoạn 75 ngày nuôi, do độ dốc gia tăng hàm lượng Nitrate thấp hơn các giai đoạn khác. Nguyên nhân có liên quan đến hiện tượng giảm nhiệt độ nước đột ngột xuống 21.1 – 21.6oC như đã giải thích ở phần biến động nhiệt độ, vì theo Dvir và ctv (1999), nhiệt độ càng giảm thì tốc độ khử Nitrite thành Nitrate càng chậm trong ao nuôi. 3.3.2. Kết quả thực nghiệm nuôi cá Măng sữa theo độ mặn 3.3.2.1. Tỉ lệ sống của cá Măng sữa trong thực nghiệm độ mặn Tỉ lệ sống trung bình của mỗi nghiệm thức, thể hiện như trong Hình 3.13 sau: Hình 3.13. Tỉ lệ sống của cá Măng sữa trong thực nghiệm độ mặn (giá trị a thể hiện khác biệt không có ý nghĩa thống kê tại p > 0,05) Tỉ lệ sống cao nhất ở nghiệm thức 25 ppt với 91.96%, tiếp theo là 15 ppt với 87.65% và thấp nhất ở nghiệm thức 35 ppt với 85.50%. Trong nghiên cứu của Garg (2016), nhằm xem xét tác động của việc thả nuôi cá Măng sữa ở 3 độ mặn 10, 15, 20 ppt lên cải tiến chất lượng ao nuôi. Tác giả đã sử dụng cá 20 ngày tuổi, nặng khoảng 0.2 g, mật độ thả 500 con trên 375 m2 ao nuôi, kết quả sau 115 ngày nuôi cho thấy tỉ lệ sống lần lượt là 96% và cùng 93%. Khi nuôi trong điều kiện nước ngọt, Santiago và 87.65%a 91.96%a 85.50%a 94 ctv (1984) nhận thấy tỉ lệ sống ở cá Măng sữa có trọng lượng ban đầu 0.15 g, nuôi 5 tuần là 83 – 95%. Trong khoảng thời gian từ 90 – 120 ngày nuôi ở điều kiện nuôi ao cạn nước lợ, Otubusin và Lim (1985) cho rằng tỉ lệ sống của cá Măng sữa dao động từ 75 – 89%, phụ thuộc vào tỉ lệ cho ăn. Ở Việt Nam, cá Măng sữa nuôi ghép với Tôm có tỉ lệ sống từ 78.3 – 80.6%, ở độ mặn 14.1 – 19.7 ppt tại Sóc Trăng (Nguyễn Thị Kim Vân, 2009), và 82.5 – 92.5%, ở độ mặn 15.3 – 25.6 ppt tại Trà Vinh (Nguyễn Thị Kim Vân, 2016). IFP (1976) nhận thấy, tỉ lệ sống trong khoảng thời gian 4 tháng nuôi của cá Măng sữa ở Phillipines phụ thuộc rất lớn vào mật độ nuôi, lần lượt là 52.6%, 86%, 93.2% ở các mật độ 2000, 1000 và 367 con/ha. Từ các kết quả trên có thể thấy, tỉ lệ sống với mật độ nuôi 1 con/m2 trong thực nghiệm của nghiên cứu này hoàn toàn tương đồng kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. 3.3.2.2. Tăng trưởng của cá Măng sữa trong thực nghiệm độ mặn Thực nghiệm độ mặn được bố trí ở 3 nghiệm thức 15 ppt, 25 ppt và 35 ppt, số liệu theo dõi tăng trưởng thể hiện trong Phụ lục 7.1, đường cong tăng trưởng thể hiện như trong Biểu đồ 3.5 sau: Biểu đồ 3.5. Tăng trưởng của cá Măng sữa trong thực nghiệm độ mặn Cá Măng sữa trong điều kiện nuôi thực nghiệm tăng trưởng tốt nhất ở độ mặn 25 ppt, đạt 319.1 g sau 120 ngày nuôi, tiếp theo là độ mặn 35 ppt với 276.9 g và 15 ppt với 266.7 g. Kết quả kiểm định Oneway Anova cho thấy độ tin cậy p = 0.002, thể hiện 266.7c 319.1b 319.1a 95 khác biệt trọng lượng trung bình có ý nghĩa. Kết quả kiểm định sâu LSD cho thấy, khác biệt trọng lượng trung bình khi so sánh theo từng cặp nghiệm thức cũng có ý nghĩa (Phụ lục 7.2). Tương đồng với nghiên cứu của Barman và ctv (2012), ở thí nghiệm sử dụng thức ăn tự nhiên, thời gian nuôi 100 ngày trong ao 375 m2, mật độ thả 1 con/m2. Kết quả của Barman và ctv (2012) cho thấy sự khác biệt về tăng trưởng giữa 2 độ mặn 10 ppt và 25 ppt, có ý nghĩa thống kê. So sánh sự khác biệt về tăng trưởng giữa 2 nghiệm thức 15 ppt và 35 ppt, cho thấy kết quả của nghiên cứu này khác biệt so với kết quả nghiên cứu của Swanson (1998). Tác giả bố trí thí nghiệm trên cá Măng sữa có độ dài tiêu chuẩn dưới 25 cm, ở 3 độ mặn 15 ppt, 35 ppt và 55 ppt, thời gian thuần hóa độ mặn tối thiểu là 14 ngày. Cho ăn thức ăn công nghiệp loại dành cho cá Hồi, với tỉ lệ từ 4 – 6% trọng lượng cơ thể. Kiểm định khác biệt trọng lượng bằng thủ tục Anova 2 bước, cho thấy trong khi SGRw của nghiệm thức 55 ppt cao hơn và có ý nghĩa tại giá trị 3,35 ± 0,17%/ngày, thì SGRw của 2 nghiệm thức 15 ppt và 35 ppt lần lượt là 2,86 ± 0,49%/ngày và 2,36 ± 0,19%/ngày, và sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Nguyên nhân có thể do độ tuổi của cá, vì nhóm tác giả Teshima và ctv (1984) trong nghiên cứu các yếu tố tác động lên tăng trưởng của cá Măng sữa đã chỉ ra rằng, trong giai đoạn từ cá hương trở đi, thành phần thức ăn và mật độ nuôi tác động ý nghĩa lên tốc độ tăng trưởng của cá Măng sữa, trong khi yếu tố độ mặn thì không. Đường cong tăng trưởng trên Biểu đồ 3.5, cho thấy có sự gia tăng tuyến tính trọng lượng theo thời gian nuôi ở cả 3 nghiệm thức, không xuất hiện điểm uốn do cá được nuôi ở mật độ 1000 con/ha, đúng với kết quả nghiên cứu của Juliano và Hirano (1986) khi nuôi ở mật độ nuôi < 2000 con/ha và sử dụng Lablab làm thức ăn cơ bản. Phân tích hình ảnh cho thấy, nghiệm thức 25 ppt có nhịp độ tăng trưởng nhanh nhất. Hai nghiệm thức 15 ppt và 35 ppt có biểu thị trái ngược nhau, trong khi cá nuôi ở độ mặn 15 ppt tăng trưởng nhanh ở giai đoạn đầu, sau đó tốc độ giảm dần từ giai đoạn 60 ngày nuôi thì ở độ mặn 35 ppt, cá tăng trưởng chậm ở giai đoạn đầu, sau đó tốc độ nhanh dần, vượt qua nghiệm thức 15 ppt ở giai đoạn từ 105 ngày nuôi. Điều này được giải thích dựa trên đặc điểm sinh thái của cá Măng sữa, giai đoạn phôi và con non sống 96 ở vùng nước lợ, cá hương thường rời vùng nước lợ đi ra vùng ven biển có độ mặn cao hơn (Lin và ctv, 2003). Đặc điểm này dẫn đến khả năng thích nghi, tăng trưởng tốt với độ mặn tăng dần theo độ tuổi của cá ở điều kiện nuôi. Kết quả tính tỉ lệ tăng trưởng trọng lượng đặc thù SGRw trong 120 ngày nuôi thể hiện như trong Bảng 3.7 sau: Bảng 3.7. SGRw của cá Măng sữa trong thực nghiệm Độ mặn Chỉ tiêu theo dõi Nghiệm thức 15 ppt 25 ppt 35 ppt Trọng lượng ban đầu (g) 5.2 ± 0.20a 5.1 ± 0.13a 5.4 ± 0.20a Trọng lượng kết thúc (g) 266.7 ± 4.09a 319.1 ± 3.73b 276.9 ± 3.01c SGRw (%/ngày) 3.27 ± 1.24a 3.61± 1.40b 3.28 ± 1.26a Các giá trị trong cùng một hàng, có ký tự a, b, c giống nhau thể hiện khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) SGRw – 25 ppt là 3.61, đạt cao nhất trong 3 nghiệm thức, gần tương đương với mức 3.67 của Barman và ctv (2012), trong cùng điều kiện nuôi ở độ mặn 25 ppt. Nghiệm thức 35 ppt có trọng lượng cuối cùng cao hơn so với nghiệm thức 15 ppt, nhưng SGRw của 2 nghiệm thức lại gần bằng nhau là 3.27 và 3.28. Biểu đồ 3.6. Biến động SGRw của cá Măng sữa trong thực nghiệm Độ mặn Biểu đồ 3.6 thể hiện xu hướng tỉ lệ trọng lượng tăng thêm của cá Măng sữa theo thời gian nuôi, được lập dựa trên chỉ số SGRw của 3 nghiệm thức mỗi 15 ngày thu 97 mẫu. Đồ thị SGRw – 15 ppt ban đầu có mức tăng trưởng rất cao, sau đó giảm dần và giao nhau với SGRw – 35 ppt giai đoạn 45 ngày nuôi. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Hu và Liao (1976), khi thử nghiệm nuôi 300 cá Măng sữa giai đoạn 2.2 g, trong 4 nghiệm thức với độ mặn từ 8.32 – 9.25 ppt, 10.77 – 18.74 ppt, 19.75 – 29.12 ppt và 30.05 – 37.06 ppt. Sau 68 ngày nuôi, kết quả cho thấy cá có SGR cao nhất ở độ mặn trung bình 14.96 ppt, tại mức nhiệt độ 29 – 30oC. So sánh hình ảnh đồ thị SGRw – 25 ppt và SGRw – 35 ppt cho thấy nghiệm thức 35 ppt có nhịp độ tăng trưởng cao hơn 25 ppt từ giai đoạn 55 – 60 ngày nuôi trở đi. Điều này dẫn đến kết luận cá Măng sữa giai đoạn từ 100 – 105 ngày tuổi thích nghi dần với môi trường có độ mặn cao hơn, hoàn toàn phù hợp với đặc tính sinh học tự nhiên của cá Măng sữa, chuyển dần từ môi trường nước lợ sang nước mặn ở giai đoạn cá hương (Lin và ctv, 2003). Tất cả các kết quả trên cho thấy, cá Măng sữa có khả năng thích nghi tốt với các độ mặn 15 ppt, 25 ppt và 35 ppt trong điều kiện nuôi. Nghiệm thức 25 ppt có tỉ lệ sống cao nhất là 91.96%, tỉ lệ SGRw tốt nhất là 3.61 %/ngày. Do kết quả chỉ tiêu thủy lý hóa khá tương đồng, cho thấy độ mặn 25 ppt không gây tác động thúc đẩy, tạo sự khác biệt rõ rệt về nguồn thức ăn tự nhiên của cá so với 15 và 35 ppt. Nên độ mặn 25 ppt được chọn làm điều kiện độ mặn cho thí nghiệm thức ăn tiếp theo. 3.3.3. Kết quả thực nghiệm nuôi cá Măng sữa theo thức ăn 3.3.3.1. Tỉ lệ sống của cá Măng sữa trong thực nghiệm thức ăn Tỉ lệ sống của cá Măng sữa trong thực nghiệm thức ăn thể hiện trên Hình 3.14, cho thấy nghiệm thức thức ăn kết hợp có tỉ lệ sống cao nhất là 83.80%, tiếp theo là nghiệm thức thức ăn chế biến với 79.69% ở, và nghiệm thức thức ăn công nghiệp thấp hơn không đáng kể là 79.33%. Kết quả này thấp hơn so với tỉ lệ sống của điều kiện nuôi thực nghiệm theo độ mặn, được lý giải là do tác động của yếu tố mùa vụ. Chiu và ctv (1986) nhận thấy, cá Măng sữa giai đoạn từ 9 tuần tuổi, có tỉ lệ sống khoảng 77% nếu nhiệt độ < 21oC, đạt 97 – 100% nếu nhiệt độ từ 26 – 30oC. Trong khi thí nghiệm thức ăn bố trí từ tháng 12/2018 – 03/2019, có thời điểm nhiệt độ giảm xuống mức rất thấp là 21.1oC ở nghiệm thức công nghiệp, 21.2oC ở nghiệm thức chế biến và 21.6 oC ở nghiệm thức kết hợp. Do ảnh hưởng của rìa phía Nam áp cao lạnh lục địa, kết hợp 98 với gió Đông bắc ở khu vực nghiên cứu vào đầu tháng 02. Hình 3.14. Tỉ lệ sống của cá Măng sữa trong thực nghiệm thức ăn (giá trị a, b giống nhau thể hiện khác biệt không có ý nghĩa thống kê tại p > 0,05) So sánh tỉ lệ sống giữa 2 nghiệm thức có thể thấy, yếu tố mùa vụ có ảnh hưởng đến kết quả nuôi cá Măng sữa tại khu vực bố trí thực nghiệm. Thực nghiệm độ mặn tiến hành từ tháng 06 đến tháng 09, trùng với thời điểm hè thu, nhiệt độ ấm, biên độ nhiệt ổn định. Điều kiện thời tiết có mưa kết hợp với quang kỳ dài, cường độ chiếu sáng mạnh, thuận lợi cho hệ sinh vật phù du phát triển, cung cấp nguồn thức ăn dồi dào cho cá nuôi. Thực nghiệm thức ăn tiến hành từ tháng 12 đến tháng 03, trùng với thời điểm đông xuân, nhiệt độ có những điểm hạ thấp bất thường, ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của cá. Từ kết quả này cho thấy, tại khu vực nghiên cứu, cá Măng sữa thích ứng với điều kiện thời tiết của vụ hè thu tốt hơn, so với vụ đông xuân. Nghiên cứu của Muhmmad và ctv (2015), trên cá Măng sữa trọng lượng trung bình ban đầu 5.3 g, mật độ thả 20 con/m2, nuôi trong 3 tháng ở các nghiệm thức bón phân và sử dụng thức ăn công nghiệp, có tỉ lệ sống tương ứng là 82.8% và 80.1%. Tỉ lệ sống trung bình của các hệ thống nuôi cá Măng sữa ở Đài Loan, từ giai đoạn cá bột đến kích cỡ thương phẩm 200 – 300 g là 70% (Chen, 1952). Nếu nuôi cá ở cỡ ban đầu lớn hơn là 45 g (tương đương với giai đoạn 100 - 105 ngày tuổi trong nghiên cứu này), trong điều kiện sử dụng thức ăn công nghiệp bằng máy tự động, tỉ lệ cho ăn vừa đủ nhu cầu là 1.5 – 1.6% trọng lượng cơ thể, thì Lee và Chin (2010) nhận thấy cá đạt 77 78 79 80 81 82 83 84 85 Kết hợp Chế biến Công nghiệp T ỉ lệ s ố n g % Thực nghiệm thức ăn 83.80%a 79.69%b 79.63%b 99 trọng lượng 600 g trong 5 tháng nuôi, và tỉ lệ sống đạt mức khá cao là 95%. Nghiên cứu của Sumagaysay (2007), trên cá trọng lượng ban đầu 1 g, thả mật độ 8.000 con/ha, thời gian nuôi 132 ngày trong điều kiện cho ăn đầy đủ, cho thấy tỉ lệ sống là từ 81 – 85%. Nghiên cứu của Frederich và ctv (2018) nhằm kiểm tra tác động của 2 loại thức ăn viên nổi và chìm lên cá Măng sữa, sau 301 ngày nuôi, tỉ lệ sống của cá dao động từ 77.78% tới 81.97%. Từ các kết quả trên có thể thấy, mặc dù chịu tác động bất lợi của thời tiết, nhưng tỉ lệ sống trong thực nghiệm thức ăn vẫn nằm trong khoảng phân bố kết quả của các tác giả khác. Tỉ lệ từ 79.33 – 83.80% nằm ở mức cao so với trung bình của nghề nuôi thủy sản, cho thấy cá Măng sữa có khả năng thích nghi tốt với các loại thức ăn đã thiết lập như trong bố trí nuôi thực nghiệm ban đầu. 3.3.3.2. Tăng trưởng của cá Măng sữa trong thực nghiệm thức ăn Từ số liệu theo dõi tăng trưởng (Phụ lục 7.2), đường cong tăng trưởng của cá Măng sữa trong thực nghiệm thức ăn thể hiện như trong Biểu đồ 3.7 sau: Biểu đồ 3.7. Tăng trưởng của cá Măng sữa trong thực nghiệm Thức ăn Sau 120 ngày nuôi, cá Măng sữa tăng trưởng tốt nhất ở nghiệm thức thức ăn công nghiệp, đạt 548.1 g, tiếp theo là nghiệm thức thức ăn chế biến với 428.4 g và cuối cùng là nghiệm thức thức ăn kết hợp với 411.7 g. Kết quả phân tích Oneway Anova cho giá trị p = 0.190, dẫn đến kết luận khác biệt trọng lượng trung bình là có ý nghĩa. 0.0 100.0 200.0 300.0 400.0 500.0 600.0 0 ngày 15 ngày 30 ngày 45 ngày 60 ngày 75 ngày 90 ngày 105 ngày 120 ngày T r ọ n g l ư ợ n g ( g ) Ngày Thực nghiệm thức ăn KH CB CN 411.7a 428.4a 548.1b 100 Khi kiểm định sâu LSD, nhằm đánh giá mức độ khác biệt giữa các cặp nghiệm thức, kết quả cho thấy khác biệt về tăng trưởng giữa 2 nghiệm thức thức ăn kết hợp và thức ăn chế biến không có ý nghĩa, do p = 0.910 (Phụ lục 7.4). Nguyên nhân theo lý giải của Kuhlmann (1998), là do lượng ăn thức ăn chế biến của cá Măng sữa luôn thấp hơn so với thức ăn tự nhiên. Có nghĩa là một phần thức ăn thêm vào sẽ tiêu thụ không hết, đặc biệt trong môi trường có sẵn thức ăn tự nhiên như ở nghiệm thức thức ăn kết hợp, dẫn đến kết quả tăng trưởng toàn kỳ nuôi chênh lệch không nhiều. Kết quả này cũng tương đồng với kết quả của Otubusin (1982), khi thí nghiệm trên các nghiệm thức không cho ăn, có cho ăn từ tháng thứ 2 và cho ăn đầy đủ suốt thời gian nuôi. Từ cá có trọng lượng trung bình ban đầu 16.2 g, sau 3 tháng nuôi, kết quả cho thấy khác biệt giữa 2 nghiệm thức cho ăn kết hợp và cho ăn đầy đủ không có ý nghĩa. Từ nghiên cứu của Luckstadt (2003), cho thấy chi phí bón phân tạo nguồn thức tự nhiên là 40%, chi phí kết hợp giữa thức ăn tự nhiên và thức ăn chế biến là 50 – 60%, chi phí chỉ sử dụng thức ăn chế biến là 60 – 70% tổng chi phí vận hành ao nuôi cá Măng sữa. Có thể kết luận, sử dụng thức ăn kết hợp trong điều kiện nuôi ở mật độ 1 con/m2, sẽ cho hiệu quả cao hơn về mặt chi phí so với hình thức chỉ cho ăn thức ăn chế biến. Khác biệt tăng trưởng ở 2 nghiệm thức thức ăn kết hợp và thức ăn công nghiệp có ý nghĩa do p = 0.129. Đúng với nghiên cứu của Luckstadt và ctv (2000), khi khảo sát 2 hình thức nuôi bằng thức ăn nhân tạo ở hệ thống thâm canh và thức ăn kết hợp (48 ngày đầu tiên sử dụng thức ăn tự nhiên) ở hệ thống bán thâm canh. Kết quả cho thấy, sau 112 ngày nuôi từ cá có trọng lượng ban đầu 120 g, trọng lượng tăng thêm của nghiệm thức thức ăn nhân tạo cao hơn, đạt 334.7 g, so với trọng lượng tăng thêm của nghiệm thức kết hợp là 232.8 g. Tương tự, khác biệt giữa 2 nghiệm thức thức ăn chế biến và thức ăn công nghiệp cũng có ý nghĩa do p = 0.103, tuy nhiên do chưa có nghiên cứu nào được tổ chức để kiểm tra tác động của thức ăn chế biến và thức ăn công nghiệp lên tăng trưởng của cá Măng sữa, nên không có dữ liệu để đối chiếu ở phép so sánh này. Hình ảnh trên Biểu đồ 3.7 cho thấy có sự gia tăng tuyến tính trọng lượng theo thời gian nuôi ở cả 3 nghiệm thức. So sánh Biểu đồ 3.7 và 3.5 có thể thấy, tăng trưởng 101 ở thực nghiệm thức ăn ổn định hơn so với độ mặn, đường cong tăng trưởng giống nhau, không có những điểm uốn chuyển hướng bất ngờ do chênh lệch độ lớn của góc đồ thị. Nguyên nhân liên quan đến hoạt động sinh lý, mức độ điều hòa huyết tương theo độ mặn của cá Măng sữa là khác nhau ở các giai đoạn phát triển khác nhau (Ferraris và ctv, 1988), dẫn đến nhịp độ tăng trưởng của cá Măng sữa biến động theo điều kiện độ mặn mạnh hơn so với thức ăn. Bảng 3.8. SGRw của cá Măng sữa trong thực nghiệm thức ăn Chỉ tiêu theo dõi Nghiệm thức KH CB CN Trọng lượng ban đầu (g) 5.2 ± 0.18a 5.4 ± 0.23a 5.1 ± 0.16a Trọng lượng kết thúc (g) 411.7 ± 4.49a 428.4 ± 4.59a 548.1 ± 4.77b SGRw (%/ngày) 3.65 ± 1.28a 3.65 ± 1.41a 3.90 ± 1.51b Các giá trị trong cùng một hàng, có ký tự a, b giống nhau thể hiện khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) Kết quả tính tỉ lệ tăng trưởng trọng lượng đặc thù SGRw thể hiện như trên Bảng 3.8. Cho thấy SGRw trong 120 ngày nuôi đạt cao nhất ở nghiệm thức thức ăn công nghiệp với 3.90, hai nghiệm thức thức ăn kết hợp và thức ăn chế biến cùng bằng nhau là 3.65. Gần tương đồng với kết quả nghiên cứu của Barman và ctv (2012) là 3.67, trong cùng điều kiện nuôi ở độ mặn 25 ppt. Biểu đồ 3.8 thể hiện biến động SGRw của 3 nghiệm thức thức ăn trên mỗi 15 ngày thu mẫu, nhìn chung ổn định hơn so với thực nghiệm độ mặn. Có 1 điểm uốn khá mạnh xuất hiện ở nghiệm thức thức ăn chế biến (CB) giai đoạn 30 ngày nuôi. Nguyên nhân có thể do công tác chế biến thức ăn khá thô sơ trước đó. Cá tạp và phụ phế phẩm thủy sản sau khi xay nhỏ, sẽ được trộn với cám gạo mà không bổ sung thêm bất cứ phụ gia nào. Sau khi trộn đều bằng xẻng, hỗn hợp được đưa vào máy đùn ép tạo hình sợi dài, cũng là thành phẩm cuối cùng sử dụng làm thức ăn cho cá. Với cách chế biến này, hạt thức ăn có thể không đủ mịn, không phù hợp với kích cỡ miệ
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_kha_nang_thich_nghi_va_tiem_nang_phat_tri.pdf
THONG TIN DONG GOP MOI ENG-VIET NCS DUNG.pdf
TOM TAT LATS NCS DUNG.pdf
TRICH YEU LATS NCS DUNG.pdf