Luận án Nghiên cứu một số dạng bất thường nhiễm sắc thể y ở nam giới khám vô sinh tại bệnh viện phụ sản Thành phố Cần Thơ

Luận án Nghiên cứu một số dạng bất thường nhiễm sắc thể y ở nam giới khám vô sinh tại bệnh viện phụ sản Thành phố Cần Thơ trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu một số dạng bất thường nhiễm sắc thể y ở nam giới khám vô sinh tại bệnh viện phụ sản Thành phố Cần Thơ trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu một số dạng bất thường nhiễm sắc thể y ở nam giới khám vô sinh tại bệnh viện phụ sản Thành phố Cần Thơ trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu một số dạng bất thường nhiễm sắc thể y ở nam giới khám vô sinh tại bệnh viện phụ sản Thành phố Cần Thơ trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu một số dạng bất thường nhiễm sắc thể y ở nam giới khám vô sinh tại bệnh viện phụ sản Thành phố Cần Thơ trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu một số dạng bất thường nhiễm sắc thể y ở nam giới khám vô sinh tại bệnh viện phụ sản Thành phố Cần Thơ trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu một số dạng bất thường nhiễm sắc thể y ở nam giới khám vô sinh tại bệnh viện phụ sản Thành phố Cần Thơ trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu một số dạng bất thường nhiễm sắc thể y ở nam giới khám vô sinh tại bệnh viện phụ sản Thành phố Cần Thơ trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu một số dạng bất thường nhiễm sắc thể y ở nam giới khám vô sinh tại bệnh viện phụ sản Thành phố Cần Thơ trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu một số dạng bất thường nhiễm sắc thể y ở nam giới khám vô sinh tại bệnh viện phụ sản Thành phố Cần Thơ trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 204 trang nguyenduy 15/04/2025 100
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu một số dạng bất thường nhiễm sắc thể y ở nam giới khám vô sinh tại bệnh viện phụ sản Thành phố Cần Thơ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu một số dạng bất thường nhiễm sắc thể y ở nam giới khám vô sinh tại bệnh viện phụ sản Thành phố Cần Thơ

Luận án Nghiên cứu một số dạng bất thường nhiễm sắc thể y ở nam giới khám vô sinh tại bệnh viện phụ sản Thành phố Cần Thơ
Y1291 có kích thước 507 bp, 512 bp, 
523 bp và 527 bp, khác biệt nhiều so với kích thước sản phẩm PCR công bố 
trên NCBI (Phiên bản GRCh38.p7) là 527 bp. Để khẳng định kết quả của kỹ 
thuật QF-PCR, nghiên cứu sử dụng kỹ thuật giải trình tự với trình tự cặp mồi 
của chỉ dấu di truyền sY1291. Cặp mồi này không đánh dấu huỳnh quang. 
71 
Đoạn mồi xuôi do công ty Macrogen, Hàn Quốc cung cấp. Đoạn mồi ngược sử 
dụng trình tự đã đặt của Applied System, Mỹ (đã sử dụng trong quy trình QF-
PCR). 
Khi blast cặp mồi của sY1291 trên NCBI (Phiên bản GRCh38.p7), bên 
cạnh đoạn gen 527 bp (23.358.932-23.359.449 bp) của nhiễm sắc thể Y được 
khuếch đại còn xuất hiện nhiều sản phẩm PCR của các nhiễm sắc thể khác với 
nhiều kích thước khác nhau. Theo lý thuyết, để giải trình tự phải sử dụng 
phương pháp cắt gel agarose (đoạn ADN có kích thước 527 bp). 
Trong điều kiện tiến hành giải trình tự ở Khoa Xét nghiệm – Di truyền 
học của Bệnh viện Phụ sản Thành phố Cần Thơ, nghiên cứu không có đủ 
phương tiện để tiến hành giải trình tự theo phương pháp này. Do đó, nghiên 
cứu đã tối ưu phản ứng với mong muốn là khi điện di sản phẩm PCR chỉ nhận 
được một đoạn gen duy nhất được khuếch đại. Trong quá trình thực nghiệm, 
nghiên cứu đã thành công quy trình tối ưu phản ứng PCR với cặp mồi của chỉ 
dấu di truyền sY1291, sản phẩm PCR cũng chỉ xuất hiện một băng khi điện di 
trên gel agarose. Kết quả điện di ở line 4-7 trên Hình 4.10 được thực hiện trên 
2 mẫu ADN có ký hiệu 100 và 207; trong đó mẫu 100 và 207 có sản phẩm 
đoạn gen khuếch đại bằng cặp mồi của sY1291 tương ứng là 527 bp và 507 
bp. 
Hình 4.10. Kết quả điện di gel agarose của 2 mẫu ADN 100 và 207 bằng cặp 
mồi của sY1291 và LAPT (M: thang chuẩn). 
Trong quá trình tối ưu phản ứng PCR cho chỉ dấu di truyền sY1291, 
nghiên cứu đã thiết kế thêm một cặp mồi nằm trong đoạn sY1291 và đặt tên là 
LAPT. Cặp mồi LAPT được thiết kế có ưu điểm khác với sY1291 là chỉ cho 
một sản phẩm PCR duy nhất khi blast trên ngân hàng cơ sở dữ liệu NCBI. 
Trình tự mồi LAPT được gửi cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Phù Sa, Việt 
Nam và Công ty Macrogen, Hàn Quốc tổng hợp. Đặc điểm của cặp mồi này là 
chỉ xuất hiện một sản phẩm PCR duy nhất có kích thước 288 bp (23.358.930-
23.359.217 bp) (NCBI, Phiên bản GRCh38.p7). Kết quả điện di gel agarose 
sản phẩm PCR khuếch đại bằng cặp mồi LAPT của 2 công ty cung cấp đều 
72 
xuất hiện 1 băng duy nhất, phù hợp với kết quả trên ngân hàng cơ sở dữ liệu 
NCBI (Hình 4.10 và Hình 4.11). 
Hình 4.11. Kết quả điện di gel agarose sản phẩm PCR 8 mẫu ADN được 
khuếch đại bằng cặp mồi LAPT từ line 1-9, trong đó line 7 là thang chuẩn. 
Như vậy, luận án giải trình tự sản phẩm PCR khuếch đại bằng 2 cặp 
mồi của chỉ dấu di truyền sY1291 và LAPT. Việc giải trình tự đoạn ADN 
bằng cặp mồi của chỉ dấu di truyền sY1291 để kiểm định kết quả trong quy 
trình kỹ thuật QF-PCR đã tối ưu. 
Chúng tôi đã thực hiện giải trình tự đoạn gen được khuếch đại bằng cặp 
mồi của sY1291 lặp đi lặp lại 10 lần trong 1 tháng, kết quả đều ghi nhận trình 
tự nucleotid của mẫu tương đồng khoảng 400 bp so với trình tự nucleotid tham 
khảo (tương đồng khoảng 77%) (Hình 4.12A, B). 
Hình 4.12A. Độ tương đồng giữa trình tự nucleotid tham khảo (REF) và trình 
tự nucleotid của mẫu (SA100) với kích thước đoạn gen khuếch đại là 527 bp 
(Bioedit). 
73 
Hình 4.12B. Độ tương đồng giữa trình tự nucleotid tham khảo (REF) và trình 
tự nucleotid của mẫu (SA207) với kích thước đoạn gen khuếch đại là 507 bp 
(Bioedit). 
 Sự tương đồng trình tự nucleotid chỉ đạt được khoảng 77% là do tất cả 
các mẫu đều ghi nhận trên cả 2 đoạn ADN được khuếch đại bằng mồi xuôi hay 
mồi ngược đều bắt đầu xuất hiện trình tự nhiễu sau trình tự lặp đơn nucleotid 
T (Hình 4.13A, B, C, D). 
74 
Hình 4.13A. Kết quả giải trình tự đoạn mồi xuôi của đoạn gen được khuếch 
đại bằng sY1291 có kích thước 527 bp (Sequencing software 6). 
Hình 4.13B. Kết quả giải trình tự đoạn mồi ngược của đoạn gen được 
khuếch đại bằng sY1291 có kích thước 527 bp (Sequencing software 6). 
Hình 4.13C. Kết quả giải trình tự đoạn mồi xuôi của đoạn gen được khuếch 
đại bằng sY1291 có kích thước 507 bp (Sequencing software 6). 
Hình 4.13D. Kết quả giải trình tự đoạn mồi ngược của đoạn gen được khuếch 
đại bằng sY1291 có kích thước 507 bp (Sequencing software 6). 
 Blast cặp mồi của sY1291 trên NCBI (Phiên bản GRCh38.p7) cho thấy 
trình tự nucleotid của đoạn gen được khuếch đại được thể hiện ở Hình 4.14. 
75 
Hình 4.14. Trình tự nucleotid của đoạn gen dài 527 bp được khuếch đại 
bằng cặp mồi của sY1291 (NCBI, Phiên bản GRCh38.p7). 
Trên Hình 4.14 thể hiện đoạn gen này có đặc điểm là đoạn lặp đơn 
nucleotid T. Các trình lặp đơn nucleotid là đoạn trình tự lặp lại 1 loại nucleotid 
nào đó và chúng được tìm thấy rất nhiều ở động vật có xương sống, thường là 
lặp 6 nucleotid và ở đoạn gen được khuếch đại bằng cặp mồi của chỉ dấu di 
truyền sY1291 có trình tự lặp nucleotid T 39 lần (T39). Các đoạn trình tự lặp 
đơn nucleotid có đặc điểm là dễ bị đột biến, số lần lặp càng nhiều thì nguy cơ 
bất thường càng tăng và đa hình về trình tự nucleotid cũng có liên quan đến sự 
biểu hiện kiểu hình khác nhau (Montgomery et al., 2013; Sawaya et al., 2013; 
Kim et al., 2013; Ananda et al., 2014). 
Theo y văn cho thấy đoạn ADN có chứa trình tự lặp đơn nucleotid dài 
trong phản ứng PCR sẽ làm cho enzym polymerase khi tổng hợp sợi mới sẽ tự 
thêm vào hoặc làm mất đi loại nucleotid lặp ở đoạn đó và làm nhiễu trình tự ở 
sau đoạn lặp đơn nucleotid (Jinks-Robertson, 2002). Đoạn gen trong luận án 
chứa đoạn lặp đơn nucleotid T (T39); do đó, tín hiệu bị nhiễu và không thấy 
được trình tự các nucleotid ở sau đó và số lần lặp lại của nucleotid cũng khó 
mà xác định chính xác là phù hợp với y văn. Bên cạnh đó, kết quả bị nhiễu tín 
hiệu từ sau trình tự lặp nucleotid T trở về sau cũng phù hợp với nghiên cứu 
của Evguenia et al. (2016) và nhiều nghiên cứu khác. Cho đến nay, việc giải 
trình tự những đoạn gen chứa trình tự lặp đơn nucleotid trên máy giải trình tự 
thế hệ mới vẫn còn gặp nhiều khó khăn (Walker et al., 2016). 
 Luận án giải trình tự 4 mẫu ADN có ký hiệu là 207, 122, 327 và 100 
trên cả 2 mạch ADN. Kích thước đa hình về chiều dài của đoạn gen được 
khuếch đại bằng sY1291 của 4 mẫu trên tương ứng là 507 bp, 512 bp, 523 bp 
và 527 bp. Kết quả giải trình tự đoạn gen khuếch đại bằng cặp mồi của chỉ dấu 
di truyền LAPT cũng ghi nhận hiện tượng nhiễu sau trình tự lặp đơn nucleotid 
T ở 4 mẫu (Hình 4.15A, B, C, D). 
76 
Hình 4.15A. Kết quả giải trình tự đoạn mồi ngược của đoạn gen được khuếch 
đại bằng LAPT mẫu 207 (Bioedit). 
Hình 4.15B. Kết quả giải trình tự đoạn mồi ngược của đoạn gen được khuếch 
đại bằng LAPT mẫu 122 (Bioedit). 
Hình 4.15C. Kết quả giải trình tự đoạn mồi ngược của đoạn gen được khuếch 
đại bằng LAPT mẫu 327 (Bioedit). 
Hình 4.15D. Kết quả giải trình tự đoạn mồi ngược của đoạn gen được khuếch 
đại bằng LAPT mẫu 100 (Bioedit). 
 Bên cạnh đó, trên Hình 4.15 cũng cho thấy sau đoạn lặp đơn nucleotid 
có hiện tượng bị nhiễu các nucleotid. Kết quả nghiên cứu phù hợp với việc 
giải trình tự chứa đoạn trình tự lặp đơn nucleotid hiện nay. Cho đến nay, đây 
là một trong những khó khăn còn gặp phải khi giải trình tự đoạn gen chứa 
đoạn lặp đơn nucleotid. Qua đó thấy rằng trên đoạn ADN chứa trình tự lặp 
đơn nucleotid sẽ khó xác định chính xác số lần lặp nucleotid và trình tự 
nucleotid sau đoạn lặp là phù hợp với y văn. Cần có nhiều nghiên cứu hơn để 
có thể khắc phục hiện tượng này. 
77 
Qua kết quả giải trình tự cho thấy kết quả QF-PCR thể hiện sự đa hình 
về chiều dài sản phẩm PCR huỳnh quang được khuếch đại bằng cặp mồi của 
chỉ dấu di truyền sY1291 với kích thước 507 bp, 512 bp, 523 bp và 527 bp là 
chính xác. Như vậy, sự khác nhau về số lần lặp đơn nucleotid T sẽ làm cho 
kích thước sản phẩm PCR huỳnh quang của sY1291 có sự đa hình về kích 
thước sản phẩm PCR. Sự đa hình đoạn gen này có thể thay đổi tùy theo địa lý 
và chủng tộc. 
Trên những cơ sở đó, cho thấy kit với 14 chỉ dấu di truyền và quy trình 
kỹ thuật QF-PCR đã xây dựng và tối ưu dùng để phát hiện một số dạng bất 
thường nhiễm sắc thể Y có độ chính xác cao và đáng tin cậy. 
4.2. Xác định tỷ lệ một số dạng bất thường nhiễm sắc thể Y ở nam giới 
khám vô sinh có ≤ 5x106 tinh trùng/mL tinh dịch bằng quy trình kỹ thuật 
QF-PCR đã được xây dựng và kiểm định. 
 Kết quả nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể Y ở nam 
giới khám vô sinh có ≤ 5x106 tinh trùng/mL tinh dịch là 35,1% (113/322 
trường hợp) (Hình 4.16). 
Hình 4.16. Tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể Y của đối tượng nghiên cứu 
Kết quả tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể Y trong nghiên cứu cao hơn so 
với một số nghiên cứu trong và ngoài nước. Nghiên cứu của Kosar et al. 
(2010) trên 115 nam giới khám vô sinh có ≤ 5x106 tinh trùng/mL tinh dịch ở 
Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy tỷ lệ vô sinh do di truyền là 4,34% (Bảng 4.6). 
78 
Bảng 4.6. Tỷ lệ nam giới khám vô sinh có bất thường nhiễm sắc thể Y ở nhóm nam giới vô tinh và thiểu tinh nặng 
Tác giả Vùng/Nước Số lượng 
mẫu 
Tần số Tỷ lệ (%) Vô tinh Thiểu tinh nặng 
Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) 
Ng et al. (2009) Hong Kong 295 44/295 14,9 21/71 29,57 23/224 10,26 
Kosar et al. (2010) Thổ Nhĩ Kỳ 115 5/115 4,34 5/92 5,43 0/23 0 
Mafra et al. (2011) Brazil 143 27/143 18,8 11/43 25,4 16/100 16 
Cavkaytar et al. (2012) Thổ Nhĩ Kỳ 332 48/332 14,4 43/196 21,93 5/136 3,67 
Fu et al. (2012) Chengdu, 
Trung Quốc 
1333 298/1333 22,35 250/945 26,45 48/388 12,37 
 Zhang et al. (2012) Đông bắc 
Trung Quốc 
135 19/135 14,07 14/81 17,28 5/54 9,26 
Ambulkar et al. 
(2013) 
Ấn Độ 58 8/58 13,8 5/26 19,23 3/32 9,37 
Choi et al. (2013) Hàn Quốc 289 110/289 38 83/213 38,96 27/76 35,52 
Naasse et al. (2015) Morocco 573 60/573 10,47 58/444 13,06 2/129 1,55 
Nguyễn Đức Nhự 
(2015) 
Miền Bắc 
Việt Nam 
469 106/469 23,1 83/354 23,44 23/115 20 
Nghiên cứu này Tây Nam Bộ 
Việt Nam 
322 113/322 35,1 34/93 36,6 79/229 34,5 
79 
Một nghiên cứu khác cũng được tiến hành ở Thổ Nhĩ Kỳ của Cavkaytar et 
al. (2012) trên 332 nam giới cho thấy tỷ lệ nam giới vô sinh do di truyền là 14,4%, 
cao hơn so với nghiên cứu của Kosar et al. (2010). Năm 2012, nghiên cứu tại 
Trung Quốc của Fu et al. trên 1333 nam giới vô sinh (945 nam giới vô tinh và 388 
nam giới thiểu tinh nặng) cho thấy tỷ lệ nam giới vô sinh có bất thường nhiễm sắc 
thể Y là 22,35% (298/1333 trường hợp) cao hơn so với nghiên cứu của Zhang et al. 
(2014) với tỷ lệ là 14,07%. Năm 2015, nghiên cứu tại Morocco của Naasse et al. 
(2015) trên 573 nam giới (444 nam giới vô tinh và 129 nam giới thiểu tinh nặng) 
ghi nhận tỷ lệ này là 10,47% (60/573 trường hợp). Tại Việt Nam, nghiên cứu của 
Nguyễn Đức Nhự (2015) cho thấy 106/469 trường hợp (23,1%) nam giới vô sinh 
do di truyền. 
Sự khác biệt có lẽ do phương pháp nghiên cứu khác nhau. Đa số các nghiên 
cứu sử dụng phương pháp nuôi cấy bạch cầu lympho máu ngoại vi để xác định 
công thức nhiễm sắc thể và chọn những mẫu nam giới có công thức nhiễm sắc thể 
46,XY để thực hiện kỹ thuật PCR đa mồi với số lượng chỉ dấu di truyền ít hơn so 
với nghiên cứu của chúng tôi. Hầu hết các nghiên cứu sử dụng 6 chỉ dấu di truyền 
theo hướng dẫn của EAA/EMQN (2014) là sY84 và sY86, sY127 và sY134, 
sY254 và sY255 để phát hiện mất đoạn AZF. 
Tuy nhiên, khi so sánh với nghiên cứu của Choi et al. (2013) cho thấy tỷ lệ 
bất thường ở nam giới khám vô sinh của luận án thấp hơn. Tác giả ghi nhận tỷ lệ 
này là 38% (110/289 trường hợp). Sự khác biệt này có lẽ do tác giả nghiên cứu trên 
2 nhóm là nam giới vô tinh và nhóm nam giới có tinh trùng ít, yếu và dị dạng. 
Kết quả nghiên cứu ghi nhận các nguyên nhân di truyền do bất thường 
nhiễm sắc thể Y ở 113 nam giới khám vô sinh gồm có mất đoạn AZF, nhân đoạn 
gen DAZ, hội chứng Klinefelter có bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể Y; trong đó 
mất đoạn AZF chiếm tỷ lệ cao nhất (83,18%), thấp hơn là nhân đoạn gen DAZ 
(13,27%) và hội chứng Klinefelter có bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể Y chiếm 
3,55% (Bảng 4.7). 
Bảng. 4.7. Một số dạng bất thường nhiễm sắc thể Y của đối tượng nghiên cứu 
Nguyên nhân di truyền Tần số 
Tỷ lệ (%) 
Mất đoạn AZF 94 83,18 
Nhân đoạn gen DAZ 15 13,27 
Hội chứng Klinefelter có bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể Y 4 3,55 
Tổng 113 100 
Không giống nghiên cứu của chúng tôi, đa số các nghiên cứu sử dụng 
phương pháp nuôi cấy bạch cầu lympho và PCR đa mồi với 6 chỉ dấu di truyền 
theo hướng dẫn của EAA/EMQN (2014). Bằng 2 phương pháp trên, kết quả ghi 
nhận bất thường về công thức nhiễm sắc thể chiếm tỷ lệ cao hơn so với mất đoạn 
AZF. 
80 
Cụ thể, theo nghiên cứu của Cavkaytar et al. (2012) ở Thổ Nhĩ Kỳ ghi nhận 
có 24/48 trường hợp (50%) nam có bất thường về công thức nhiễm sắc thể, 20/48 
trường hợp (41,67%) nam có mất đoạn AZF và 4/48 trường hợp (8,33%) vừa có 
bất thường về công thức nhiễm sắc thể vừa có bất thường về mất đoạn AZF. Tương 
tự, nghiên cứu tại Trung Quốc của Fu et al. (2012) thấy rằng 154/298 (51,67%) 
nam giới vô sinh có bất thường công thức nhiễm sắc thể và 144/298 (48,33%) nam 
giới vô sinh bị mất đoạn AZF. Một nghiên cứu khác tại Trung Quốc của Zhang et 
al. (2014) cũng ghi nhận 23/34 (67,6%) nam giới vô sinh có bất thường công thức 
nhiễm sắc thể và 11/34 nam giới bị mất đoạn AZF (32,4%). Tại Việt Nam, nghiên 
cứu của Nguyễn Đức Nhự (2015) thấy rằng 65/114 trường hợp (57%) nam giới có 
công thức nhiễm sắc thể bất thường và 49/114 trường hợp nam giới bị mất đoạn 
AZF chiếm 43%. 
Sự khác biệt có lẽ do phương pháp nghiên cứu, cỡ mẫu và số lượng chỉ dấu 
di truyền khác nhau. Hầu hết các nghiên cứu trong và ngoài nước sử dụng phương 
pháp nuôi cấy bạch cầu lympho và PCR đa mồi với 6 chỉ dấu di truyền để phát 
hiện đoạn AZF của nhiễm sắc thể Y. Ở đây, luận án tập trung vào nghiên cứu một 
số dạng bất thường nhiễm sắc thể Y với 11/14 chỉ dấu di truyền phát hiện các gen 
ở đoạn AZF nhiễm sắc thể Y nên có lẽ đây là nguyên nhân làm cho tỷ lệ mất đoạn 
AZF chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các bất thường nhiễm sắc thể Y. 
4.2.1. Các dạng mất đoạn AZF trên nhiễm sắc thể Y 
Nghiên cứu ghi nhận có 4 dạng mất đoạn trên đoạn AZF là mất một phần 
đoạn AZFb, mất một phần đoạn AZFc, mất hoàn toàn đoạn AZFc và mất hoàn toàn 
đoạn AZFbc; trong đó mất một phần đoạn AZFc chiếm tỷ lệ cao nhất (80,9%), 
thấp hơn là mất hoàn toàn đoạn AZFc chiếm 9,5%; mất hoàn toàn đoạn AZFbc 
chiếm 6,4%; và thấp nhất là mất một phần đoạn AZFb chiếm 3,2% (Bảng 4.8). 
Bảng 4.8. Các dạng mất đoạn AZF của đối tượng nghiên cứu 
Các dạng mất đoạn AZF Tần số 
Tỷ lệ (%) 
Mất một phần đoạn AZFb 3 3,2 
Mất một phần đoạn AZFc 76 80,9 
Mất hoàn toàn đoạn AZFc 9 9,5 
Mất hoàn toàn đoạn AZFbc 6 6,4 
Tổng 94 100 
Kết quả nghiên cứu tương tự với nhiều nghiên cứu khác trên thế giới về sự 
lưu hành phổ biến của mất đoạn AZFc ở nhóm nam giới khám vô sinh có ≤ 5x106 
tinh trùng/mL tinh dịch. Tỷ lệ mất đoạn này dao động từ 45-98% (Choi et al., 
2013; Zhang et al., 2013b; Fadlalla et al., 2014; Gallego et al., 2014; Bichile et al., 
2016; Zhu et al., 2016; Asadi et al., 2017). 
Nghiên cứu của Choi et al. (2013) ghi nhận mất đoạn AZFc chiếm 80,9% 
(89/110) và mất hoàn toàn đoạn AZFbc chiếm 19,1% (21/110 trường hợp). Một 
81 
nghiên cứu khác cũng được công bố năm 2013 cho thấy tỷ lệ mất đoạn AZFc lưu 
hành nhiều nhất (64,2%), thấp hơn là AZFbc (20%), AZFb (12,5%) và thấp nhất là 
AZFa và AZFabc (1,7%) (Zhang et al., 2013b). Nghiên cứu của Fadlalla et al. 
(2014) thấy rằng mất đoạn AZFc chiếm 97,36% (37/38 trường hợp) và mất đoạn 
AZFb chiếm 2,64% (1/38 trường hợp). Nghiên cứu của Gallego et al. (2014) đưa 
ra kết luận tương tự là mất đoạn AZFc chiếm 45,45% (5/11 trường hợp), AZFa 
chiếm 27,27% (3/11 trường hợp), AZFabc chiếm 18,18% (2/11 trường hợp) và 
AZFbc chiếm 9,1% (1/11 trường hợp). Nghiên cứu của Bichile et al. (2016) cũng 
thấy rằng mất đoạn AZFc chiếm tỷ lệ cao nhất là 61,53% (8/13 trường hợp), thấp 
hơn là AZFb 30,76% (3/13 trường hợp) và thấp nhất là AZFa chiếm 15,38% (2/13 
trường hợp). Nghiên cứu của Zhu et al. (2016) mất đoạn AZFc chiếm 73,33% 
(110/150 trường hợp), AZFbc chiếm 11,33% (17/150 trường hợp), AZFabc chiếm 
6,67% (10/150 trường hợp); AZFb chiếm 4,67% (7/150 trường hợp) và AZFa 
chiếm 4% (6/150 trường hợp). Nghiên cứu mới nhất được công bố năm 2017 của 
Asadi et al. cũng kết luận về sự lưu hành phổ biến của mất đoạn AZFc chiếm 
70,7% (70/99 trường hợp); AZFbc chiếm 18,2% (18/99 trường hợp); AZFb chiếm 
5,05% (5/99 trường hợp); AZFa và AZFabc đều chiếm 3,03% (3/99 trường hợp). 
So sánh với các nghiên cứu trong nước cũng cho thấy tỷ lệ mất đoạn AZFc 
chiếm cao nhất (Nguyễn Minh Hà, 2011; Nguyễn Thị Việt Hà, 2012; Nguyễn Đức 
Nhự, 2015). Kết quả nghiên cứu công bố năm 2011-2012 trên 70 nam giới khám 
vô sinh tại Bệnh viện Từ Dũ cho thấy mất đoạn AZFc chiếm tỷ lệ cao nhất 11,4% 
và mất đoạn AZFb là 1,43% (Nguyễn Minh Hà, 2011). Một nghiên cứu khác của 
Nguyễn Thị Việt Hà (2012) cho thấy mất đoạn AZFc chiếm tỷ lệ cao nhất 4,4%, 
thấp hơn là AZFa chiếm 2,4%, AZFb và AZFabc chiếm tỷ lệ thấp nhất là 0,4%. 
Năm 2015, nghiên cứu của Nguyễn Đức Nhự phát hiện mất đoạn AZFc và AZFcd 
chiếm tỷ lệ cao nhất là 26,53% (13/49 trường hợp), thấp hơn là AZFbcd chiếm 
8/49 trường hợp (16,33%), AZFd chiếm 7/49 trường hợp (14,29%), AZFabcd và 
AZFbc chiếm 3/49 trường hợp (6,12%), AZFb chiếm 2/49 trường hợp (4,08%). 
Kết quả nghiên cứu ghi nhận có 85 trường hợp mất đoạn AZFc, trong đó có 
đến 76/85 mẫu bị mất một phần đoạn AZFc chiếm 89,4% và mất hoàn toàn đoạn 
AZFc chiếm 10,6% (9/85 trường hợp). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của 
Olesen et al. (2017). Tác giả thấy rằng mất một phần đoạn AZFc chiếm 95% 
(57/60 trường hợp), thấp hơn là mất hoàn toàn đoạn AZFc chiếm 5% (3/60 trường 
hợp). 
Trong các kiểu mất một phần đoạn AZFc, kết quả ghi nhận có 7 kiểu mất 
đoạn gồm: gr/gr, b2/b3, mất 2 gen DAZ, mất 1 gen CDY1, mất 2 gen DAZ và 1 gen 
CDY1, mất đoạn sY1191-sY1192 và mất đoạn sY1291 (Bảng 4.9). 
82 
Kết quả ở Bảng 4.9 cho thấy mất một phần đoạn AZFc kiểu gr/gr chiếm tỷ 
lệ cao nhất (31,6%), thấp hơn là mất 2 gen DAZ (21,1%), mất đoạn sY1191-
sY1192 (14,5%), mất đoạn sY1291 (10,5%), mất 2 gen DAZ và 1 gen CDY1 
(9,2%), mất đoạn kiểu b2/b3 (7,9%) và thấp nhất là mất 1 gen CDY1 (5,2%). Kết 
quả nghiên cứu phù hợp với nhiều nghiên cứu trên thế giới về sự lưu hành mất 
đoạn AZFc kiểu gr/gr. 
Bảng 4.9. Các kiểu mất một phần đoạn AZFc của đối tượng nghiên cứu 
Các kiểu mất một phần đoạn AZFc Tần số 
Tỷ lệ (%) 
gr/gr 24 31,6 
b2/b3 6 7,9 
Mất 2 gen DAZ 16 21,1 
Mất 1 gen CDY1 4 5,2 
Mất 2 gen DAZ và 1 gen CDY1 7 9,2 
Mất đoạn sY1191-sY1192 11 14,5 
Mất đoạn sY1291 8 10,5 
Tổng 76 100 
Cho đến nay, các nghiên cứu trên thế giới thấy có 3 kiểu mất một phần đoạn 
AZFc là gr/gr, b2/b3 và b1/b3; trong đó mất đoạn kiểu gr/gr chiếm tỷ lệ cao nhất 
(Rozen et al., 2012; Sen et al., 2015; Olesen et al., 2017). 
Cụ thể, nghiên cứu của Rozen et al. (2012) thấy có 2 loại mất một phần 
đoạn AZFc ở người Việt Nam là mất đoạn kiểu gr/gr (16/17 trường hợp) chiếm 
94,11% và b2/b3 (1/17 trường hợp) chiếm 5,89%. Olesen et al. (2017) thấy mất 
một phần AZFc kiểu gr/gr chiếm tỷ lệ cao nhất 57,89% (33/57 trường hợp); thấp 
hơn là kiểu b2/b3 chiếm 36,84% (21/57 trường hợp) và thấp nhất là kiểu b1/b3 
chiếm 5,27% (3/57 trường hợp). Tương tự, nghiên cứu của Sen et al. (2015) cũng 
ghi nhận mất đoạn kiểu gr/gr chiếm tỷ lệ cao nhất 81,9% (59/72 trường hợp), thấp 
hơn là mất đoạn kiểu b2/b3 chiếm 11,1% (8/72 trường hợp) và thấp nhất là mất 
đoạn kiểu b1/b3 chiếm 6,9% (5/72 trường hợp). 
Nghiên cứu này ghi nhận một số đột biến mất một phần đoạn AZFc mới so 
với các nghiên cứu trên thế giới là mất đoạn sY1291, mất đoạn sY1191-1192, mất 
2 gen DAZ, mất 2 gen DAZ và 1 gen CDY1. Sỡ dĩ, kết quả nghiên cứu khác biệt với 
nhiều nghiên cứu trên thế giới là do hầu hết các nghiên cứu chỉ dựa vào sự vắng 
mặt sản

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_mot_so_dang_bat_thuong_nhiem_sac_the_y_o.pdf
  • pdfTOM TAT - LA - TIENG VIET - CTTNguyen.pdf
  • pdfTOM TAT LA - TIENG ANH - CTTNguyen.pdf
  • docTrang thong tin LA tieng anh - CTTNguyen.doc
  • docTrang thong tin LA Tieng Viet - CTTNguyen.doc