Luận án Nghiên cứu nuôi thành thục trứng và tạo phôi lợn bản địa Việt Nam bằng kỹ thuật in vitro

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu nuôi thành thục trứng và tạo phôi lợn bản địa Việt Nam bằng kỹ thuật in vitro", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu nuôi thành thục trứng và tạo phôi lợn bản địa Việt Nam bằng kỹ thuật in vitro

thức ăn, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng khác nhau có ảnh hưởng nhất định đến kích thước và khối lượng buồng trứng của từng giống lợn ở từng địa phương. 3.1.2. Phân bố nang bề mặt buồng trứng lợn Bản Nghiên cứu được tiến hành kiểm tra phân bố nang trên bề mặt buồng trứng theo kích thước của nang trên 10 buồng trứng được thu từ 5 lợn Bản trong mỗi mùa. Chọn cá thể chưa sinh sản, ở chu kỳ ngày thứ 15 sau động dục Kết quả được trình bày ở bảng 3.2 cho thấy, buồng trứng lợn Bản không có các nang có kích thước > 5 mm và không có sự khác biệt về trung bình (TB) số lượng nang có kích thước < 2mm/buồng trứng (BT) ở cả 4 mùa. TB số nang có kích thước 2-3 mm ở các mùa xuân (Hình 3.2A), mùa thu (Hình 56 3.2C) và mùa đông (Hình 3.2D) tương đương nhau (5,6±0,3; 5,9±0,3 và 5,3±0,4), và cao hơn so với mùa hạ (Hình 3.2B) (3,9±0,4). TB số nang/BT có kích thước 3-5 mm tương đương nhau ở các mùa xuân và đông (0,7±0,2; 0,6±0,2), tuy vậy TB số nang/BT của mùa xuân và mùa đông cao hơn đáng kể so với mùa hạ và mùa thu (0,7±0,2; 0,6±0,2 so với 0,1±0,1; 0,1±0,1) (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p<0,05) (Bảng 3.2) Hình 3.2. Phân bố nang bề mặt theo kích thước buồng trứng lợn Bản theo mùa A-Mùa xuân, (B)- Mùa hạ, (C)-Mùa thu, (D)-Mùa đông Ngoài ra TB tổng số nang/BT có sự khác nhau giữa các mùa, trong đó TB số nang/buồng trứng trong mùa xuân, mùa thu và mùa đông tương đương nhau (16,5 nang; 16,5 nang và 15,3 nang) và cao hơn so với TB số nang/BT trong mùa hạ (13,3 nang). Như vậy, buồng trứng lợn Bản được thu vào mùa hạ có TB tổng số nang bề mặt/BT và số lượng nang có kích thước lớn (2-3 mm và 3-5 mm) thấp nhất vào mùa hạ. Kết quả này có thể có mối liên quan đến quá trình vô sinh theo mùa hạ trên lợn đã được các tác giả khác công bố trước đó. Nguyen và cs 2015 thông báo không quan sát thấy nang > 2mm ở buồng trứng lợn Bản không xử lý tiêm hormone gonadotropin, nhưng kích thước các nang bề mặt sẽ tăng nhanh sau khi được xử lý hocmon, đạt mức TB 27,1 nang> 2mm/BT [135]. A B C D 57 Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng lợn được nuôi theo phương pháp chăn thả tự nhiên và không tiêm hormone kích thích. TB số nang/BT lợn Bản trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với lô thí nghiệm không tiêm hormone (16 so với 0) nhưng lại thấp hơn so với lô thí nghiệm tiêm hormone kích thích trong báo cáo của Nguyên và cs, 2015 (16 nang so với 27,1 nang) [135]. Bảng 3.2. Số lượng nang trung bình theo kích thước Mùa Số nang (n, TB số nang/buồng trứng) Tổng số nang (n,TB số nang/BT) 5mm Xuân 102 (10,2±0,7) 56 (5,6±0,3)a 7 (0,7±0,2)a 0 (0) 165 (16,5±0,8)a Hạ 93 (9,3±0,6) 39 (3,9±0,4)b 1 (0,1±0,1)b 0 (0) 133 (13,3±0,7)b Thu 105 (10,5±0,5) 59 (5,9±0,3)a 1 (0,1±0,1)b 0 (0) 165 (16,5±0,6)a Đông 94 (9,4±0,4) 53 (5,3±0,4)a 6 (0,6±0,2)a 0 (0) 153 (15,3±0,7)a Số liệu biểu thị tỷ lệ trung bình ± SEM, số liệu với chú thích khác nhau (a,b) trong cùng một cột là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) (Aspin-Welch T-test) Số lượng nang/BT trong nghiên cứu của chúng tôi dao động theo mùa trong khoảng 15,3-16,5 nang/BT và thấp hơn so với các công bố trên đối tượng lợn ngoại. Ở lợn, số lượng nang trứng nhiều hơn rất nhiều so với các loài động vật khác. Lợn cái giống ngoại ở giai đoạn hậu bị và thành thục tính có khoảng 50 nang với kích thước từ 1-6 mm trên bề mặt buồng trứng [3]. Đối với buồng trứng ở giai đoạn thể vàng (giai đoạn sau rụng trứng), có thể có 30-90 nang nhỏ có kích thước từ 1-2mm và 30-50 nang có kích thước trung bình từ 2-7 mm [140]. Theo Kyzeková và cs, 2019, số nang > 4 mm buồng trứng lợn Landrace dao động ở khoảng 17-22,8 nang/BT [33]. Theo Bertoldo và cs, 2010 mùa vụ cũng có thể ảnh hưởng quan trọng lên trạng thái nang của lợn ngoại. Số lượng nang có kích thước lớn trong buồng trứng lợn ở mùa hạ bị giảm hơn đáng kể so với các mùa còn lại (21% so với 55%) (hiện tượng vô sinh 58 theo mùa) [37]. Nghiên cứu của chúng tôi trên lợn Bản cũng có biến động tương tự, sự phát triển nang vào mùa hạ và mùa thu bị hạn chế hơn so với 2 mùa còn lại. Kyzeková và cs, 2019 nhận thấy kích thước và sự phát triển của nang trứng trên đối tượng lợn lai Landrace-Yorkshire chịu ảnh hưởng bởi yếu tố mùa; số lượng nang có kích thước < 3 mm trong mùa hạ và mùa thu cao hơn so với mùa xuân và mùa đông, ngược lại thì trung bình số nang có kích thước 7-11 mm trong mùa xuân và mùa đông lại cao hơn so với mùa hạ và mùa thu [33]. 3.1.3. Đặc điểm phân loại chất lượng trứng theo mùa và kích thước trứng lợn Bản 3.1.3.1. Phân loại chất lượng trứng theo mùa Hình 3.3. Trứng lợn Bản sau khi thu phân loại A,B,C Tổng số 15 lợn cái khỏe mạnh, không dị tật, thành thục về tính, chưa trải qua quá trình sinh sản, có cùng độ tuổi và chế độ chăm sóc, có lịch sử nuôi dưỡng rõ ràng được chọn lọc để thu buồng trứng trong mỗi mùa. Trứng được thu và phân loại dựa vào hình thái theo phương pháp phân loại chất lượng trứng loại A,B và C (Chương 2-phương pháp phân loại trứng) (Hình 3.3). Kết quả được trình bày ở bảng 3.3 cho thấy, trung bình số trứng thu được/BT trong mùa thu và mùa đông tương đương nhau và cao hơn so với mùa hạ và mùa xuân (38,3 và 38,9 trứng so với 34,2 và 33 trứng) (sai khác có ý nghĩa thống kê P<0,05). Tuy nhiên, số trứng loại A/BT (Hình 3.3) trong mùa xuân và mùa đông cao hơn so với mùa hạ và mùa thu (7,6 và 8,3 so với 6,2 và 6,8). Trung bình số trứng A+B/BT có sự khác nhau trong 4 mùa và giảm dần theo các mùa: mùa xuân (18,1±0,6 trứng), mùa đông (17,5±0,9 trứng), mùa thu (16,3±0,7 trứng) và thấp nhất vào mùa hạ (13,4±0,8 trứng). Loại B Loại C Loại A 59 Bảng 3.3. Ảnh hưởng của mùa vụ đến chất lượng trứng lợn Bản TB: Trung bình, BT: Buồng trứng. Thí nghiệm được lặp lại 5 lần, số liệu biểu thị tỷ lệ trung bình ± SEM, số liệu với chú thích khác nhau (a,b,c) trong cùng một cột là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) (Aspin-Welch T-test) Trung bình số trứng loại C thu được/BT trong mùa thu và mùa đông tương đương nhau (22±1,0 và 21,4±1,8) và cao hơn so với 2 mùa còn lại (22±1,0 và 21,4±1,8 so với 19,6±0,2 và 16,1±3,6). Tỷ lệ này phản ánh, mặc dù số lượng trứng thu được vào thu và mùa đông cao hơn so với 2 mùa còn lại nhưng tỷ lệ trứng xấu cũng tăng lên trong 2 mùa này. Mặc dù TB số trứng/BT không chệch nhau nhiều giữa các mùa, song TB trứng loại A+B/BT trong mùa xuân và mùa đông vẫn cao hơn so với mùa hạ và mùa thu. Như vậy chất lượng trứng lợn Bản có sự biến đổi theo 2 lô mùa là đông-xuân và hạ- thu, trong đó trứng được thu vào mùa đông và mùa xuân thì có chất lượng tốt hơn so với mùa hạ và mùa thu. Mùa Tổng số trứng (n, TB /BT) Tổng số trứng loại A (n, TB/BT) Tổng số trứng loại B (n, TB/BT) Tổng số trứng loại C (n,TB /BT) Tổng số trứng loại A+B (n,TB /BT) Xuân 1025 (34,2±3,1)b 230 (7,6±0,4)a 312 (10,4±0,5)a 483 (16,1±3,6)b 542 (18,1±0,6)a Hạ 990 (33±0,7)b 187 (6,2±0,4)b 215 (7,2±0,4)b 588 (19,6±0,2)ab 402 (13,4±0,8)c Thu 1150 (38,3±0,7)a 205 (6,8±0,9)b 285 (9,5±0,6)a 660 (22±1,0)a 490 (16,3±0,7)b Đông 1168 (38,9±1,1)a 248 (8,3±0,8)a 279 (9,3±0,3)a 641 (21,4±1,8)a 527 (17,5±0,9)a 60 Nghiên cứu của Bertoldo và cs, 2010 trên đối tượng lợn ngoại cũng quan sát thấy chất lượng trứng và khả năng phát triển của tế bào trứng có sự thay đổi đáng kể theo các mùa [37]. Các yếu tố môi trường như chu kỳ ánh sáng, nhiệt độ được cho là đóng vai trò quan trọng trong hiện tượng vô sinh theo mùa của lợn nái. Hiện tượng vô sinh vào mùa hạ làm giảm hiệu suất sinh sản nói chung và hiệu quả kinh tế ở đàn lợn nói riêng. Ngoài ảnh hưởng của stress nhiệt độ cao, thời gian chiếu sáng dài trong mùa hạ có ảnh hưởng đến quá trình tiết gonadotrophin của tuyến yên [141], [142], từ đó tác động lên quá trình tiết các hormone FSH và LH- là những hormone ảnh hưởng trực tiếp lên hoạt động buồng trứng và hiệu quả sinh sản. Do thời gian chiếu sáng kéo dài, ức chế quá trình tiết hormone, từ đó nồng độ của các hormone này thấp hơn so với các mùa còn lại. Một số tác giả cho rằng, quá trình tiết melatonin liên quan việc chuyển tiếp các thông tin về điều kiện ánh sáng đến hệ thống điều khiển tiết gonadotrophins ở vùng dưới đồi; nồng độ melatonin trong huyết tương tăng lên khi thời gian chiếu sáng trong ngày giảm xuống, do ánh sáng ngăn chặn sự tổng hợp và giải phóng melatonin từ tuyến tùng (là một tuyến nội tiết nhỏ trong thần kinh động vật có xương sống [143]. Mô hình tiết melatonin ở lợn nhà đã được chứng minh là tương tự với lợn rừng ở Châu Âu [144]. Chất lượng trứng lợn Bản sau khi thu từ buồng trứng đã được Nguyen và cs, 2015 công bố, theo đó trung bình số trứng thu được/BT là 23,9, trong đó trung bình số trứng loại A, B, C /BT là 6,8; 10,6; 8,0 [135]. TB số trứng A+B trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương với kết quả của Nguyên và cs, 2015. Tuy nhiên, TB số trứng/BT trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đương với kết quả của Somfai và cs, 2019 về 2 chỉ tiêu là TB trứng chất lượng tốt/BT và TB số trứng thu được/BT [138]. Trong phần nghiên cứu này, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu sự biến đổi về chất lượng trứng lợn Bản theo mùa vụ. Kết quả này là một căn cứ để lựa chọn thời điểm thu mẫu trong năm sao cho hợp lý nhằm đạt được chất lượng mẫu cao nhất và giảm thiểu được chi phí tối đa. 3.1.3.2. Kích thước trứng lợn Bản Đường kính của trứng lợn có mối tương quan tỷ lệ thuận với khả năng phát triển 61 của trứng trong in vitro quá trình thành thục nhân và tế bào chất của trứng. Đo kích thước trứng lợn Bản cung cấp những thông tin cơ bản về hình thái làm tiêu chuẩn chọn lọc trứng trong các nghiên cứu tạo phôi TTON và NBVT cũng như sự khác biệt với trứng lợn được thu từ các giống khác [145, 146]. Các công bố trước đây của một số tác giả cho thấy trạng thái tế bào cận noãn có sự liên quan mật thiết tới sự thành thục của tế bào chất và sự thành thục của nhân tế bào trứng, mối liên quan này là sự tương tác hai chiều và những phức hợp trứng có trên 3 lớp tế bào cận noãn thường được lựa chọn cho nuôi thành thục trong ống nghiệm [147]. Vì vậy nghiên cứu của chúng tôi chỉ lựa chọn các trứng ở cùng giai đoạn (loại A+B) trong cả 4 mùa để đo kích thước. Hình 3.4. Trứng lợn Bản sau thu và tách tế bào cận noãn (A)-Trứng sau khi thu, (B)-Trứng sau khi thu và tách tế bào cận noãn Kết quả khảo sát kích thước đối với tổng số 30 trứng trong mỗi mùa sau thu (Hình 3.4A) được trình bày ở bàng 3.4. Đường kính trung bình của trứng lợn Bản (loại A và B) không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 4 mùa trong năm. Trong đó kích thước trứng có màng sáng dao động từ 124,4±2,5 µm vào mùa hạ và tới 126,8±2,3 µm vào mùa đông, kích thước trứng không có màng sáng dao động từ 110,1±2,4 vào mùa đông tới 113,6±2,1 vào mùa thu (Bảng 3.4). Theo công bố của Somfai và cs, 2019 [138], đường kính lớn nhất của trứng lợn Bản đã loại màng sáng có kích thước 113,8±8,3 µm, tương đương với kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Grabowska và cs, 2016 cho biết, trứng lợn Landrace được thu từ lợn cái trước tuổi thành thục về tính, nuôi tại Balan có kích thước là 124,35 (µm) [148]. B A 100 µm Đường kính có màng sáng Đường kính trứng không màng sáng C 100 µm 62 Bảng 3.4. Kích thước trứng lợn Bản (µm) Mùa xuân Mùa hạ Mùa Thu Mùa Đông KT trứng có màng sáng KT trứng không đo màng sáng KT trứng có màng sáng KT trứng không đo màng sáng KT trứng có màng sáng KT trứng không đo màng sáng KT trứng có màng sáng KT trứng không đo màng sáng 126,7±12,2 111,5±2,2 124,4±2,5 111,6±2,6 127,3±2,3 113,6±2,1 126,8±2,3 110,1±2,4 Số liệu biểu thị tỷ lệ trung bình ± SEM, (Aspin-Welch T-test), KT:Kích thước Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy mùa vụ không ảnh hưởng lên kích thước trứng của các trứng có chất lượng A+B (Hình 3.5). Kết quả tương tự về sự thay đổi về kích thước của tế bào trứng các giống lợn ngoại theo mùa vụ cũng đã được một số tác giả thông báo trên đối tượng lợn ngoại. Nghiên cứu của Kyzekova và cs, 2019 cho thấy các trứng thu từ các nang ≤ 3mm có kích thước trung bình nhỏ nhất vào mùa xuân và lớn nhất vào mùa đông, song với sự sai khác không có ý nghĩa thống kê [33]. Mặc dù vậy, chất lượng noãn bào của lợn bị ảnh hưởng khá lớn bởi mùa vụ do tác động của thời tiết và nhiệt độ môi trường , các yếu tố stress có ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường vi mô của nang trứng và khả năng cung cấp các chất cần thiết như hormone, dinh dưỡng, chất điều hòa có liên quan với sự phát triển và thành thục của trứng [37]. Kết quả nghiên cứu sử dụng phương pháp cộng hưởng từ với độ phân giải cao (1H-NMR) để phân tích nồng độ glucose, lactate, hypoxanthine và các amino acid alanine, leucine, lysine, methionine, phenylalanine trong dịch nang trứng lợn với các kích thước nang nhỏ (3-4 mm) và kích thước nang lớn (5-8mm) cho thấy có sự biến đổi phụ thuộc vào kích thước nang trứng và giữa hai mùa là mùa hạ và mùa đông. Các nang có kích thước nhỏ có nồng độ tất cả các chất chuyển hóa này cao hơn so với nang có kích thước lớn, ngoại trừ glucose. Nồng độ của Glutamate, Glycine, Uridine, nhóm N-acetyl trong nang trứng lợn ở mùa hạ cao hơn so với mùa đông. Kết quả cũng chỉ ra rằng có sự thay đổi rõ rệt trong chuyển hóa glucose trong dịch nang trứng khi kích thước nang tăng và các tế bào nang dễ bị tổn thương hơn do những yếu tố stress trong những tháng mùa hạ [149]. 63 Hình 3.5. Mối tương quan giữa số lượng nang > 2 mm và số trứng A+B của lợn Bản thu được trong 4 mùa Trong phần nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy ảnh hưởng của mùa vụ lên tiềm năng khai thác trứng ở lợn Bản thể hiện qua các biến đổi có quy luật về sự tương quan về kích thước buồng trứng, sự phát triển của nang và chất lượng trứng. Buồng trứng được thu vào mùa xuân và mùa đông kích thước lớn hơn so với mùa thu và hạ, tương ứng với tỷ lệ trứng A+B thu được/BT trong mùa xuân và mùa đông cũng cao hơn so với mùa hạ và mùa Thu (Hình 3.5). Tương tự, trung bình số nang có kích thước lớn (>2 mm) trên mỗi buồng trứng có mối liên quan tỷ lệ thuận với số trứng loại A+B thu được/BT lợn Bản và có sự phụ thuộc vào mùa vụ. Trong đó, trung bình số nang có kích thước > 2mm/BT thu trong mùa xuân đạt cao nhất (6,3), kế tiếp là mùa thu (6) và mùa đông (5,9) và đạt thấp nhất vào mùa hạ (4). Tỷ lệ thuận với số nang có kích thước > 2 mm, trung bình số trứng loại A+B thu được/BT lợn Bản trong mùa xuân cũng đạt cao nhất (18,1), tuy nhiên kế tiếp là số trứng A+B thu được vào mùa đông (17,5), tiếp theo là mùa thu (16,3) và mùa hạ đạt tỷ lệ này thấp nhất (13,4). Kết quả hình 3.5 cho thấy, trung bình số trứng loại A+B/BT trong nghiên cứu của 6.3 4 6 5.9 18.1 13.4 16.3 17.5 0 2 4 6 8 10 12 14 16 18 20 Mùa Xuân Mùa Hạ Mùa Thu Mùa Đông SỐ T R Ứ N G , S Ố N A N G Mối tương quan giữa số nang > 2mm và số trứng A+B/BT Số nang > 2 mm/BT Số trứng A+B/BT 64 chúng tôi cao hơn nhiều so với TB số nang > 2mm/BT. Trong quá trình phát triển của trứng trong buồng trứng, một số trứng đã phát triển đến giai đoạn có thể nuôi thành thục trong ống nghiệm trong khi các nang chứa những trứng đó chưa phát triển đến giai đoạn nổi lên bề mặt. Trong các nghiên cứu của chúng tôi, trứng được thu bằng phương pháp rạch nang, vì vậy trứng được thu không chỉ từ những trứng bề mặt mà những nang dưới bề mặt buồng trứng. Vì vậy mới có sự khác biệt giữa số nang bề mặt có kích thước > 2mm với số trứng loại A+B thu được. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi trong phần này cho thấy, khả năng khai thác trứng ở lợn Bản thấp hơn so với một số giống lợn ngoại về cả số lượng nang trên buồng trứng và số trứng loại AB có thể khai thác/BT. Do vậy, trên đối tượng lợn Bản, nên tận dụng thu mẫu buồng trứng vào mùa xuân và mùa đông để có thể thu được số lượng và chất lượng trứng tốt hơn, giảm thiểu được chi phí thu mẫu. 3.2. Kết quả nghiên cứu nuôi thành thục trứng lợn Bản Phần nghiên cứu này được tiến hành nhằm tìm hiều khả năng thành thục của trứng lợn Bản theo từng mùa vụ, qua đó xác định thời gian thu mẫu đạt hiệu quả tối ưu, đồng thời lựa chọn được loại môi trường nuôi thành thục phù hợp với sự phát triển của trứng lợn Bản. Nội dung nghiên cứu được bố trí với 2 thí nghiệm cơ bản: 1. Khảo sát trạng thái phát triển của trứng trong 4 mùa sau 44-46 giờ nuôi trong môi trường NCSU-37 với các chỉ tiêu: Tỷ lệ trứng ở giai đoạn GV,GVDB, MI, MII, tỷ lệ trứng ở giai đoạn khác. 2. Nghiên cứu nuôi thành thục trứng trong 5 loại môi trường cơ bản được sử dụng phổ hiến hiện nay là: NCSU-37+pFF, NCSU-37+FBS, TCM-199+pFF, TCM- 199+FBS, POM và chọn lựa loại môi trường nuôi phù hợp với sự phát triển của trứng lợn Bản. 3.2.1. Ảnh hưởng của mùa vụ lên kết quả nuôi thành thục trứng lợn Bản Thí nghiệm được bố trí với 4 mùa trong năm, 6 lần lặp lại, mỗi lần thu trứng từ 3 lợn cái đã thành thục về tính. Trứng lợn Bản sau khi thu (Hình 3.6A) được nuôi trong môi trường NCSU-37 + 65 10% pFF có bổ sung hormone trong 22 giờ (Hình 3.6B), sau đó nuôi trong NCSU- 37+10% pFF không bổ sung hormone trong 22 giờ tiếp theo (Hình 3.6C). Sau 44 h nuôi, trứng được tách tế bào cận noãn (Hình 3.6D) và nhuộm với Orcein 1% để kiểm tra tỷ lệ trứng ở các giai đoạn GV (Hình 3.6E), GVDB (Hình 3.6F), MI (Hình 3.6G), MII (Hình 3.6H) tại thời điểm 44 giờ. Bảng 3.5. Sự thành thục của trứng lợn Bản Mùa Số trứng thí nghiệm (n) Số trứng GV (n,%) Số trứng GVBD (n,%) Số trứng MI (n,%) Số trứng MII (n,%) Số trứng giai đoạn khác (n,%) Xuân 638 42 (6,6±0,7) 90 (14,1±0,7) 19 (2,9±0,4) 433 (67,8±0,7)a 54 (8,4±1,1) Hạ 547 52 (9,5±1,1) 79 (14,5±1,0) 40 (7,3±0,3) 322 (58,8±1,0)b 54 (9,9±1,5) Thu 611 47 (7,7±0,9) 65 (10,7±1,3) 42 (6,8±0,7) 375 (61,2±1,8)b 82 (13,4±1,7) Đông 644 29 (4,4±0,9) 89 (13,8±0,9) 25 (3,8±0,7) 437 (67,9±0,5)a 64 (9,9±1,3) Số liệu biểu thị tỷ lệ trung bình ± SEM, số liệu với chú thích khác nhau (a,b) trong cùng một cột là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Kết quả thu được cho thấy trong cùng môi trường nuôi là NCSU-37+10% pFF và cùng điều kiện nuôi thanh thục thì tỷ lệ thành thục của trứng lợn Bản khác nhau giữa các mùa, cụ thể tỷ lệ này trong mùa xuân và mùa đông cao hơn so với mùa hạ và mùa thu (67,8±0,7% và 67,9±0,5% so với 58,8±1,0% và 61,2±1,8%) (sai khác có ý nghĩa thống kê, P<0,05) (Bảng 3.5). Mặc dù vậy, trong nghiên cứu này chúng tôi cũng nhận thấy, tỷ lệ thành thục của trứng lợn Bản thấp hơn so với tỷ lệ thành thục của các giống lợn ngoại đã được công bố trước đó khi sử dụng cùng một hệ thống nuôi. Kết quả cũng cho thấy có mối liên kết tương ứng về tiềm năng khai thác trứng và 66 tỷ lệ thành thục theo mùa của trứng lợn Bản. Mùa xuân và mùa đông số nang có kích thước lớn/buồng trứng nhiều hơn so với hai mùa còn lại (Bảng 3.2), ngoài ra trung bình số trứng loại A+B thu được trong hai mùa này cũng cao hơn so với mùa hạ và mùa thu (Bảng 3.3) dẫn tới tỷ lệ thành thục của trứng trong hai mùa xuân, đông cao hơn so với hai mùa hạ, thu. Như vậy, đặc điểm số nang trung bình /BT có sự biến đổi theo mùa, từ đó có liên quan mật thiết tới số trứng loại A+B/buồng trứng và tỷ lệ thành thục của trứng lợn Bản. Ước và cs năm 2008 công bố kết quả nuôi thành thục của trứng lợn Landrace được thu tại lò mổ trong môi trường NCSU-23, kết quả cho biết, chất lượng của trứng và tỷ lệ thành thục sau nuôi in vitro có sự sự biến động theo bốn mùa trong năm [134]. Trong đó, tỷ lệ thành thục của trứng lợn Landrace trong mùa thu, mùa xuân và mùa hạ lần lượt là 84,88±0,01%; 79,83±0,03% và 70,23±0,02% (tuy nhiên sự khác b
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_nuoi_thanh_thuc_trung_va_tao_phoi_lon_ban.pdf
6, Đóng góp mới.doc
7, Trích yếu luận án tiến sĩ.docx
Đóng góp mới.pdf
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾNG ANH NCS NGUYỄN THỊ NHUNG.pdf
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾNG VIỆT NCS NGUYỄN THỊ NHUNG.pdf
Trích yếu luận án.pdf