Luận án Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và nhân giống loài thạch tùng răng cưa (huperzia serrata (thunb. ex murray) trevis) thu tại Lào Cai và Lâm Đồng

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và nhân giống loài thạch tùng răng cưa (huperzia serrata (thunb. ex murray) trevis) thu tại Lào Cai và Lâm Đồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và nhân giống loài thạch tùng răng cưa (huperzia serrata (thunb. ex murray) trevis) thu tại Lào Cai và Lâm Đồng

, Đơn Dương, Lâm Đồng) và DL3 (Nam Ban, Lâm Hà, Lâm Đồng), SP1 (Nậm Cang, Sa Pa, Lào Cai) và SP2 (Bản Hồ, Sa Pa, Lào Cai) có quan hệ di 57 truyền gần nhất với hệ số tương đồng di truyền là 0,94 (khác biệt di truyền thấp nhất 0,06). Cặp mẫu DL1 (Bidoup, Núi Bà, Lạc Dương, Lâm Đồng) và SP2 (Bản Hồ, Sa Pa, Lào Cai) có quan hệ di truyền xa nhất vì sai khác di truyền lớn nhất là 0,48 (hệ số tương đồng di truyền 0,52). Kết quả phân tích cho thấy 8 mẫu Thạch tùng răng cưa được chia làm 2 nhóm chính: Nhóm I gồm các mẫu Thạch tùng răng cưa được thu ở Lâm Đồng (DL1, DL2, DL3) với hệ số tương đồng di truyền nằm trong khoảng 0,81 đến 0,94. Trong nhóm I, mẫu DL2 và DL3 có mối quan hệ di truyền rất chặt với hệ số tương đồng di truyền cao nhất 0,94 và sự sai khác về mặt di truyền rất thấp 0,06. Mức độ sai khác di truyền tại 3 khu vực tỉnh Lâm Đồng dao động từ 0,06 đến 0,19. Nhóm II, gồm 5 mẫu Thạch tùng răng cưa được thu tại Lào Cai (SP1, SP2, SP3, SP4 và SP5) với hệ số tương đồng di truyền dao động từ 0,80 đến 0,94. Trong nhóm II, mẫu SP1 và SP2 có hệ số tương đồng di truyền đạt 0,94 cho thấy hai mẫu này có quan hệ họ hàng rất gần nhau, có thể bắt nguồn từ một tổ tiên chung. Mẫu SP3 và SP4 có quan hệ gần về mặt di truyền với hệ số tương đồng di truyền 0,91. Mẫu SP5 có quan hệ di truyền xa nhất so với 4 mẫu còn lại được thu ở Lào Cai với hệ số tương đồng di truyền từ 0,80 đến 0,83. Mức độ sai khác di truyền tại 5 khu vực tỉnh Lào Cai dao động trong khoảng 0,06 (cặp SP1 và SP2) đến 0,20 (Cặp SP2 và SP5). Như vậy, xét về mặt địa lý, những mẫu được thu từ những vùng cùng địa giới hành chính (cùng tỉnh) thì xu hướng tương đồng về mặt di truyền cao hơn rõ rệt so với các cặp mẫu ngoài tỉnh. Kết quả phân tích bước đầu cho thấy, mức độ sai khác về mặt di truyền giữa các cặp mẫu thu ở 5 địa điểm nghiên cứu thuộc cùng tỉnh Lào Cai hoặc 3 địa điểm nghiên cứu trong cùng tỉnh Lâm Đồng là gần tương đương nhau (dao động từ khoảng 0,06 đến trên dưới 0,20), cho thấy chúng có mối quan hệ di truyền rất gần, thậm chí có thể cùng chung một xuất xứ. Sự khác biệt về mặt di truyền đều tăng lên rõ rệt khi so sánh các cặp mẫu bất kì thu ở hai tỉnh khác nhau là Lào Cai và Lâm Đồng, với mức độ sai khác về mặt di truyền dao động giữa các cặp mẫu từ 0,33 (mẫu DL1 và SP5 có hệ số tương đồng về mặt di truyền là 0,67) đến 0,48 (mẫu DL1 và SP2 có hệ số tương đồng về mặt di truyền là 0,52). Điều đó cho thấy, các mẫu Thạch tùng răng cưa thu ở 5 địa điểm nghiên cứu thuộc khu vực Sa Pa, Lào Cai và 3 địa điểm nghiên cứu thuộc khu vực tỉnh Lâm Đồng có quan hệ họ hàng khá xa nhau. Các phân tích trên cho thấy loài Thạch tùng răng cưa phân bố tại hai vùng Lào Cai và Lâm Đồng ở Việt Nam có 58 sự đa dạng di truyền ở mức khá cao. Sự khác nhau về mặt di truyền có thể bắt nguồn từ nguồn gốc cũng như hướng tiến hóa khác nhau tạo nên mức độ đa dạng di truyền. Các mẫu Thạch tùng răng cưa ở hai khu vực địa lý có một số tiến hóa khác nhau để thích ứng với môi trường xung quanh. Với nhiều biến đổi hơn, một số cá thể trong quần thể sẽ sở hữu những biến dị alen phù hợp với môi trường. Những cá thể đó sẽ có cơ hội sống sót cao hơn. Nhận định trên phù hợp với kết luận của Huang và cộng sự năm 2010, trong nghiên cứu các tác giả đã chỉ ra rằng một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến sự đa dạng di truyền của Thạch tùng răng cưa như sự sinh trưởng của các dòng vô tính, ảnh hưởng của chọn lọc tự nhiên và lai xa và sự sinh sản hữu tính bằng cách phát tán bào tử [49]. Điều này được xem như một lý do cho sự đa dạng loài. Mặc dù xét về mặt tổng thể các mẫu thu thập ở hai tỉnh Lào Cai và Lâm Đồng, sự đa dạng di truyền của loài Thạch tùng răng cưa là khá cao nhưng trong phạm vi thuộc cùng một tỉnh sự đa dạng di truyền giữa các mẫu giảm đi rõ rệt, thậm chí rất thấp (với sai khác di truyền thấp nhất là 0,06 ở các cặp mẫu SP1 và SP2, DL2 và DL3). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy yếu tố địa lý có tương quan đến sự khác biệt về mặt di truyền. Cụ thể, các mẫu có vị trí phân bố địa lý càng gần, mức độ tương đồng có xu hướng càng lớn, tức là mức độ sai khác về mặt di truyền càng nhỏ, các mẫu đó có sự đa dạng di truyền càng thấp và ngược lại. Điều này cho thấy các quần thể có hệ số đa dạng di truyền thấp nhiều khả năng chúng có nguồn gốc chung và xuất phát từ những quần thể tự nhiên có kích thước tương đối nhỏ. Đây là một trong những điểm cần lưu ý trong công tác bảo tồn, bởi vì nếu những quần thể nhỏ như vậy bị khai thác liên tục sẽ làm mất đi hoàn toàn một số vốn gen của quần thể. Nhận định này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị Ái Minh và cộng sự (2019). Về mặt địa lý, ở Việt Nam, mức độ đa dạng di truyền của loài Thạch tùng răng cưa có xu hướng tăng từ Bắc vào Nam. Sự đa dạng di truyền của loài Thạch tùng răng cưa tại Việt Nam là tương đối cao ở cả cấp độ quần thể và cấp độ loài, trừ quần thể Hoàng Liên. Quần thể này có hệ số đa dạng di truyền thấp và có nguy cơ tuyệt chủng cao hơn các quần thể khác ở miền Nam nếu chúng bị khai thác liên tục [22]. Từ các kết quả nghiên cứu và nhận định trên cho thấy, chúng ta cần có kế 59 hoạch bảo tồn và khai thác loài Thạch tùng răng cưa một cách khoa học. Tại các vùng nghiên cứu tại Lào Cai và Lâm Đồng nên có kế hoạch bảo tồn tại chỗ nhằm duy trì và khôi phục quần thể loài Thạch tùng răng cưa trong môi trường tự nhiên. Đồng thời, với các quần thể có mối quan hệ di truyền khá xa nhau có thể sử dụng làm nguyên liệu cho quá trình nhân giống loài Thạch tùng răng cưa nhằm duy trì sự đa dạng di truyền của quần thể. Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa trong việc bảo tồn và phát triển nguồn gen loài Thạch tùng răng cưa ở hai vùng Lào Cai và Lâm Đồng. 3.1.5. Xác định hàm lượng HupA trong cây Thạch tùng răng cưa thu tại Lào Cai và Lâm Đồng. Đặc tính chữa bệnh của Thạch tùng răng cưa là do các hợp chất lycopodium alkaloid có trong cây, trong đó hoạt chất chính tạo nên đặc tính chữa bệnh của Thạch tùng răng cưa là HupA. Do đó, việc xác định sự có mặt và hàm lượng của HupA trong cây là một nhiệm vụ quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển nguồn gen loài Thạch tùng răng cưa làm nguồn dược liệu. Chính vì vậy, sau khi tiến hành nghiên cứu đặc điểm hình thái, giải phẫu và đánh giá sự đa dạng di truyền của 8 mẫu Thạch tùng răng cưa nhằm xác định đúng cây dược liệu nghiên cứu, chúng tôi tiến hành xác định hoạt chất và hàm lượng HupA bằng kỹ thuật TLC và HPLC để xác định sự có mặt của HupA trong các mẫu nghiên cứu, đồng thời tìm ra mẫu cây có chứa hàm lượng HupA cao nhất phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo. 3.1.5.1. Xác định hoạt chất HupA bằng phương pháp sắc ký bản mỏng. Trước tiên, để đánh giá sơ bộ hàm lượng HupA trong 8 mẫu Thạch tùng răng cưa thu thập ở Lào Cai và Lâm Đồng, chúng tôi tiến hành phân tích toàn bộ cây (bao gồm đỉnh chồi, bào tử, lá, thân và rễ) của các mẫu nghiên cứu. Mẫu Thạch tùng răng cưa sau khi thu về được làm khô ở 50°C rồi chiết HupA bằng các phương pháp tách chiết đã trình bày ở phần vật liệu và phương pháp. Dịch chiết được chạy sắc ký bản mỏng với các hệ dung môi khác nhau cùng với chất chuẩn. Kết quả chạy thử các hệ dung môi cho thấy, phương pháp chiết với hệ dung môi chloroform - isopropanol - ethyl acetate - ammonia (4 - 1,5 - 4 - 0,1) cho khả năng phân tách của các chất trên bản TLC rõ ràng và phù hợp nhất. 60 Kết quả chạy sắc ký bản mỏng dịch chiết của 8 mẫu Thạch tùng răng cưa với hệ dung môi chloroform - isopropanol - ethyl acetate - ammonia (4 - 1,5 - 4 - 0,1) được thể hiện trên hình 3.13. A B Hình 3.13. Hình ảnh chạy TLC HupA từ 8 mẫu Thạch tùng răng cưa. CC: chất chuẩn; A. 1 -5 : Mẫu SP1A - mẫu SP5A; B. 6 - 8: Mẫu DL1A - mẫu DL3A. Mũi tên chỉ vị trí vạch HupA. Kết quả chạy TLC ở hình 3.13 cho thấy đối với dịch chiết của cả 2 mẫu SP2A và SP3A đều không thấy xuất hiện vạch đốm vàng tương đương với vạch của chất chuẩn. Đối với dịch chiết của mẫu DL2A xuất hiện vạch đốm có màu vàng (Rf = 0,62) trùng với mẫu chất chuẩn nhưng rất mờ. Trong khi đó 4 mẫu SP1A, SP5A, DL1A và DL3A xuất hiện vạch đậm hơn và tương đương với chất chuẩn (Rf = 0,62). Nhận định sơ bộ ban đầu, các mẫu SP1A, SP4A và SP5A có hàm lượng HupA cao hơn so với các mẫu SP2A và SP3A; các mẫu DL1A và DL3A có chứa hàm lượng HupA cao hơn mẫu DL2A. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng hàm lượng HupA phụ thuộc vào mùa, vùng sinh sống, quá trình thu hái và phương pháp tách chiết [138]. Bên cạnh đó, hàm lượng HupA còn mang tính đặc hiệu mô. Trong cây Thạch tùng răng cưa, phần đỉnh chồi có chứa hàm lượng HupA cao nhất, tiếp đến là lá và thân cây [64]. Hơn nữa, trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài, phần chồi đỉnh sẽ được sử dụng cho mục đích nhân giống loài Thạch tùng răng cưa. Chính vì vậy, để tiết kiệm nguồn nguyên liệu khai thác từ tự nhiên sử dụng cho mục đích nghiên cứu, trong thí nghiệm tiếp theo, chúng tôi tiến hành xác định hoạt chất HupA ở hai mùa khác nhau là mùa xuân 61 (tháng 3) và mùa thu (tháng 9) với từng bộ phận của cây là rễ, thân và lá. Kết quả nghiên cứu được thể hiện ở hình 3.14. A B Hình 3.14. Hình ảnh chạy TLC HupA từ Thạch tùng răng cưa thu tại Lâm Đồng. A. Mẫu mùa xuân (tháng 3). B. Mẫu mùa thu (tháng 9). 1: HupA chuẩn, 2: dịch chiết từ lá, 3: dịch chiết từ thân, 4: dịch chiết từ rễ. Mũi tên chỉ vị trí vạch HupA. Kết quả chạy sắc kí (hình 3.14) cho thấy dịch chiết từ rễ của mẫu thu tại Lâm Đồng ở cả 2 mùa là mùa thu (tháng 9) và mùa xuân (tháng 3) đều không xuất hiện vạch đốm vàng. Điều này cho thấy hàm lượng HupA ở rễ của Thạch tùng răng cưa rất ít. Đối với dịch chiết lá và thân của các mẫu thu tại Lâm Đồng ở cả 2 mùa đều thấy xuất hiện vạch đốm vàng tương đương với vạch của chất chuẩn (Rf = 0,62), trong đó dịch chiết từ lá có màu đậm hơn so với dịch chiết từ thân. Tuy nhiên, bên cạnh vạch đốm vàng tương đương với chất chuẩn, các dịch chiết thân và lá ở cả hai mùa đều còn những vệt đốm dài và một số băng vạch ở vị trí khác, điều này cho thấy dịch chiết vẫn còn lẫn tạp chất. Đối với các mẫu Thạch tùng răng cưa mùa thu và mùa xuân thu tại Lào Cai, chúng tôi sử dụng chạy TLC đối với mẫu lá và thân. Kết quả hình 3.15 cho thấy, dịch chiết lá của các mẫu mùa thu và mùa xuân đều xuất hiện vạch đốm vàng tương đương với chất chuẩn (Rf = 0,62). Đối với dịch chiết thân thì vạch đốm vàng xuất hiện rất mờ (dịch chiết từ thân mùa thu) hoặc không xuất hiện vạch (dịch chiết thân mùa xuân), điều này cho thấy hàm lượng HupA trong dịch chiết thân ít hơn so với dịch chiết từ lá. 62 Hình 3.15. Hình ảnh chạy TLC HupA từ Thạch tùng răng cưa thu tại Lào Cai. CC: HupA chuẩn, 1: dịch chiết từ lá mùa thu, 2: dịch chiết từ thân mùa thu, 3: dịch chiết từ thân mùa xuân, 4: dịch chiết từ lá mùa xuân. Mũi tên chỉ vị trí vạch HupA. Qua đây, chúng tôi nhận định sơ bộ hàm lượng HupA được tổng hợp từ lá của Thạch tùng răng cưa cao hơn so với thân và rễ; đồng thời, các mẫu thu hái vào mùa thu (tháng 9) có hàm lượng HupA cao hơn các mẫu thu hái vào mùa xuân (tháng 3). Điều này phù hợp với nhận định của Ma và cộng sự năm 2005 về hàm lượng HupA thu được cao nhất vào mùa thu [60]. Tuy nhiên, chúng tôi cần tiến hành các thí nghiệm tiếp theo để đưa ra được kết luận chính xác hơn. 3.1.5.2. Xác định hàm lượng HupA bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao. Để khẳng định sự có mặt và hàm lượng HupA trong các mẫu nghiên cứu một cách chính xác, khoa học, chúng tôi tiến hành xác định hàm lượng HupA bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) với 8 mẫu Thạch tùng răng cưa và các bộ phận (lá, thân và rễ) của cây thu hái vào mùa thu và mùa xuân ở hai vùng Lào Cai và Lâm Đồng. a. Phân tích tín hiệu trên hệ thống LC Hình 3.16. Sắc ký đồ HPLC (UV 310 nm) phát hiện HupA trong dịch chiết lá Thạch tùng răng cưa thu tại Lào Cai. (A). Chất chuẩn HupA, (B). Mẫu lá mùa thu (tháng 9), (C). Mẫu lá mùa xuân (tháng 3). 63 Hình 3.17. Sắc kí đồ HPLC (UV 310 nm) phát hiện HupA trong dịch chiết lá cây Thạch tùng răng cưa thu tại Lâm Đồng. A. Chất chuẩn HupA, B. Mẫu lá mùa xuân (tháng 3), C. Mẫu lá mùa thu (tháng 9). Hình 3.18. Phổ ESI - MS Positive và peak ion phân tử 243,0. b. Dựng đường chuẩn định lượng Đường chuẩn định lượng được tính toán xây dựng bằng phần mềm Chemstation dựa trên diện tích peak UV 310 tại thời gian lưu 11,40 - 11,70 min. Đường chuẩn định lượng thu được có phương trình y = 5534,34x + 41,28 (y là diện tích peak UV được chọn và x là nồng độ chất chuẩn tương ứng), với hệ số tương quan R2 = 0,99992. Hệ số tương quan R2 = 0,99992 cho thấy phương trình đường chuẩn có độ tuyến tính cao. c. Xác định hàm lượng HupA từ toàn bộ cây của 8 mẫu Thạch tùng răng cưa Kết quả xác định hàm lượng HupA từ toàn bộ cây của 8 mẫu Thạch tùng răng cưa thu ở Lào Cai và Lâm Đồng được thể hiện ở bảng 3.4. 64 Bảng 3.4. Kết quả xác định hàm lượng HupA từ toàn bộ cây của 8 mẫu Thạch tùng răng cưa thu hái vào tháng 9 (mùa thu). Mẫu phân tích Hàm lượng HupA (µg/g) DL1A 90,23a ± 0,03 DL2A 80,61c ± 0,004 DL3A 85,42b ± 0,06 SP1A 76,28d ± 0,01 SP2A 65,58g ± 0,02 SP3A 59,62h ± 0,01 SP4A 71,91e ± 0,01 SP5A 69,43f ± 0,01 5% LSD 0,05 Chú ý: Trong cùng một cột, các chữ cái khác nhau, sai khác có ý nghĩa thống kê qua kiểm định LSD với P < 0,05 Kết quả bảng 3.4 cho thấy, đối với các mẫu thu tại Lâm Đồng hàm lượng HupA cao nhất thu được ở mẫu DL1A (Bidoup – Núi Bà, Đơn Dương, Lâm Đồng) với hàm lượng HupA đạt 90,23 µg/g và thấp nhất ở mẫu DL2A (Lạc Xuân, Đơn Dương, Lâm Đồng) với hàm lượng HupA đạt 80,61 µg/g. Đối với dịch chiết ở các mẫu thu tại Lào Cai, kết quả cho thấy hàm lượng HupA cao nhất (76,28 µg/g) thu được ở mẫu SP1A (Nậm Cang, Sa Pa, Lào Cai) và thấp nhất (59,62 µg/g) ở mẫu SP3A (Tả Van, Sa Pa, Lào Cai). Đồng thời, so sánh hàm lượng HupA ở các mẫu Thạch tùng răng cưa thu tại Lâm Đồng và Lào Cai cho thấy hàm lượng HupA ở các mẫu thu tại Lâm Đồng cao hơn so với các mẫu thu tại Lào Cai ở mức sai khác có ý nghĩa thống kê. Sự sai khác này được giải thích là do điều kiện khí hậu và lượng mưa ở hai vùng này khác nhau, trong đó, điều kiện khí hậu ở Lâm Đồng với nhiệt độ trung bình năm dao động 18 - 25°C, lượng mưa trung bình khoảng 1.750 - 3.150 mm/ năm, độ ẩm tương đối trung bình cả năm 85 - 87%, các tháng mùa mưa độ ẩm 84 - 91% [13] thuận lợi hơn cho sự phát triển của loài Thạch tùng răng cưa và sự tích lũy hàm lượng HupA, đặc biệt là trong các tháng mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 11), lượng mưa nhiều làm tăng độ ẩm của môi trường. Nhận định này phù hợp với nghiên cứu của Ma và cộng sự (2005), loài Thạch tùng răng cưa mọc ở 65 rừng ẩm ướt cho hàm lượng HupA cao hơn đáng kể so với phát triển trong môi trường có độ ẩm thấp [60]. Hàm lượng HupA trong cây Thạch tùng răng cưa đã được xác định ở nhiều nước trên thế giới. Tại Trung Quốc, hàm lượng HupA trong cây Thạch tùng răng cưa dao động từ 80,16 đến 182,55 µg/g khối lượng khô [60]. Tại Philippines, hàm lượng HupA được xác định từ loài H. elmeri (Herter) Holub đạt 608 µg/g khối lượng khô [61]. Trong nghiên cứu của Goodger và cộng sự (2008), hàm lượng HupA cao nhất được xác định ở loài H. carinata thu tại Australia là 1030 µg/g khối lượng khô [2]. Ở Việt Nam, Nguyễn Ngọc Chương và cộng sự (2016) đã xác định được hàm lượng HupA của loài Thạch tùng răng cưa thu ở Kontum, Tây Nguyên là 181,64 µg/g khối lượng khô [82]. Nghiên cứu của chúng tôi đã xác định được hàm lượng HupA cao nhất tại Lâm Đồng là 90,23 µg/g khối lượng khô. Điều này cho thấy, hàm lượng HupA trong cây Thạch tùng răng cưa phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện sinh thái (đất, nước, khí hậu), giống, tuổi cây, bộ phận của cây và công nghệ tách chiết. Nhận định của chúng tôi phù hợp với kết luận của Ha và cộng sự (2011) về hàm lượng HupA trong cây Thạch tùng răng phụ thuộc vào mùa, vùng sinh sống, quá trình thu hái và phương pháp tách chiết [59]. Ngoài việc xác định hàm lượng HupA trong cây Thạch tùng răng cưa, vấn đề tiếp theo cần nghiên cứu là thu hoạch bộ phận nào của cây và vào thời điểm nào trong năm để thu được hàm lượng HupA cao nhất. Vì vậy, chúng tôi tiếp tục đánh giá hàm lượng HupA bằng phương pháp HPLC với từng bộ phận của cây và vào hai thời điểm thường thu hoạch Thạch tùng răng cưa là mùa xuân và mùa thu (tương ứng với mùa khô và mùa mưa ở Lâm Đồng). Cụ thể, trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành đánh giá hàm lượng HupA thu hái vào tháng 3 và tháng 9 năm 2015 ở cả hai vùng Lào Cai và Lâm Đồng. d. Kết quả xác định hàm lượng HupA từ các bộ phận và thời điểm thu hái Thạch tùng răng cưa khác nhau năm 2015. Các mẫu Thạch tùng răng cưa sau khi chạy định tính bằng sắc kí lớp mỏng ở trên tiếp tục được phân tích bằng kỹ thuật HPLC để đánh giá chính xác hàm lượng HupA có trong từng bộ phận của cây (rễ, thân và lá). Kết quả nghiên cứu được thể hiện ở bảng 3.5. 66 Bảng 3.5. Hàm lượng HupA của rễ, thân và lá Thạch tùng răng cưa Tên mẫu Hàm lượng HupA (µg/g mẫu khô) Tháng 3 năm 2015 Tháng 9 năm 2015 Rễ Thân Lá Rễ Thân Lá DL1 17,20 ± 0,01 47,70 ± 0,01 75,40 ± 0,02 18,20 ± 0,01 48,70 ± 0,01 92,50 ± 0,02 DL2 15,40 ± 0,01 42,30 ± 0,01 73,20 ± 0,02 17,30 ± 0,01 45,20 ± 0,01 83,50 ± 0,02 DL3 16,10 ± 0,01 44,70 ± 0,01 73,50 ± 0,01 17,80 ± 0,01 47,80 ± 0,01 90,20 ± 0,02 SP1 15,30 ± 0,01 39,50 ± 0,01 72,30 ± 0,01 16,80 ± 0,01 44,60 ± 0,01 78,40 ± 0,02 SP2 14,80 ± 0,01 34,70 ± 0,01 61,50 ± 0,02 15,70 ± 0,01 38,20 ± 0,01 66,10 ± 0,02 SP3 13,10 ± 0,01 35,10 ± 0,01 59,80 ± 0,02 16,10 ± 0,01 38,10 ± 0,01 62,40 ± 0,02 SP4 15,20 ± 0,01 37,30 ± 0,01 70,60 ± 0,02 16,30 ± 0,004 40,60 ± 0,01 73,50 ± 0,02 SP5 14,90 ± 0,01 35,20 ± 0,01 69,50 ± 0,01 16,60 ± 0,004 39,50 ± 0,01 70,70 ± 0,01 Kết quả nghiên cứu cho thấy dịch chiết từ rễ, thân và lá Thạch tùng răng cưa thu hái vào tháng 9 đều có hàm lượng HupA cao hơn so với dịch chiết từ rễ, thân và lá thu hái vào tháng 3 tương ứng. Xét về hàm lượng HupA được tổng hợp từ các bộ phận khác nhau của cây (rễ, thân và lá) thì hàm lượng HupA được tổng hợp từ lá cao nhất (92,50 µg/ g khối lượng khô). Hàm lượng HupA tích lũy trong lá cây cao nhất, tiếp theo là thân cây và thấp nhất ở rễ cây. Điều này cho thấy để thu nhận hoạt chất HupA phục vụ cho y học nên thu hoạch lá và phần thân trên của cây, nên giữ lại phần rễ cây và phần thân ở gốc cây Thạch tùng răng cưa. Việc giữ lại phần gốc thân và rễ nhằm mục đích giúp cây có thể tái sinh các bộ phận phía trên và tiếp tục phát triển. Phương pháp thu hoạch như vậy sẽ khắc phục được việc suy giảm một lượng lớn cây Thạch tùng răng cưa. Điều này rất có ý nghĩa trong việc vừa khai thác giá trị thương mại của loài Thạch tùng răng cưa vừa góp phần bảo tồn nguồn gen loài cây này trong tự nhiên. Đối với các mẫu lá thu hái tại Lào Cai, hàm lượng HupA trong lá thu hái vào tháng 9 và tháng 3 có sự chênh nhau tương đối nhỏ. Cụ thể, hàm lượng HupA trong các mẫu SP1 và SP2 ở hai thời điểm thu hái chênh lệch nhau 6,10 µg/g và 4,50 µg/g khối lượng khô (tương ứng là 78,40 µg/g; 66,10 µg/g đối với mẫu lá thu hái vào tháng 9 và 72,30 µg/g; 61,50 µg/g đối với mẫu lá thu hái vào tháng 3); các mẫu lá 67 SP5, SP3 và SP4 có hàm lượng HupA từ mẫu lá thu hái vào tháng 9 và tháng 3 chênh lệch nhau ít hơn, dao động từ 1,20 µg/g đến 2,60 µg/g. Đối với các mẫu lá thu hái tại Lâm Đồng, hàm lượng HupA thu được cao hơn so với ở Lào Cai, sự chênh lệch hàm lượng HupA thu hái vào tháng 9 và tháng 3 khá rõ ràng. Cụ thể, hàm lượng HupA cao nhất thu được từ mẫu lá DL1 vào tháng 9 là 92,50 µg/g còn hàm lượng HupA thu được từ mẫu lá DL1 thu hái vào tháng 3 là 75,40 µg/g. Như vậy, hàm lượng HupA trong mẫu lá Thạch tùng răng cưa thu hái vào tháng 9 cao hơn so với mẫu thu hái vào tháng 3 là 17
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_mot_so_dac_diem_sinh_hoc_va_nhan_giong_lo.pdf
91. Trang thông tin về những đóng góp mới của luận án (tiếng việt).pdf
92. Trang thông tin về những đóng góp mới của luận án (tiếng anh).pdf
95. Tóm tắt luận án tiếng việt.pdf
96. Tóm tắt luận án tiếng anh.pdf
Trích yếu luận án.pdf