Luận án Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý của dịch tiêu chảy cấp trên lợn (porcine epidemic diarrhea - Ped) tại tỉnh Thanh Hóa và giải pháp phòng trị

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý của dịch tiêu chảy cấp trên lợn (porcine epidemic diarrhea - Ped) tại tỉnh Thanh Hóa và giải pháp phòng trị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý của dịch tiêu chảy cấp trên lợn (porcine epidemic diarrhea - Ped) tại tỉnh Thanh Hóa và giải pháp phòng trị

53 nhanh, giảm ăn (bú), nằm dồn đống hoặc nằm trên bụng mẹ), sau đó tiến hành chẩn đoán nhanh bằng Test kit PED Ag và RT-PCR để xác định chính xác bệnh. Những lợn còn lại ở trong đàn nếu có những biểu hiện tương tự lợn có kết quả Test kit PED Ag và RT-PCR dương tính cũng được xác định là mắc PED. Kết quả theo dõi tình hình dịch PED trên đàn lợn ở một số gia trại và trang trại chăn nuôi tại 6 huyện của Thanh Hoá được thể hiện qua hình 4.2. Ghi chú: Các chữ cái a,b,c,d,e biểu hiện sự sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong cùng 1 chỉ tiêu (P<0,05) Hình 4.2. Thực trạng mắc PED trên lợn nuôi tại các huyện của tỉnh Thanh Hoá Tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết và tỷ lệ tử vong ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) của 6 huyện thuộc tỉnh Thanh Hoá khá cao, trung bình tỷ lệ mắc bệnh khoảng 14,56%, tỷ lệ chết là 7,77% và tỷ lệ tử vong là 53,38% (bảng 4.2). Trong đó lợn nuôi tại huyện Tĩnh Gia có tỷ lệ mắc bệnh (16,12%), tỷ lệ chết (9,12%) và tỷ lệ tử vong (56,57%) là cao nhất và huyện Yên Định có tỷ lệ mắc bệnh (12,08%) và tỷ lệ chết (6,67%) thấp nhất so với các huyện (P<0,05). Nguyên nhân dẫn đến có sự khác nhau giữa các huyện trong tỉnh là do có sự khác biệt về đặc điểm địa lý và trình độ kỹ thuật chăn nuôi. Tĩnh Gia là huyện vùng ven biển, chịu tác động của khí hậu vùng biển. Như Thanh và Thạch Thành 54 là những huyện thuộc khu vực miền núi, các chủ trại đa số là người địa phương khả năng tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật còn hạn chế. Phạm Khắc Hiếu & cs. (1998) cho rằng các yếu tố khí hậu, thời tiết không thuận lợi là yếu tố tác động rất mạnh đến quá trình loạn khuẩn ở lợn và là nguyên nhân gây ra hội chứng tiêu chảy. Theo Hoàng Văn Tuấn & cs. (1998), tỷ lệ mắc tiêu chảy trong một số cơ sở chăn nuôi lợn phụ thuộc vào điều kiện chăm sóc, vệ sinh thú y. Mai Thi Ngan (2020), khi nghiên cứu tình hình dịch tiêu chảy cấp (PED) tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 1 năm 2018 đến tháng 2 năm 2019 thì ở các vùng địa lý khác nhau cho kết quả mắc bệnh khác nhau. Ở khu vực Đông Bắc tỷ lệ nhiễm là 36,5%; khu vực Tây Bắc tỷ lệ nhiễm là 27,3%; Đồng bằng Sông Hồng tỷ lệ nhiễm là 33,6% và khu vực Duyên hải Bắc Trung bộ có tỷ lệ nhiễm là 11,4%. 4.1.3. Tình hình dịch tiêu chảy cấp theo đối tƣợng lợn nuôi tại Thanh Hoá Để đánh giá khả năng kháng bệnh cũng như mức độ gây thiệt hại cho đàn lợn khi mắc dịch tiêu chảy cấp, chúng tôi đã tiến hành phân đối tượng lợn thành năm nhóm khác nhau, kết quả theo dõi được trình bày tại bảng 4.2. Qua bảng 4.2 cho thấy, 100% đối tượng lợn đều bị mắc bệnh, tuy nhiên tỷ lệ mắc bệnh ở các nhóm đối tượng là khác nhau. Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất là ở lợn con theo mẹ với tỷ lệ mắc bệnh là 22,01%, tiếp đến là lợn sau cai sữa với tỷ lệ mắc bệnh là 12,04% và thấp nhất là lợn đực giống (p<0,05). Ba nhóm đối tượng lợn là lợn thịt, lợn nái và lợn đực giống có tỷ lệ mắc bệnh tương đương nhau và không có sự khác biệt về mặt thống kê học (p>0,05). Về tỷ lệ chết và tỷ lệ tử vong do mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) trên đàn lợn chỉ xảy ra đối với hai nhóm đối tượng đó là nhóm lợn con theo mẹ với tỷ lệ chết là 15,99% và tỷ lệ tử vong là 72,63%. Nhóm lợn sau cai sữa với tỷ lệ chết là 3,20% và tỷ lệ tử vong là 26,59%. Khi nghiên cứu về PED ở 6 tỉnh phía Bắc, lợn ở tất cả các lứa tuổi đều mắc bệnh, tỷ lệ tử vong ở lợn con theo mẹ là 68,60% và có sự khác biệt lớn về mức độ mắc bệnh giữa các nhóm tuổi (Nguyễn Văn Điệp & cs., 2014). Cũng nghiên cứu về vấn đề này, Đoàn Anh Tuấn (2012) cho biết: Nếu lợn con mắc bệnh ở độ tuổi 0 – 5 ngày tuổi: tỷ lệ tử vong 100%, nếu lợn con mắc bệnh ở độ tuổi 6 – 7 ngày tuổi tỷ lệ tử vong khoảng 50% còn nếu lợn con mắc bệnh ở độ tuổi lớn hơn 7 ngày tuổi tỷ lệ tử vong khoảng 30%. Tomoyuki (2014), khi theo dõi tình hình mắc PED tại Nhật Bản giai đoạn từ tháng 10 năm 55 2013 đến tháng 10 năm 2014 cho biết: Lợn nái sau khi mắc PED sẽ tự phục hồi sau một tuần, trong khi đó lợn con theo mẹ trong vòng 10 ngày tuổi có tỷ lệ tử vong rất cao, từ 50 – 100%. Bảng 4.2. Tình hình mắc dịch tiêu chảy cấp ở các đối tƣợng lợn tại Thanh Hoá Đối tƣợng lợn Số lợn điều tra (con) Số lợn mắc (con) Số lợn chết (con) Tỷ lệ mắc (%) Tỷ lệ chết (%) Tỷ lệ tử vong (%) Lợn con theo mẹ 7.287 1.604 1.165 22,01d 15,99b 72,63b Lợn cai sữa 3.529 425 113 12,04c 3,20a 26,59a Lợn thịt 4.496 281 0 6,25a 0,00 0,00 Lợn nái 1.131 84 0 7,43b 0,00 0,00 Lợn đực giống 86 5 0 5,81a 0,00 0,00 Tổng 16.443 2.394 1.278 Ghi chú: Các chữ cái a,b,c,d biểu hiện sự sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong cùng cột (P<0,05) Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tỷ lệ tử vong cao là do virus xâm nhập vào cơ thể qua đường miệng và mũi đi đến khu trú và gây tổn thương ở ruột non của đường tiêu hóa. Bệnh tích xuất hiện trên niêm mạc ruột non 15 giờ sau, đây được coi là vị trí nhân lên đầu tiên của virus. Sau đó, virus gắn lên lông nhung của không tràng và hồi tràng. Virus sẽ phá hủy các tế bào niêm mạc ruột và các trụ tuyến Lieberkuhn và sẽ gây nên sự mòn và làm ảnh hưởng đến khả năng hấp thu chất dinh dưỡng của lông nhung. Virus tấn công vào hệ lông nhung ruột làm giảm bề mặt hấp thu gây tiêu chảy, dẫn đến lợn bị mất nước và muối khoáng. Việc mất cân bằng chất điện giải sẽ gây rối loạn tiêu hóa cho lợn con; sự hiện diện của đường lactose không phân hủy trong lòng ruột sẽ làm lợn tiêu chảy nặng và mất cân bằng nước. Theo Pensaert & cs. (2006), virus PED có chu kỳ nhân lên từ 12 đến 36 giờ. Sau 4 - 5 chu kỳ nhân lên của virus, hầu hết các tế bào niêm mạc đường tiêu hóa ở lợn mới sinh bị phá huỷ làm cho khả năng tiêu hóa và hấp thu giảm từ 7:1 56 xuống còn 3:1. Do vậy, khi bị bệnh lợn con gầy sút rất nhanh trong vài ngày, tỷ lệ tử vong rất cao, hầu hết lợn dưới 7 ngày tuổi sẽ tử vong sau 2 - 7 ngày với biểu hiện của sự mất nước và hôn mê. Huang & cs. (2013); Stevenson & cs. (2013) cho biết: Trong năm 2005- 2006, dịch PED xảy ra nghiêm trọng ở Ý, với tỷ lệ chết ở lợn con theo mẹ từ 8,3% đến 11,9%. Năm 2013 dịch bệnh đã lây lan trên 200 trại nuôi lợn ở khắp nước Mỹ, hơn 17 bang có dịch bệnh trong vòng 3 tháng, với tỷ lệ chết trên lợn con từ 50 – 100%. Ở Trung Quốc từ tháng 2 năm 2010 đến tháng 11 năm 2011 bệnh bùng phát trở lại và gây hậu quả nghiêm trọng, tỷ lệ lợn chết từ 90 tới 100% (tương ứng 50.000 con), chủ yếu là lợn dưới 7 ngày tuổi (Chen & cs., 2013). Nguyễn Văn Điệp & Nguyễn Thị Lan (2012) cho biết, tại một trại nuôi lợn thịt mới nhập lợn về từ nhiều nguồn khác nhau hoặc trong giai đoạn nuôi vỗ béo, nếu PED bùng phát ở thể cấp tính, trong vòng một tuần, tất cả lợn sẽ có biểu hiện tiêu chảy. Lợn có biểu hiện chán ăn, mệt mỏi, phân rất loãng, chứa nhiều nước. Giai đoạn vỗ béo lợn thường có biểu hiện đau vùng bụng nhiều hơn, sau khoảng 7 - 10 ngày, lợn sẽ hồi phục. Tỷ lệ tử vong ở lợn trong giai đoạn vỗ béo thường từ 1 - 3%, lợn chết nhanh, thường ở giai đoạn mới bắt đầu tiêu chảy hoặc trước khi có biểu hiện tiêu chảy. Thai Swine Veternary Association (2015) lợn con theo mẹ rất mẫn cảm với bệnh. Khi mắc PED lợn tiêu chảy nghiêm trọng và rơi vào tình trạng mất nước gây tử vong. Tỷ lệ tử vong ở lợn con theo mẹ tại khu vực phía Đông, Thái Lan từ 80 – 100%, trong đó lợn con dưới 7 ngày tuổi tỷ lệ tử vong là 100%. Ở lợn lớn thường không xảy ra tử vong do PED, tuy nhiên khi lợn lớn mắc PED đã ảnh hưởng đến khả năng tăng trọng cũng như an toàn sinh học tại trang trại do chúng mang mầm bệnh và thường xuyên thải ra môi trường. Như vậy, đối với dịch tiêu chảy cấp (PED) thì đối tượng lợn con, đặc biệt là đối tượng lợn con theo mẹ có tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong là cao nhất. Các đối tượng lợn thịt, lợn nái và lợn đực giống cũng bị mắc bệnh nhưng tỷ lệ mắc thấp và không gây tử vong và kết quả nghiên cứu về tình hình mắc PED này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên. 4.1.4. Tình hình lợn mắc dịch tiêu chảy cấp theo mùa trong năm tại Thanh Hoá Việc xác định đặc tính dịch tễ của dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) theo mùa vụ trong năm có ý nghĩa rất quan trọng, giúp người chăn nuôi và các nhà 57 Thú y có những biện pháp phòng bệnh và can thiệp kịp thời khi có dịch xảy ra. Chính vì vậy, tiến hành theo dõi chỉ tiêu này là rất cần thiết. Kết quả theo dõi tình hình mắc PED trên đàn lợn theo mùa trong năm tại Thanh Hoá được thể hiện qua hình 4.3. Ghi chú: Các chữ cái a,b,c,d biểu hiện sự sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong cùng 1 chỉ tiêu (P<0,05) Hình 4.3. Trình trạng mắc PED theo mùa tại Thanh Hoá Tỷ lệ mắc PED tại mùa Đông là cao nhất, tỷ lệ mắc bệnh trong đàn lên đến 21,70% và thấp nhất là mùa Hè với với tỷ lệ mắc là 7,43% (bảng 4.3). Sự sai khác về tỷ lệ mắc bệnh ở các mùa khác nhau có ý nghĩa về mặt thống kê với với độ tin cậy 99,99% (p<0,001). Mùa Đông và mùa Xuân tỷ lệ tử vong cao nhất (58,93%), trong khi đó mùa Hè với mùa Thu là hai mùa có tỷ lệ tử vong thấp nhất (p<0,05). Có sự khác nhau về tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong ở các mùa trong năm là do mùa Đông ở Thanh Hoá có nhiệt độ rất thấp kết hợp với mưa phùn và gió mùa Đông Bắc làm cho nhiệt độ giảm thấp còn khoảng 5,40C và thậm chí có những đợt thấp hơn 10C. Độ ẩm bình quân năm của Thanh Hoá là 85%, tuy nhiên trong giai đoạn này độ ẩm lên cao từ 94% - 100%. Vì vậy, đây đã làm ảnh hưởng đến sức đề kháng của đàn lợn và là điều kiện thuận lợi cho dịch bệnh bùng phát. Đến mùa Xuân, đây là thời điểm giao mùa nên có sự thay đổi mạnh về kiểu khí hậu, từ dạng ẩm thấp chuyển sang nóng ẩm. Với khí hậu nóng ẩm sẽ là điều kiện 58 thuận lợi cho các loại mầm bệnh bùng phát – đây chính là điều kiện để bệnh tiêu chảy cấp ở lợn phát triển, do vậy tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở hai mùa Đông – Xuân tương đối cao. Sang mùa Hè và mùa Thu, do thời lượng nắng cao nên các mầm bệnh tồn tại ngoài môi trường bị tiêu diệt hoặc suy yếu nên khả năng gây bệnh kém, vì vậy tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở hai mùa Hè – Thu thấp hơn so với hai mùa Đông – Xuân với độ tin cậy từ 95% - 99,99%. Theo Hồ Văn Nam & cs. (1997), khi gia súc bị nhiễm lạnh, ẩm kéo dài sẽ làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm tác dụng thực bào, do đó gia súc dễ bị nhiễm khuẩn gây bệnh. Nguyễn Văn Điệp & cs. (2014) khi nghiên cứu tình hình PED xảy ra tại một số tỉnh phía Bắc Việt Nam cho biết tại các trại, PED thường bùng phát vào mùa lạnh (từ tháng 11 đến tháng 4) tốc độ lây lan nhanh, thường xảy ra đầu tiên trên đàn lợn nái, tỷ lệ lợn biểu hiện tiêu chảy cao (trung bình 76,8%). Lợn ở tất cả các lứa tuổi đều bị tiêu chảy (có thể lên tới 100%), tỷ lệ chết cao ở lợn con theo mẹ (68,6%). Tomoyuki (2014), khi theo dõi tình hình mắc PED tại Nhật Bản giai đoạn từ tháng 10 năm 2013 đến tháng 10 năm 2014 cho biết: PED bùng phát từ tháng 12 năm trước đến tháng tháng 4 năm sau (tháng 12, dịch bùng phát ở miền nam Kyushu và tập trung vào quận Kagoshima; tháng 2 và 3 tiếp tục bùng phát ở khu vực phía Nam Kyushu; Đến đầu tháng 4, dịch bệnh bùng phát ở từng khu vực thuộc miền Đông Nhật Bản và miền Bắc Nhật Bản), từ tháng 5 đến tháng 9 dịch ít xảy ra. Dịch xảy ra quanh năm nhưng chủ yếu vào mùa đông do nhiệt độ thấp virus tồn tại lâu trong môi trường (Callebaut & cs., 1982; Hofmann & Wyler, 1989; Thai Swine Veternary Association, 2015). Một trong những nguyên nhân chính của việc PED bùng phát theo mùa đó là do đặc tính sinh học của PEDV. Ở nhiệt độ âm sâu sau 1 năm hiệu giá virus giảm không đáng kể, ở 370C sau 4 ngày virus mất hoàn toàn khả năng gây nhiễm. Virus tương đối ổn định ở nhiệt độ từ 4 đến 500C so với nhiệt độ cao hơn. Khi ủ trong môi trường nuôi cấy tế bào ở 40C thì virus tồn tại và phát triển được với phạm vi pH (3 - 10) trong 6 giờ, trong khi ở 370C trong 6 giờ, nó chỉ giữ được khả năng lây nhiễm trong khoảng pH từ 5 đến 8,5 và virus bị bất hoạt hoàn toàn ở môi trường có độ pH thấp hơn 4 và cao hơn 9 (Hofmann & Wyler, 1989). Theo Callebaut & cs. (1982) thì PEDV bền vững ở khoảng pH 5,0 – 9,0 ở 40C và pH từ 6,5 – 7,5 ở 370C; Thai Swine Veternary Association (2015) ở nhiệt độ 40C PEDV có thể tồn tại được 49 ngày, trong khi đó ở nhiệt độ 370C PEDV chỉ có thể tồn tại được 8 - 10 ngày. 59 Theo kết quả nghiên cứu của Mai Thi Ngan (2020), tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam tỷ lệ mắc nhiễm PEDV cao nhất ở mùa Xuân (56,3%) và thấp nhất ở mùa Hè (23,2%). Như vậy, dịch tiêu chảy cấp trên lợn (PED) có tính chất mùa vụ và thường xảy ra vào các mùa có nhiệt độ thấp và mưa nhiều (đặc thù ở tỉnh Thanh Hoá là mùa Đông và mùa Xuân). 4.1.5. Tình hình lợn mắc dịch tiêu chảy cấp theo quy mô đàn tại Thanh Hoá Kết quả theo dõi trên quy mô các đàn (Gia trại: Dưới 20 lợn nái hoặc dưới 100 lợn thịt; Trại nhỏ: từ 20-50 lợn nái hoặc từ 100-250 lợn thịt; Trại lớn: trên 50 lợn nái hoặc trên 250 lợn thịt) được thể hiện ở bảng 4.3 cho thấy lợn nuôi ở quy mô trại lớn có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất (15,79%) và chăn nuôi gia trại có tỷ lệ mắc bệnh thấp nhất (12,14%), tuy nhiên ở tỷ lệ tử vong thì ngược lại ở các gia trại lại có tỷ lệ tử vong cao hơn ở các trang trại (p<0,05). Khi nuôi ở quy mô hộ gia đình (gia trại) thì có ít người lạ ra vào khu vực chăn nuôi, do ở quy mô đàn này lao động chủ yếu là những người trong gia đình nên hạn chế được sự lây nhiễm mầm bệnh từ bên ngoài vào. Khi nuôi với quy mô trại càng lớn, mật độ lợn cao thì khả năng mắc bệnh càng cao do nguy cơ lây bệnh từ những lợn mang trùng trong đàn. Mặt khác, nuôi với quy mô lớn, việc luân chuyển đàn, công nhân và các phương tiện ra vào trại thường xuyên diễn ra, đây cũng là yếu tố nguy cơ quan trọng làm tăng khả năng tiếp xúc với mầm bệnh từ bên ngoài. Mặt khác, virus gây bệnh PED có thể tồn tại được trong phân lợn nên quá trình tích tụ mầm bệnh cũng xảy ra làm cho nồng độ virus tăng lên và gây bệnh cho đàn (Song & cs., 2005). Theo Thai Swine Veternary Association (2015), khi lợn lớn mắc bệnh PED thường không xảy ra tử vong. Tuy nhiên, đối tượng này ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn sinh học tại trang trại do chúng mang mầm bệnh và thường xuyên thải ra môi trường. Tình trạng lây lan trong trang trại là con đường lây truyền chính của PEDV qua đường phân-miệng (Kim & cs., 2017). Việc cải thiện quản lý vệ sinh trang trại và tránh các thực hành rủi ro liên quan đến việc tiếp xúc với phân lợn là chìa khóa trong việc ngăn chặn sự xâm nhập của virus PED vào trang trại (Toyomaki & cs., 2018). 60 Sự lây truyền PEDV gián tiếp qua thiết bị bảo vệ cá nhân bị ô nhiễm xảy ra nhanh chóng trong vòng 24 giờ (Kim & cs., 2017). Ở Nhật Bản, các trang trại quy mô lớn, gần trang trại bị nhiễm bệnh, số lượng xe chở thức ăn và thời gian tiếp xúc với chất khử trùng ngắn hơn, các yếu tố bác sĩ thú y đến thăm là mối liên hệ chặt chẽ với tình trạng PED (Sasaki & cs., 2016). Ở Mỹ, vận tải được coi là con đường chính để truyền PEDV (O'Dea & cs., 2016). Ở Italia, xe tải được chỉ ra rằng có thể có một vai trò quan trọng trong việc lây lan PEDV (Boniotti & cs., 2018). Thức ăn bị ô nhiễm PEDV được báo cáo là một yếu tố nguy cơ đáng kể đối với việc lây truyền PED giữa các trang trại ở Mỹ, Nhật Bản và Canada (Pasick & cs., 2014; Dee & cs., 2014; Bowman & cs., 2015; Sasaki & cs., 2016; Perri & cs., 2018). Sự lây truyền qua các phương tiện giao thông được xác định là một yếu tố sinh học gây ra sự lây lan nhanh chóng của PEDV ở Mỹ và Nhật Bản (Lowe & cs., 2014; Sasaki & cs., 2016). Theo Huỳnh Minh Trí & cs. (2017) khi các trại nhập con giống từ bên ngoài vào thì nguy cơ mắc bệnh cao hơn 2,35 lần so với trại tự túc con giống. Cũng theo Huỳnh Minh Trí & cs. (2017) khi nghiên cứu tỷ lệ nhiễm PEDV tại các trại lợn nái tại tỉnh An Giang thì tỷ lệ mẫu dương tính với PEDV ở quy mô trại lớn (trên 50 nái) là cao nhất và ở các trại nhỏ (dưới 20 nái) là thấp nhất. Mai Thi Ngan (2020) khi nghiên cứu về tình hình nhiễm PED tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam cho biết những trại quy mô lớn (trên 600 lợn) có tỷ lệ nhiễm bệnh là 37,7%, những trại có quy mô nhỏ có tỷ lệ nhiễm là 23,8%. Bảng 4.3. Tình hình lợn mắc dịch tiêu chảy cấp theo quy mô đàn tại Thanh Hoá Quy mô trại Số lợn theo dõi (con) Số lợn bị bệnh (con) Số lợn bị chết (con) Tỷ lệ mắc bệnh Tỷ lệ chết (%) Tỷ lệ tử vong (%) Gia trại 2.875 349 231 12,14a 8,03a 66,19b Trại nhỏ 5.597 786 408 14,04bc 7,29a 51,91a Trại lớn 7.971 1.259 639 15,79bd 8,02a 50,75a Tổng 16.443 2.394 1.278 Ghi chú: Các chữ cái a,b,c,d biểu hiện sự sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong cùng cột (P<0,05). 61 Về tỷ lệ tử vong, các gia trại có tỷ lệ tử vong cao hơn các trang trại (p<0,05), nguyên nhân là do ở trang trại có lực lượng cán bộ kỹ thuật tốt đã có các biện pháp can thiệp kịp thời nên đã làm giảm tỷ lệ tử vong, ngược lại thì ở các gia trại hầu hết là chăn nuôi theo kinh nghiệm nên việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật (tiêm phúc mạc, truyền dịch...) gặp khó khăn và đây cũng là nguyên nhân quan trọng làm cho tỷ lệ tử vong tăng cao (66,19%). Theo Sun & cs. (2012), Ge & cs. (2013), Sung & cs. (2015), Yamane & cs. (2016), trong tự nhiên, lợn con theo mẹ khi mắc PED nếu không can thiệp kịp thời thì sau 1 đến 3 ngày phát bệnh tỷ lệ chết lên đến 100%. Vì vậy, việc theo dõi phát hiện lợn mắc bệnh và có các biện pháp can thiệp kịp thời như bổ sung nước, chất điện giải... đúng cách sẽ làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong. Hình 4.4. Tình trạng mắc PED theo quy mô đàn tại Thanh Hoá 4.2. ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ Ở LỢN MẮC DỊCH TIÊU CHẢY CẤP (PED) TẠI THANH HOÁ 4.2.1. Triệu chứng lâm sàng ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) Bằng phương pháp quan sát mô tả, phân tích và thống kê số liệu khi theo dõi lợn mắc dịch tiêu chảy cấp ở đàn lợn con theo mẹ tại một số trang trại ở tỉnh Thanh Hoá. Kết quả được thể hiện ở hình 4.5. 62 Triệu chứng lâm sàng của lợn bệnh thay đổi, phụ thuộc vào trạng thái miễn dịch của cơ thể trong đàn lợn bệnh, cũng như điều kiện quản lý, chăm sóc. Nhìn chung các biểu hiện chính ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) là: Ủ rũ, mệt mỏi, giảm ăn, bỏ ăn, gầy sút và đây cùng là triệu chứng chung của các bệnh truyền nhiễm. Điều này được giải thích một cách đơn giản đó là khi PEDV xâm nhập vào đường tiêu hoá của lợn, virus sẽ nhân lên trong bào tương của các tế bào lông nhung, phá huỷ các tế bào biểu mô và làm ngắn lông nhung niêm mạc ruột, tỷ lệ chiều cao giữa lông nhung và tuyến ruột có thể giảm từ 7:1 xuống còn 3:1 làm tổn thương niêm mạc ruột gây tiêu chảy mãnh liệt làm cho cơ thể lợn yếu dần, ủ rũ và mệt mỏi. Gregory & cs. (2013) cho biết tỷ virus PED nhân lên trong tế bào biểu mô ruột, làm cho tế bào lông nhung bị đứt nát và dính vào nhau và tỷ lệ chiều cao giữa lông nhung và rãnh ruột (crypt) của ruột lợn 19 ngày tuổi mắc PED giảm xuống còn 1:1. Lợn bệnh giảm hoặc bỏ bú (ăn) và bị tổn thương niêm mạc ruột nên quá trình hấp thu được dinh dưỡng kém đồng thời bị tiêu chảy mạnh nên cơ thể mất năng lượng, nước và chất điện giải. Do vậy nên thân nhiệt giảm, để giữ nhiệt cho cơ thể lợn thích leo lên người lợn mẹ hoặc nằm chồng lên nhau để giữ ấm (Pospischil & cs., 1981; Pensaert & cs., 2006) . Hiện tượng lợn tiêu chảy phân màu vàng xám nhiều nước, lợn gầy sút nhanh và nằm dồn đống (chồng lên nhau) là những triệu chứng chính, đặc trưng và điển hình của bệnh và có tần suất xuất hiện là 100%. Ngoài các triệu chứng trên thì tại hình 4.5 cũng cho thấy, lợn bị tiêu chảy cấp còn có các triệu chứng khác như bỏ ăn, bỏ bú có tần suất là 42,50%, lợn nôn tần suất là 40%. Khi nghiên cứu các biểu hiện lâm sàng ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) trên đàn lợn thuộc các tỉnh phía Nam, Do Tien Duy & cs. (2011) cho biết: các triệu chứng lâm sàng chủ yếu ở lợn mắc PED là: chán ăn, nôn mửa, tiêu chảy, tỷ lệ chết cao ở lợn con theo mẹ. Theo Thai Swine Veternary Association (2015), lợn ở mọi lứa tuổi rất nhạy
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_mot_so_dac_diem_benh_ly_cua_dich_tieu_cha.pdf
BLH&CBVN - TTLA - Hoang van Son.pdf
TTT - Hoang Van Son.pdf