Luận án Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật bón phân cho cà phê vối (Coffea Canephora pierre) giai đoạn kinh doanh trên đất Bazan tại Đắk Lắk

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật bón phân cho cà phê vối (Coffea Canephora pierre) giai đoạn kinh doanh trên đất Bazan tại Đắk Lắk", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật bón phân cho cà phê vối (Coffea Canephora pierre) giai đoạn kinh doanh trên đất Bazan tại Đắk Lắk

là công thức N1K2 đạt 111,3 triệu đồng/ha/năm (cao hơn đối chứng 1%), cao nhất là công thức N5K5 đạt 130,9 triệu đồng/ha/năm (cao hơn đối chứng 19%). 78 Bảng 3.9: Hiệu quả kinh tế và hiệu suất đầu tƣ phân bón khi bón tăng lƣợng đạm và kali cho cà phê vối Công thức Chỉ tiêu theo dõi GTSL (1.000đ) TCP (1.000đ) CPPB (1.000đ) LN (1.000đ) LN /CPPB N1K1(đ/c) 110.250 64.500 18.000 45.750 2,54 N1K2 111.300 65.020 18.520 46.280 2,50 N1K3 113.050 65.540 19.040 47.510 2,50 N1K4 114.800 66.060 19.560 48.740 2,49 N1K5 116.900 66.580 20.080 50.320 2,51 N2K1 112.700 65.020 18.520 47.680 2,57 N2K2 114.450 65.540 19.040 48.910 2,57 N2K3 114.800 66.060 19.560 48.740 2,49 N2K4 116.550 66.580 20.080 49.970 2,49 N2K5 117.250 67.100 20.600 50.150 2,43 N3K1 113.050 65.540 19.040 47.510 2,50 N3K2 113.750 66.060 19.560 47.690 2,44 N3K3 114.450 66.580 20.080 47.870 2,38 N3K4 120.400 67.100 20.600 53.300 2,59 N3K5 122.500 67.620 21.120 54.880 2,60 N4K1 113.750 66.160 19.660 47.590 2,42 N4K2 115.850 66.680 20.180 49.170 2,44 N4K3 124.600 67.200 20.700 57.400 2,77 N4K4 127.400 67.720 21.220 59.680 2,81 N4K5 130.550 68.240 21.740 62.310 2,87 N5K1 116.200 66.630 20.130 49.570 2,46 N5K2 121.100 67.060 20.560 54.040 2,63 N5K3 127.400 67.670 21.170 59.730 2,82 N5K4 129.850 68.190 21.690 61.660 2,84 N5K5 130.900 68.710 22.210 62.190 2,80 Ghi chú: giá bán cà phê nhân trung bình năm 2012 và 2013: 35.000 đ/kg 79 - Tổng chi phí và chi phí phân bón: Tổng chi phí cho sản xuất 1 ha cà phê ngoài lượng phân đạm, lân, kali và phân chuồng theo quy trình của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn còn có các chi phí khác như thuốc bảo vệ thực vật, nước tưới, công lao động, chi phí khấu hao tài sản được tính theo giá trung bình năm 2012 và 2013 theo khảo sát của tác giả (phụ biểu 4). Theo kết quả điều tra khảo sát của chúng tôi tổng chi phí sản xuất 1 ha cà phê vối giai đoạn kinh doanh trên đất bazan tại Đắk Lắk trung bình năm 2012 và 2013 tổng cộng 64,5 triệu đồng (với lượng phân đạm và kali theo đúng quy trình của Bộ NN&PTNT). Các công thức bón phân với liều lượng tăng đạm và kali (mọi chi chi phí khác ngoài yếu tố đạm, kali và công lao động không đổi) có sự khác nhau về tổng chi phí do tăng lượng phân đạm, kali tăng từ 1% đến 7% và công lao động tăng thêm do thu hái sản phẩm nhiều hơn. Nếu tính riêng với chi phí phân bón (CPPB) tăng từ 3% (N1K2 và N2K1 - 18,52 triệu) đến 23% (N5K5 - 22,21 triệu) so với đối chứng. - Lợi nhuận: Các công thức bón phân với liều lượng tăng đạm và kali cho lợi nhuận (LN) khác nhau, thấp nhất là công thức N1K2 cho lợi nhuận cao hơn đối chứng 530.000 đồng/ha và cao nhất là công thức N4K5 (3,73 tấn/ha) đạt 16,56 triệu đồng/ha, cao hơn công thức bón phân N5K5 (3,74 tấn/ha) đạt lợi nhuận 16,44 triệu đồng/ha. Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Văn Minh, (2013) [40] trong năm 2012 với liều lượng phân bón và công thức bón tương đương cho lợi nhuận cao hơn đối chứng thấp nhất đạt 1,38 triệu đồng/ha do giá cà phê bình quân năm 2012 cao đạt 38.000 đ/kg, trong khi đó giá bình quân năm 2012 và 2013 chỉ còn lại 35.000 đ/kg. Kết quả này phù hợp với kết luận của Tôn Nữ Tuấn Nam và cộng sự, (2003) [49] cho rằng khi bón phân cho cà phê vối cao hơn mức (350 kg N + 100 Kg P2O5 + 350 kg K2O kg/ha/năm) trong điều kiện có bón 14 - 15 tấn phân chuồng/ha 2 năm bón 1 lần có thể cho năng suất cao hơn 4,5 tấn nhưng không có hiệu quả kinh tế; Nhưng lại không phù hợp với kết luận của tác giả Y Kanin H’Dơk và Trình Công Tư, (2007) [29] khi nghiên cứu hiệu quả của phân đạm, lân và kali đối với cà phê vối kinh doanh trên đất bazan Đắk Lắk tại xã Hòa Thắng, thành phố Buôn Ma Thuột cho rằng: Không phải cứ bón tăng liều lượng đạm, lân và kali cho cà phê vối là sẽ tăng được năng suất và lợi nhuận. Mức bón đạt hiệu quả kinh tế kỹ 80 thuật tối ưu cho 1 ha/năm là 379,8 kg N + 172,7 kg K2O + 415,2 kg K2O, bón nhiều hay ít hơn mức đề nghị này đều làm giảm thu nhập. - Lợi nhuận/chi phí phân bón: Các công thức bón phân với liều lượng tăng đạm và kali cho kết quả khác nhau về lợi nhuận/chi phí phân bón dao động từ 2,38 (N3K3) đến 2,87 (N4K5). Tỉ lệ này càng cao thể hiện hiệu quả đầu tư phân bón càng cao, cao nhất là công thức bón phân N4K5 cho giá trị lợi nhuận/chi phí phân bón tăng 12% so với công thức đối chứng. 3.1.5. Tóm tắt kết quả thí nghiệm 1 - Công thức bón phân N5K5 với liều lượng (364 kg N + 95 kg P2O5 + 336 kg K2O/năm/ha) có ảnh hưởng trực tiếp đến hấp thu dinh dưỡng khoáng làm tăng khả năng hấp thu N, K, Mg, Ca trong đất và lá cà phê; Có ảnh hưởng tích cực đến quá trình sinh trưởng phát triển, đặc biệt làm gia tăng hàm lượng diệp lục a lên 37%, cường độ quang hợp tăng 66%, tăng 19% chiều dài cành dự trữ và giảm 28% số cành khô/cây so với đối chứng có ý nghĩa thống kê mức 95%. - Công thức bón phân N4K5 với liều lượng (338 kg N + 95 kg P2O5 + 336 kg K2O/năm/ha) có hiệu quả nhất, tăng tỉ lệ cà phê nhân xuất khẩu lên 14%, giảm tỉ lệ tươi/nhân 7%, làm tăng 18% năng suất cà phê nhân so với đối chứng mức ý nghĩa 95%. Công thức N4K5 cũng là công thức bón phân cho lợi nhuận cao nhất 62,31 triệu đồng/ha/năm và hiệu suất đầu tư phân bón tốt nhất với giá trị lợi nhuận/chi phí phân bón đạt 2,87 lần. 81 3.2. Ảnh hƣởng cách bón (số lần và tỉ lệ bón) đạm, lân và kali đến cây cà phê vối giai đoạn kinh doanh trên đất bazan 3.2.1. Ảnh hưởng của số lần và tỉ lệ bón đạm, lân và kali đến hàm lượng một số chất trong đất và lá cà phê 3.2.1.1. Ảnh hưởng số lần và tỉ lệ bón đạm, lân và kali đến một số chỉ tiêu hóa tính đất trồng cà phê - Đạm tổng số, lân và kali dễ tiêu: Nhìn chung hàm lượng đạm tổng số, lân và kali dễ tiêu trong đất của các công thức bón phân với số lần và tỉ lệ bón khác nhau có sự khác nhau rõ rệt. Sự khác nhau này có ý nghĩa thống kê giữa CT3 so với CT1 ở mức 95%. Với hàm lượng đạm tổng số trong đất dao động từ 0,18% (trước thí nghiệm) đến 0,23% (CT3). Trong đó CT3 có hàm lượng đạm tổng số, lân và kali dễ tiêu cao nhất, cao hơn đối chứng tương ứng 21%, 16% và 12%. Sở dĩ có kết quả trên là do ở CT3 phân đạm, kali được bón 5 lần/năm và phân lân được bón 2 lần/năm, nhiều hơn CT1 đạm được bón 4 lần, kali được bón 3 lần và lân bón 1 lần/năm. Kết quả này tương đương với nghiên cứu của Phạm Thế Trịnh, (2012) [74] khi nghiên cứu đặc điểm sử dụng đất đỏ bazan tỉnh Đắk Lắk kết luận hàm lượng đạm trong đất đỏ bazan là 0,20%. Đối với hàm lượng kali dễ tiêu trong đất các công thức thí nghiệm dao động từ 14,76 đến 16,57 mg/100g đất tương đương với kết quả của các tác giả Nguyễn Anh Dũng, Trần Trung Dũng, Võ Thị Phương Khanh, (2013) [92] nghiên cứu ảnh hưởng của phân vi sinh làm từ vỏ cà phê trên nền phân bón (220 kg N + 80 kg P2O5 + 240 kg K2O/ha/năm) và bón từ 2 đến 3 kg phân hữu cơ vi sinh/cây/năm cho hàm lượng kali dễ tiêu trong đất dao động từ 14,70 đến 17,50 mg/100g đất. - Các chỉ tiêu khác như: pHKCL, hữu cơ, lân tổng số, Ca 2+ , Mg 2+ và CEC: Giữa các công thức thí nghiệm có sự khác nhau, cao nhất là CT3 và thấp nhất là công thức đối chứng nhưng sự khác nhau này không có ý nghĩa thống kê. Với hàm lượng hữu cơ trong đất của các công thức thí nghiệm qua 2 năm 2012 và 2013 dao động từ 3,32% (trước thí nghiệm) đến 3,52% (CT3). Canxi và magie là hai nguyên tố trung lượng rất cần thiết cho cây cà phê, đặc biệt đối với hàm lượng canxi trên đất đỏ bazan mặc dù là loại đất rất phù hợp cho cây cà phê sinh trưởng nhưng nhiều 82 nghiên cứu cho thấy hiện tượng thiếu canxi vẫn thường xảy ra. Phân tích số liệu hàm lượng Ca2+ và Mg2+ trong đất của các công thức thí nghiệm chúng tôi đặc biệt quan tâm đến tỉ lệ Ca2+/Mg2+, tỉ lệ này giữa các công thức bón phân CT1, CT2 và CT3 tương ứng 1,29; 1,36 và 1,32. So sánh với kết luận của tác giả Boyer, (1982) [88] thì cấu trúc đất tại địa điểm thí nghiệm vẫn giữ được sự ổn định. Bảng 3.10: Ảnh hƣởng số lần và tỉ lệ bón đạm, lân và kali đến một số chỉ tiêu hóa tính đất (tầng 0-30 cm) Chỉ tiêu theo dõi Trước thí nghiệm Các công thức CT1 CT2 CT3 CV (%) LSD0,05 pHKCL 4,40 4,26 4,45 4,47 4,39 NS Hữu cơ (%) 3,32 3,37 3,53 3,52 6,26 NS N (%) 0,18 0,19 b 0,22 ab 0,23 a 8,09 0,02 P2O5 tổng số (%) 0,19 0,20 0,22 0,21 4,76 NS K2O tổng số (%) 0,11 0,12 0,13 0,14 8,18 NS P2O5dt (mg/100g đất) 6,81 7,00 b 7,86 ab 8,10 a 6,77 0,33 K2Odt (mg/100g đất) 14,42 14,76 b 15,26 ab 16,57 a 5,72 0,86 Ca 2+ (lđl/100g đất) 2,65 2,77 2,89 2,92 2,85 NS Mg 2+(lđl/100g đất) 2,12 2,14 2,13 2,22 2,69 NS CEC (lđl/100g đất) 14,54 14,99 16,01 16,32 4,20 NS Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong hàng biểu thị sự sai khác có ý nghĩa thống kê với p<0,05; NS: Sai khác không có ý nghĩa. - Đối với hàm lượng Ca2+ và Mg2+ trong các công thức bón phân với số lần và tỉ lệ bón khác nhau dao động từ 2,65 mg/100g đến 2,92 mg/100g đất (đối với canxi) và 2,12 mg/100g đến 2,22 mg/100g đất (đối với magie) thấp hơn khá nhiều so với nghiên cứu về ảnh hưởng của phân vi sinh làm từ vỏ cà phê trên nền phân bón (220 kg N + 80 kg P2O5 + 240 kg K2O/ha/năm) đến một số chất trong đất bazan trồng cà phê vối tại Đắk Lắk của các tác giả Nguyễn Anh Dũng, Trần Trung Dũng, Võ Thị Phương Khanh, (2013) [92] dao động từ 2,40 đến 3,40 mg/100g đất (đối với canxi) và 2,00 đến 2,80 mg/100g đất (đối với magie). 83 Như vậy, sau 2 năm thí nghiệm 2012 và 2013 bón đạm và kali 5 lần/năm (30% mùa khô và 70% mùa mưa) và bón lân 2 lần/năm (50% mùa khô và 50% mùa mưa) - CT3 cho cây cà phê vối giai đoạn kinh doanh trên đất bazan tại Đắk Lắk trên nền phân theo quy trình của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho thấy sự khác biệt về hàm lượng đạm, lân dễ tiêu và kali dễ tiêu trong đất trồng cà phê. 3.2.1.2. Ảnh hưởng số lần và tỉ lệ bón đạm, lân và kali đến một số chất trong lá cà phê Phân tích hàm lượng một số chất trong lá cà phê, kết quả được ghi nhận ở bảng 3.11 cho thấy: Bón đạm, lân, kali theo số lần và tỉ lệ khác nhau với một lượng nhất định trên một đơn vị diện tích sau 2 năm 2012 và 2013 có ảnh hưởng rõ rệt đến khả năng hấp thu dinh dưỡng của cây và hàm lượng chất khoáng trong lá của cây cà phê. Một số nguyên tố dinh dưỡng khoáng chủ yếu trong lá như: N, K, CaO và MgO của các công thức cao hơn trước thí nghiệm và cao hơn công thức đối chứng bón theo quy trình khuyến cáo của Bộ NN&PTNT có ý nghĩa thống kê ở mức 95%. Bảng 3.11: Ảnh hƣởng số lần và tỉ lệ bón đạm, lân và kali đến hàm lƣợng một số chất trong lá cà phê Chỉ tiêu theo dõi Trước thí nghiệm (%) Các công thức CT1 (%) CT2 (%) CT3 (%) CV (%) LSD0,05 N 3,37 3,42 b 3,46 ab 3,58 a 4,29 0,15 P 0,14 0,15 0,17 0,17 8,08 NS K 1,64 1,71 b 1,83 ab 1,95 a 6,01 0,19 CaO 1,29 1,35 b 1,39 ab 1,52 a 6,14 0,09 MgO 0,32 0,32 b 0,34 ab 0,37 a 6,79 0,03 Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong hàng biểu thị sự sai khác có ý nghĩa thống kê với p<0,05; NS: Sai khác không có ý nghĩa. - Hàm lượng đạm: Trong lá cà phê của các công thức thí nghiệm có sự khác nhau thấp nhất là công thức đối chứng (3,42%), cao nhất là CT3 (3,58%). Sự sai khác này có ý nghĩa thống kê ở mức 95% giữa CT1 và CT3, giữa các cặp công thức còn lại sự sai khác không có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Sanh, (2009) [59] xây dựng thang dinh dưỡng khoáng trên lá cà phê vối giai đoạn kinh doanh tại Đắk Lắk vào đầu mùa mưa hướng tới dinh dưỡng tối ưu để đạt năng suất 84 từ 3 - 4 tấn nhân/ha/năm cho rằng hàm lượng trong lá tối ưu là 3,05 đến 3,28% và trên 3,28% sẽ xảy ra hiện tượng thừa đạm. Kết quả phân tích về hàm lượng đạm trong lá cà phê của chúng tôi cao hơn so với tác giả Nguyễn Văn Sanh có thể được giải thích: Khi chuẩn đoán dinh dưỡng trên lá cà phê vào giai đoạn đầu mùa mưa, thời điểm này bón phân theo quy trình của Bộ NN&PTNT thì cà phê được bón duy nhất 20% phân SA, trong khi đó thí nghiệm của chúng tôi ở CT3 bón 2 lần đạm trong mùa khô, chắc chắn hàm lượng đạm trong lá sẽ cao hơn. - Hàm lượng lân: Khi phân tích hàm lượng lân trong lá cà phê của các công thức thí nghiệm tại bảng 3.11 cho thấy: Thấp nhất đạt 0,15% và cao nhất đạt 0,17%, có sự sai khác giữa các công thức nhưng không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu về liều lượng bón phân lân cho cà phê vối giai đoạn kinh doanh trên đất bazan tại tỉnh Đắk Lắk của Lê Hồng Lịch, (2008) [32] bón lân ở mức từ 100 đến 150 kg/ha trên nền bón (300 kg N + 300 kg K2O/ha/năm) có hàm lượng lân trong lá từ 0,13% đến 0,15% do thí nghiệm của chúng tôi bón lân 2 lần/năm vào giữa mùa khô và đầu mùa mưa, còn tác giả Lê Hồng Lịch bón theo quy trình của Bộ NN&PTNT lân được bón duy nhất một lần vào đầu mùa mưa. - Hàm lượng kali: Hàm lượng kali trong lá cà phê của các công thức thí nghiệm có sự sai khác rõ rệt, thấp nhất là công thức đối chứng (1,71%), cao nhất là CT3 (1,95%). Sự sai khác này có ý nghĩa thống kê ở mức 95% giữa CT1 và CT3, giữa các cặp công thức còn lại sự sai khác không có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu về liều lượng và thời điểm bón kali cho cà phê vối tại Tây Nguyên của Nguyễn Thị Thúy, (2007) [71] cho rằng nếu bón cho cà phê vối 300 kg K2O/ha/năm chia làm 3 lần vào giữa tháng 5, 7 và 10 thì hàm lượng kali trong lá cà phê đạt cao nhất vào tháng 5 (2,49%), thấp nhất vào tháng 9 (2,05%) và hàm lượng kali trong lá vừa đủ; Nếu bón đến 400 kg K2O/ha/năm chia làm hai lần bón vào giữa tháng 5 và tháng 10 thì hàm lượng kali trong lá cũng đạt cao nhất vào tháng 5 (2,66%), thấp nhất vào tháng 8 và tháng 9 tương ứng 1,85% và 1,73% nên nguy cơ thiếu kali đối với cà phê trong 3 tháng 7, 8, 9 là không tránh khỏi. Như vậy, theo nhận định của tác giả Nguyễn Thị Thúy thì hàm lượng kali trong lá cà phê các công thức thí nghiệm của chúng tôi khi bón 240 kg K2O/ha/năm cho cà phê vối chỉ đạt mức trung bình, vừa 85 đủ cho cây trồng sinh trưởng và phát triển. Vì vậy, mong muốn năng suất cà phê giữ vững và ổn định về năng suất, chất lượng thì việc tăng thêm số lần bón kali cho cây cà phê vối kinh doanh theo từng giai đoạn cụ thể trên một lượng cố định trong thí nghiệm của chúng tôi là hoàn toàn có cơ sở. - Hàm lượng CaO: Có sự khác nhau giữa các công thức thí nghiệm, ở CT2 hàm lượng CaO trong lá tăng 3% và CT3 tăng 13% so với đối chứng, sự sai khác này có ý nghĩa thống kê ở mức 95% giữa CT3 với công thức đối chứng. Đối với cây cà phê vối giai đoạn kinh doanh tại khu vực CưMgar, Đắk Lắk thường bị một số hiện tượng nứt gốc hoặc thân cây tạo điều kiện để nấm, tuyến trùng xâm nhập dễ dàng hơn và gây bệnh. Canxi là nguyên tố có thể làm giảm tỉ lệ nứt thân và gốc cây cà phê, đặc biệt là cây cà phê già cỗi. Kết quả phân tích của chúng tôi về hàm lượng CaO trong lá cao hơn khá nhiều so với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thúy, (2007) [70] về hiệu lực của vôi đối với cà phê trên đất bazan trong 3 năm 1994 đến 1996 cho rằng nếu bón vôi ở 2 mức 800 và 1.000 kg vôi/ha/năm thì hàm lượng CaO trong lá tương ứng 0,84 và 0,88%. Rất tiếc, tác giả không nói rõ là bón vôi với các liều lượng như vậy trên nền phân bón như thế nào nên rất khó so sánh. - Hàm lượng MgO: Hàm lượng MgO trong lá cà phê có liên quan chặt chẽ tới hàm lượng diệp lục, đặc biệt là diệp lục a và các sắc tố quang hợp, các sắc tố này sẽ ảnh hưởng tới quá trình quang hợp của cây trồng. Sự hấp thu MgO trong lá cà phê của các công thức thí nghiệm là rất khác nhau, cao nhất là CT3 (0,37%) tăng 16% và CT2 (0,34%) tăng 6% so với đối chứng. Sự sai khác về hàm MgO trong lá cà phê chỉ có ý nghĩa giữa công thức bón đạm, kail 5 lần/năm và lân 2 lần/năm so với đối chứng mức 95%, giữa các công thức khác có sự gia tăng nhưng không có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thúy, (2007) [70] về hiệu lực của vôi đối với cà phê trên đất bazan trong 3 năm 1994 đến 1996 cho rằng nếu bón vôi ở 6 mức, mỗi lần tăng 200 kg vôi từ 0 kg đến 1.000 kg vôi/ha/năm thì hàm lượng MgO trong lá giảm tương ứng 0,43% xuống còn 0,29%. Như vậy, vôi có thể là nguyên tố đối kháng với magie đối với cây cà phê vối giai đoạn kinh doanh nếu bón không cân đối hai nguyên tố trên. 86 Rõ ràng, bón đạm và kali 5 lần/năm (30% mùa khô và 70% mùa mưa) và bón lân 2 lần/năm (50% mùa khô và 50% mùa mưa) - CT3 cho cây cà phê vối giai đoạn kinh doanh trên đất bazan tại Đắk Lắk trên nền phân theo quy trình của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn sau hai năm thí nghiệm cho thấy sự khác biệt về hàm lượng đạm, kali, CaO và MgO trong lá cà phê. 3.2.2. Ảnh hưởng của số lần và tỉ lệ bón đạm, lân và kali đến hàm lượng các sắc tố quang hợp, sinh trưởng phát triển của cây cà phê 3.2.2.1. Ảnh hưởng của số lần và tỉ lệ bón đạm, lân và kali đến hàm lượng các sắc tố quang hợp trong lá cà phê Quang hợp là quá trình tổng hợp các hợp chất hữu cơ của thực vật từ khí cacbonic, nước và ánh sáng mặt trời, vì vậy nó quyết định đến quá trình sinh trưởng, phát triển, tích lũy chất khô và năng suất của cây trồng. Quá trình quang hợp của cây trồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có hàm lượng các sắc tố quang hợp như diệp lục a, diệp lục b và carotenoit. Diệp lục là hợp chất trực tiếp nhận năng lượng của ánh sáng mặt trời và chuyển năng lượng đó thành hóa năng trong hợp chất cao năng ATP và hợp chất khử NADPH. Các hợp chất năng lượng có vai trò khử CO2 thành đường. - Diệp lục a: Trong các phân tử diệp lục thì diệp lục a là chỉ tiêu quan trọng nhất và có liên quan chặt chẽ tới năng suất cây trồng nói chung và năng suất cà phê nói riêng. Hàm lượng diệp lục a ở các công thức thí nghiệm tăng từ 8% (CT2:1,63 mg/g lá tươi) đến 17% (CT3:1,77 mg/g lá tươi) và sự sai khác này có ý nghĩa thống kê giữa CT3 so với đối chứng ở mức 95%. Kết quả phân tích hàm lượng diệp lục a trong các thí nghiệm của chúng tôi tương đương với kết luận của Võ Văn Hoàng, (2010) [18] cho rằng hàm lượng diệp lục a trong lá cà phê vối tại Buôn Ma Thuột dao động từ 1,55 mg/g lá tươi đến 1,85 mg/g lá tươi khi bón phân với liều lượng đạm, lân và kali giống nhau. - Diệp lục b: Hàm lượng diệp lục b trong lá cà phê được đánh giá không cao như hàm lượng diệp lục a nhưng hàm lượng diệp lục b có ảnh hưởng khả năng quang hợp và năng suất cà phê. Hàm lượng diệp lục b ở các công thức bón đạm, lân, kali với số lần và tỉ lệ bón khác nhau tăng từ 0,95 mg/g lá tươi ở công thức đối 87 chứng đến 1,05 mg/g lá tươi ở công thức bón phân (CT3) nhưng sự sai khác này có ý nghĩa thống kê ở mức 95% giữa công thức có hàm lượng diệp lục tăng từ 11% trở lên so với đối chứng. Kết quả phân tích hàm lượng diệp lục b trong các thí nghiệm của chúng tôi cao hơn giới hạn dưới, tương đương giới hạn trên với kết luận của Võ Văn Hoàng, (2010) [18] cho rằng hàm lượng diệp lục b trong lá cà phê vối tại Buôn Ma Thuột dao động từ 0,86 đến 1,05 mg/g lá tươi khi bón phân với liều lượng đạm, lân và kali giống nhau. Bảng 3.12: Ảnh hƣởng của số lần và tỉ lệ bón đạm, lân và kali đến hàm lƣợng các sắc tố quang hợp trong lá cà phê Chỉ tiêu theo dõi Các công thức CT1 CT2 CT3 CV(%) LSD0,05 Diệp lục a (mg/g lá tươi) 1,51b 1,63ab 1,77a 9,09 0,22 Diệp lục b (mg/g lá tươi) 0,95b 0,97ab 1,05a 5,83 0,08 Diệp lục ts (mg/g lá tươi) 2,46b 2,60ab 2,83a 7,17 0,22 Carotenoit (mg/g lá tươi) 1,08 1,15 1,17 14,17 NS Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong hàng biểu thị sự sai khác có ý nghĩa thống kê với p<0,05; NS: Sai khác không có ý nghĩa. - Diệp lục tổng số: Diệp tục tổng số của các các công thức thí nghiệm thấp nhất 2,46 mg/g lá tươi (CT1) đến cao nhất đạt 2,83 mg/g lá tươi (CT3). Các công thức bón phân với số lần và tỉ lệ khác nhau dẫn đến sự gia tăng hàm lượng diệp lục tổng số. Công thức có hàm lượng tăng từ 15% trở lên có ý nghĩa thống kê ở mức 95% so với đối chứng. Sự gia tăng hàm lượng diệp lục tổng số phụ thuộc rất vào nhiều yếu tố khác như loại cây, tuổi lá nhưng quan
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_mot_so_bien_phap_ky_thuat_bon_phan_cho_ca.pdf
1. Nguyen Van Minh_Tom tat.pdf
3. Nguyen Van Minh_Donggopmoi.pdf