Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

8,8 10,0 - Lượng mưa (mm) 51,2 132,6 182,4 278,5 342,6 154,8 56,8 Từ phân hóa đòng đến thu hoạch lúa 10/3 15/4 15/5 1/8 1/9 30/9 Nguồn: Trạm Khí tượng Điện Biên (2012) 94 + Số giờ nắng: Số giờ nắng trung bình/năm tại trạm Điện Biên là khá cao (2.052,8 giờ/năm). Giai đoạn từ khi lúa làm đòng đến thu hoạch (45-60 ngày cuối) thời tiết ảnh hưởng lớn đến năng suất và chất lượng gạo, đặc biệt từ khi lúa trỗ bông đến thu hoạch (30 ngày cuối). Tại Điện Biên, trong vụ xuân giai đoạn lúa trỗ khoảng 15/4 và thu hoạch 10-20/5 có số giờ nắng là 205,8 giờ/tháng; trong vụ mùa lúa trỗ và thu hoạch trong tháng 9, có số giờ nắng cao, 171,8 giờ/tháng. Đây là điều kiện tốt cho quá trình lúa trỗ bông đến chín ảnh hưởng đến quang hợp sau trỗ, đẩy mạnh quá trình vận chuyển vật chất vào hạt. Cũng chính vì vậy, lúa ở cánh đồng Mường Thanh cho năng suất cao. + Bức xạ quang hợp: Nhiệt độ, sánh sáng ở giai đoạn cuối (nhất là 30 ngày cuối) là rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đối với năng suất cây trồng. Biết được bức xạ, có thể tính toán được tiềm năng năng suất cây trồng (Nguyễn Văn Viết, 2009). Theo Bùi Huy Đáp (1981) (Dẫn theo Lý nhạc và cs., 1987), ở miền Bắc lúa mùa trung năng suất cao hơn lúa mùa sớm và lúa mùa muộn; lúa xuân (tháng 11-6) cao hơn năng suất lúa chiêm (tháng 10-5) do thời gian cuối của lúa xuân có số giờ nắng nhiều hơn, lượng bức xạ lớn hơn khi cấy cùng một giống. Tại lòng chảo Điện Biên vào thời kỳ lúa trỗ đến thu hoạch có tổng lượng bức xạ/tháng cao (6,4-6,8 kcal/cm2/tháng trong vụ xuân và 6,5 kcal/cm2/tháng trong vụ mùa); cao hơn tại Nam Định chỉ 5,8-6,1 kcal/cm2/tháng trong vụ xuân và 5,2-5,6 kcal/cm2/tháng trong vụ mùa (phụ lục 1.2). Đây chính là điều kiện để lúa trồng ở Điện Biên có năng suất cao hơn. + Nhiệt độ trung bình: Nhiệt độ thích hợp giai đoạn cây lúa trỗ yêu cầu nhiệt độ ổn định 20-300C, nếu nhiệt độ thấp < 200C làm cho quá trình thụ phấn của lúa bị giảm, nhiệt độ thích hợp là 25-300C. Khi nhiệt độ cao vào thời kỳ làm đòng thì giảm số hoa, vào thời kỳ cây trổ bông làm tăng tỷ lệ hạt lép do hạt phấn chết, khi chín làm giảm tỷ lệ hạt chắc, khối lượng hạt giảm (do giảm tích luỹ) (Nguyễn Văn Liêm và cs., 2007). Qua nghiên cứu cho thấy, tại Điện Biện các tháng lúa trỗ đến chín có nhiệt độ tương đối ổn định và khá thuận lợi. Cây lúa trỗ bông đến chín trong vụ xuân 10/4-15/5 với nhiệt độ trung bình 24,4-25,60C; trong vụ mùa 1-30/9 với nhiệt độ trung bình 24,90C là rất phù hợp. 95 0 2 4 6 8 10 12 14 16 T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 Các tháng N h iệ t đ ộ ( o C ) Điện Biên Việt Trì Nam Định Hà Nội Hình 3.5. So sánh biên độ nhiệt giữa Trạm Khí tượng Điện Biên với một số trạm vùng núi trung du và đồng bằng Bắc Bộ (số liệu trung bình 1971-2010) + Biên độ nhiệt độ ngày đêm: Đối với ngành trồng trọt, biên độ nhiệt ngày đêm có tác dụng lớn đối với quá trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng, đặc biệt trong quá trình quang hợp tích luỹ vật chất do quá trình hô hấp vào ban đêm thấp, nhiều khi biên độ nhiệt còn có ý nghĩa đến chất lượng nông sản của một vùng. Do đó, đối với từng vùng thì thời gian có biên độ nhiệt ngày lớn chính là thời gian thích hợp và thuận lợi đối với quá trình ra hoa, tạo quả và tích lũy vào hạt (củ) của nhiều loại cây trồng (Nguyễn Văn Viết, 2009). 0 5 10 15 20 25 30 T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 N h iệ t đ ộ ( o C ), 0 50 100 150 200 250 Các tháng S ố g iờ n ắn g T B ( g iờ ) Nhiệt độ (oC) Số gời nắng TB tháng (giờ) Hình 3.6. Tổng hợp một số chỉ tiêu của Trạm Khí tượng Điện Biên huyện Điện Biên qua các tháng trong năm (số liệu trung bình 1971-2010) 96 Biên độ nhiệt độ không khí ngày đêm của Trạm Điện Biên khá cao (10,50C), cao hơn so với các trạm vùng núi khác (Trạm Việt Trì chỉ đạt 6,0-7,10C) và cao hơn hẳn so với các trạm ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng (Trạm Láng - Hà Nội 6,20C, Trạm Nam Định 5,60C) (xem phụ lục 1.2). Tại Điện Biên, ở các tháng cây lúa trỗ đến chín đều có biên độ nhiệt cao. Trong vụ xuân, vào thời kỳ lúa trỗ đến thu hoạch, biên độ nhiệt của Điện Biên là 11-12,20C (giữa tháng 4 - giữa tháng 5), trong khi đó tại Hà Nội chỉ 6,80C, tại Nam Định chỉ 6,50C. Trong vụ mùa, vào thời kỳ lúa trỗ đến thu hoạch, biên độ nhiệt độ của Trạm Điện Biên 8,80C (tháng 9), trong khi đó tại Hà Nội chỉ 6,3-6,60C và Nam Định chỉ 5,6-6,00C (tháng 9 và 10). Thời gian có biên độ nhiệt ngày đêm lớn chính là điều kiện thích hợp và thuận lợi đối với quá trình trỗ bông, chín của cây lúa. Ban ngày nhiệt độ cao, ánh sáng nhiều tạo điều kiện thuận lợi cho bộ lá quang hợp hợp được nhiều, ban đêm nhiệt độ thấp làm quá trình tích lũy vật chất từ từ, vận chuyển tốt làm cho cấu trúc tinh bột được chặt chẽ và cũng tạo điều kiện tốt cho quá trình chuyển hóa tích lũy phenol thơm vào trong hạt thóc, làm tăng chất lượng gạo (gạo có độ dẻo, độ trong). Đồng thời, nhiệt độ thấp vào ban đêm làm thời gian sinh trưởng cây lúa kéo dài, dẫn đến tăng số bông/m2 và hô hấp (vô hiệu) giảm nên tích lũy chất khô lớn, tinh bột cũng tăng lên. Nhiệt độ ban đêm thấp làm hô hấp giảm, giảm vật chất tiêu hao nên tăng tích lũy cho cây lúa, vì vậy lúa có năng suất cao (Nguyễn Duy Chinh, 2009). Do đó, lúa ở tỉnh Điện Biên nói chung, huyện Điện Biên nói riêng trong điều kiện cùng giống, cùng mùa vụ có năng suất cao ổn định, chất lượng tốt hơn các vùng khác. - Lượng mưa, chế độ mưa: Ở Điện Biên, vào thời kỳ thu hoạch lúa vụ xuân 10-20/5 lượng mưa thấp, trong vụ mùa (25/9-5/10) lượng mưa đã giảm, là điều kiện rất thuận lợi cho thu hoạch, phơi lúa, đặc biệt là lúa chất lượng. Mặt khác, trong điều kiện thực tế mưa ở Điện Biên chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 9 và lượng mưa trung bình tháng không đáp ứng được nhu cầu cây lúa nước. Do đó, để sản xuất được 2 vụ lúa ở đây, nhất thiết (điều kiện tiên quyết) phải sử dụng nước lưu trữ từ hồ chứa, đảm bảo tưới cho lúa trong vụ xuân. Nhờ có hệ thống công trình đại thủy nông Nậm Rốm với hồ Pa Khoang cùng các hồ trung, tiểu thủy nông và hệ thống kênh dẫn đã chủ động tưới cả các tháng mùa khô đầu vụ lúa xuân 97 nên đã đáp ứng được nhu cầu tưới chủ động ổn định 3.200 ha lúa 2 vụ ở đây. Như vậy, nghiên cứu cho thấy ở vùng lòng chảo Điện Biên một số yếu tố khí hậu chính đã tạo nên chất lượng gạo đặc sản: có tổng lượng bức xạ và số giờ nắng lớn và biên độ nhiệt ngày đêm cao đã tạo nên lúa có năng suất cao và chất lượng tốt; ở giai đoạn thu hoạch mưa ít, thuận lợi cho thu hoạch và phơi lúa. (c) Tính chất nguồn nước tưới cho lúa Nguồn nước tưới cho lúa vùng cánh đồng Mường Thanh chủ yếu từ hệ thống thủy lợi Nậm Rốm qua kênh hữu, kênh tả bao quanh cánh đồng và có bổ sung từ các hồ thủy lợi xung quanh. Qua nghiên cứu cho thấy, hàm lượng các chất khoáng trong nước tưới cho lúa (pH, NH4+, P2O5, K2O, Ca 2+, Mg2+, K+, Na+) giữa các khu vực không có sự khác nhau lớn và chưa có những chỉ tiêu hóa tính vượt trội ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển cây lúa tạo nên chất lượng gạo, nhất là các chất vi lượng (xem chi tiết phụ lục 2.3). Tuy nhiên, việc sử dụng nước tưới từ hệ thống thủy lợi Nâm Rốm, các hồ, sông suối đã cung cấp thêm một lượng dinh dưỡng đáng kể cho cây lúa như: đạm, lân, can xi, mage, natri, ... và nhiều chất khoáng, vi lượng khác. Vấn đề địa hình, khí hậu và nguồn nước là chung cho toàn vùng, nhưng tại sao chất lượng gạo không đồng đều, phải chăng do đặc tính đất đai khác nhau. d. Đặc điểm đất và chất lượng gạo vùng cánh đồng Mường Thanh Lúa ở cánh đồng Mường Thanh được sản xuất chủ yếu trong phạm vi từ độ cao < 600 m so với mực nước biển. Chính vì vậy, đề tài đi sâu nghiên cứu đánh giá đất đai khu vực có độ cao < 600 m, kết quả được trình bày ở bảng 3.19. - Nhóm đất phù sa chiếm phần lớn diện tích đất canh tác lúa vùng cánh đồng Mường Thanh (chiếm 83,25%), đất được hình thành từ các sản phẩm bồi tụ chủ yếu của sông Nậm Rốm và một số sông suối lớn trong vùng lòng chảo đã tạo nên cánh đồng Mường Thanh khá màu mỡ. Do vị trí địa lý và bản chất của các sản phẩm phù sa được bồi đắp khác nhau nên đặc điểm của chúng rất đa dạng. Nhóm đất phù sa tại lòng chảo Điện Biên được chia ra 5 loại đất chính, trong đó đất trồng lúa chủ yếu trên 3 loại đất: đất phù sa không được bồi chua (Pc), đất phù sa gley (Pg) và đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng (Pf). 98 Bảng 3.19. Tổng hợp diện tích các loại đất (ở độ cao < 600 m) vùng lòng chảo Điện Biên huyện Điện Biên năm 2010 Đơn vị tính: Ha TT Tên đất Ký hiệu Đất ở độ cao < 600m Đất trồng lúa (2010) Diện tích Tỷ lệ (%) Diện tích Tỷ lệ (%) Tổng diện tích tự nhiên 12.759,57 100 Diện tích đất vùng nghiên cứu (I+II) 9.792,53 76,75 4006,00 100 Trong đó: I Nhóm đất phù sa 4.249,23 33,31 3.334,90 83,25 1 Đất phù sa được bồi chua Pbc 276,32 2,17 33,45 0,83 2 Đất phù sa k. được bồi chua Pc 649,32 5,09 185,81 4,64 3 Đất phù sa gley Pg 1.083,13 8,49 1.076,67 26,88 4 Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng Pf 2.019,42 15,83 1.996,49 49,84 5 Đất phù sa ngòi suối Py 221,04 1,73 42,48 1,06 II Nhóm đất khác 5.543,30 43,45 671,10 16,75 6 Đất nâu đỏ trên đá bazan Fk 91,81 0,72 7 Đất đỏ vàng trên đá phiến sét Fs 4.447,56 34,86 104,58 2,61 8 Đất vàng nhạt trên đá cát Fq 208,24 1,63 9 Đất nâu vàng trên phù sa cổ Fp 229,17 1,80 10 Đất đỏ vàng biến đổi do trồng l. nước Fl 566,52 4,44 566,52 14,14 III Đất phi nông nghiệp 2.967,04 23,25 Theo Chỉ tiêu phân cấp một số yếu tố lý hoá học phục vụ đánh giá độ phì nhiêu hiện tại của đất của Bộ NN & PTNT (2006) thì tính chất một số loại đất trồng lúa chính ở cánh đồng Mường Thanh được đánh giá như sau (số liệu bảng 3.20): + Đất phù sa không được bồi chua (ký hiệu: Pc), có diện tích 649,32 ha, trong đó có 185,81 ha đang được trồng lúa. Đất có thành phần cơ giới thịt pha sét, phản ứng đất chua (pHKCl: 4,64). Hàm lượng chất hữu cơ và đạm tổng số trung bình đến khá (tương ứng 1,58% và 0,11%). Lân tổng số khá (0,11%). Kali tổng số trung bình (1,02%). Lân dễ tiêu trung bình (12,5 mg/100g đất) và kali dễ tiêu nghèo (5,7 mg/100g đất). Độ no baze ở mức cao. Loại đất này hàng năm không bị ảnh hưởng ngập lụt của sông, được phân bố ở các xã, dọc theo sông Nậm Rốm (Thanh Hưng, 99 Thanh Chăn, Thanh Yên, Noong Luống, Thanh An, Noong Hẹt), trên địa hình vàn cao và cao, thoát nước tốt. Bảng 3.20. Đặc điểm tầng canh tác (0-20 cm) các loại đất trồng lúa chính vùng cánh đồng Mường Thanh Loại đất pHKCl OM (%) Tổng số (%) Dễ tiêu (mg/100g đất) BS (%) Thành phần cơ giới (%) theo cấp hạt (mm) N P2O5 K2O P2O5 K2O 2-0,02 0,02-0,002 < 0,002 Đất đất phù sa không được bồi chua (Pc) (n = 4) TB 4,64 1,58 0,11 0,11 1,02 12,5 5,7 49,70 40,21 31,58 28,21 Min 4,20 1,00 0,07 0,07 0,65 9,30 3,60 43,47 24,04 26,40 18,40 Max 4,96 2,03 0,17 0,14 1,44 14,60 7,20 66,12 46,20 37,32 38,64 Đất phù sa glây (Pg) (n = 10) TB 4,21 2,25 0,17 0,12 1,16 12,07 8,08 64,11 16,45 39,97 43,58 Min 3,70 1,69 0,13 0,09 0,85 8,60 4,80 45,10 8,64 29,70 32,40 Max 4,62 2,90 0,18 0,19 1,49 14,60 11,60 87,15 23,70 46,60 53,80 Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng (Pf) (n = 12) TB 4,75 2,16 0,16 0,16 1,13 12,6 9,2 60,59 26,66 38,16 35,18 Min 4,05 1,50 0,13 0,06 0,83 4,40 7,20 47,23 12,14 35,10 30,79 Max 5,55 2,58 0,24 0,22 1,43 18,60 11,79 75,19 30,40 47,15 46,82 Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa (Fl) (n = 6) TB 4,69 1,54 0,14 0,18 0,75 12,4 7,2 50,47 47,00 34,07 18,93 Min 4,03 0,95 0,10 0,09 0,12 8,16 5,12 42,99 42,20 26,40 16,00 Max 5,25 1,95 0,19 0,32 1,14 16,30 9,15 61,06 51,40 38,00 25,20 + Đất phù sa glây (ký hiệu: Pg), có diện tích 1.083,13 ha, trong đó có 1.076,67 ha đang được trồng lúa. Đất có thành phần cơ giới sét, phản ứng đất từ rất chua đến chua (pHKCl: 4,21). Hàm lượng chất hữu cơ và đạm tổng số giàu (tương ứng 2,25% và 0,17%). Lân tổng số khá (0,12%). Kali tổng số nghèo đến trung bình (1,16%). Lân dễ tiêu trung bình (12,07 mg/100g đất) và kali dễ tiêu nghèo (8,08 mg/100g đất). Độ no baze ở mức (64,11%). Đất hình thành ở địa hình vàn và vàn thấp, khó thoát nước, xa bờ sông suối hơn các loại đất phù sa khác. Đất được phân bố chủ yếu ở các xã phía tây và nam vùng lòng chảo (Thanh Luông, Thanh Yên, 100 Noong Luống, Thanh Xương, Thanh An, Noong Hẹt, Sam Mứn). + Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng (ký hiệu: Pf), có diện tích: 2.019,4 ha, trong đó có 1.996,49 ha đang được trồng lúa, chiếm gần 50% diện tích đang trồng lúa của vùng. Đất có thành phần cơ giới thịt pha sét đến sét, phản ứng đất chua (pHKCl: 4,75). Hàm lượng chất hữu cơ và đạm tổng số khá (tương ứng 2,16% và 0,16%). Lân tổng số khá (0,16%). Kali tổng số trung bình (1,13%). Lân dễ tiêu trung bình (12,6 mg/100g đất). Kali dễ tiêu nghèo (9,2 mg/100g đất). Độ no baze ở mức khá (60,59). Đất phân bố trên địa hình vàn, vàn cao và cao, thoát nước tốt. Đất được phân bố ở tất cả các xã trong vùng lòng chảo Điện Biên. Còn lại 2 loại đất phù sa là: Đất phù sa được bồi chua (276,32 ha) và đất phù sa ngòi suối (221,04 ha) cũng phù hợp và được sử dụng một phần để trồng lúa, nhưng do được bồi đắp hàng năm nên chủ yếu được trồng cây hoa màu. Trên các loại đất phù sa này, tại những vùng đất cao hoặc chủ động tưới tiêu, nông dân đã xen thêm vụ cây trồng cạn, để có rau vụ đông hoặc cây họ đậu góp phần bồi dưỡng đất. Đây là nhóm đất chủ lực để sản xuất ra các sản phẩm lương thực, thực phẩm, tạo sản phẩm hàng hóa của huyện. - Nhóm đất đỏ vàng: Đất phân bố ở địa hình đồi núi thấp. Trong nhóm đất này, thảm thực vật có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và đặc điểm các loại đất (tích luỹ mùn, giữ nước, chống xói mòn). Nhóm đất đỏ vàng ở vùng lòng chảo Điện Biên được phân ra 5 loại đất, trong đó có 2 loại đất chính được sử dụng để trồng lúa là: đất đỏ vàng trên đá phiến sét, có diện tích 4.447 ha, sử dụng trồng lúa là 104,58 ha; đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước (Fl), có diện tích 566,52 ha, chiếm 14,14% diện tích đất trồng lúa. Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước (Fl) có thành phần cơ giới từ thịt đến thịt pha sét. Đất có phản ứng chua đến ít chua (pHKCl: 4,69). Hàm lượng chất hữu cơ trung bình (1,54%). Đạm tổng số trung bình (0,14%). Lân tổng số giàu (0,18%) và kali tổng số nghèo (0,75%). Lân dễ tiêu trung bình (12,4 mg/100g đất). Kali dễ tiêu nghèo (7,2 mg/100g đất). Độ no baze ở mức trung bình. Tại cánh đồng Mường Thanh, chất lượng gạo cũng có sự khác nhau giữa các khu vực. Ngoài những đặc điểm đặc thù của vùng về điều kiện khí hậu và địa hình 101 là nền tảng tạo nên gạo chất lượng thì chất lượng gạo có sự khác nhau giữa các tiểu vùng là do tính chất đất đai. Hiện nay, lúa ở cánh đồng Mường Thanh được gieo trồng chủ yếu bằng giống Bắc Thơm số 7 chiếm 55-65% diện tích. Chính vì vậy, đề tài đã đi sâu nghiên cứu chất lượng gạo Bắc Thơm số 7 trồng tại các vùng đất trồng lúa khác nhau, xác định ảnh hưởng bởi những tính chất đất trồng lúa chính như sau: pHKCl, OM%; đạm, lân, kali tổng số; lân và kali dễ tiêu; dung tích hấp thu (CEC), độ no bazơ (BS) và thành phần cơ giới đất (3 cấp). Chất lượng gạo được quyết định bởi những chỉ tiêu chính như: hàm lượng protein, amyloza, tinh bột và cuối cùng là chất lượng nấu và cảm quan cơm được tổng hợp từ: mùi thơm, độ mềm dẻo, độ trắng, độ ngon của cơm. Để chứng minh được mối quan hệ giữa các tính chất của đất với chất lượng gạo Bắc Thơm số 7 tại cánh đồng Mường Thanh, chúng tôi xác định hệ số tương quan giữa chất lượng gạo và các tính chất của đất (bảng 3.21). Bảng 3.21. Hệ số tương quan (r) giữa các tính chất đất với chỉ tiêu chất lượng gạo Bắc Thơm số 7 tại cánh đồng Mường Thanh Chỉ tiêu pH OM N P2O5 K2O CEC BS Sét Tỷ lệ trắng trong -0,572* 0,467 0,238 -0,307 0,382 0,365 -0,564* 0,539* Hàm lg. protein -0,067 -0,195 -0,234 -0,437 0,011 0,132 -0,132 0,130 Hàm lg. tinh bột 0,090 -0,244 0,310 0,171 -0,489 -0,232 0,249 0,035 Hàm lg. amyloza -0,160 0,001 0,155 -0,080 -0,214 0,032 -0,129 -0,245 Chất lượng thử nếm -0,763* 0,520* 0,303 -0,321 0,085 0,362 -0,744* 0,549* Ghi chú: N ở dạng tổng số; P2O5, K2O ở dạng dễ tiêu Phân tích hệ số tương quan (bảng 3.21) cho thấy, hàm lượng protein trong gạo tương quan không chặt với các tính chất đất chính, trong đó giữa protein và lân dễ tiêu có hệ số tương quan (r) lớn nhất r = -0,437, với đạm tổng số r = -0,234, còn lại các chỉ tiêu tính chất đất khác có |r| chỉ từ 0,011 đến 0,195. Hàm lượng tinh bột trong gạo tương quan tuyến tính không chặt với các tính chất đất chính, trong đó giữa tinh bột và kali dễ tiêu có hệ số tương quan cao nhất r = -0,489, còn lại các chỉ tiêu tính chất đất khác có r từ 0,035 đến 0,310. 102 Hàm lượng amyloza trong gạo tương quan tuyến tính không chặt với các tính chất đất chính, trong đó giữa amyloza và kali dễ tiêu có hệ số tương quan r = -0,214 và giữa amyloza với sét r = -0,245, còn lại các chỉ tiêu tính chất đất khác có r chỉ từ 0,001 đến 0,160. Tỷ lệ trắng trong hạt gạo tương quan tuyến tính với các tính chất của đất như: với pH đất, hệ số tương quan r = -0,572, với độ no bazơ r = -0,564, với thành phần cơ giới sét r = 0,539, với OM r = 0,467; tương quan không chặt với hàm lượng đạm tổng số trong đất, với hệ số tương quan r = 0,238 (coi như không có quan hệ). Chất lượng thử nếm cơm gạo Bắc Thơm số 7 vùng cánh đồng Mường Thanh tương quan tuyến tính chặt với pH đất, hệ số tương quan r = -0,763; với độ no bazơ r = -0,744; với sét r = 0,549; với hàm lượng OM r = 0,520. Các tính chất đất như đạm tổng số, lân và kali dễ tiêu, tương quan không chặt với chất lượng thử nếm cơm Bắc Thơm số 7. Theo kết quả nghiên cứu thực tế và kinh nghiệm của người dân địa phương thì lúa sản xuất ở những khu vực thích hợp sẽ cho gạo có tỷ lệ trắng trong cao; hạt gạo trắng, sáng; chất lượng nấu nướng và thử nếm cơm tốt. Qua tính hệ số tương quan các biến phụ thuộc của chất lượng gạo trồng tại cánh đồng Mường Thanh với các tính chất đất (bảng 3.21), chúng tôi xác định các biến số là độ trắng trong hạt gạo và kết quả thử nếm cơm phụ thuộc vào các tính chất đất, còn lại các biến hàm lượng protein, amyloza, tinh bột ít phụ thuộc các tính chất của đất. Vì vậy, chúng tôi tiến hành xây dựng 2 phương trình hồi quy: (1) độ trắng trong của hạt gạo; và (2) kết quả thử nếm cơm phụ thuộc và các tính chất của đất. Nghiên cứu hệ số tương quan (bảng 3.21) và xác suất của các biến phụ thuộc (phụ lục 3.8.5) cho thấy, tương quan giữa độ trắng trong hạt gạo với N tổng số, OM, K20 và P205 dễ tiêu, CEC là không chặt. Chính vì vậy, các biến số này bị loại, còn lại 3 biến là pH, BS, sét có tương quan chặt hơn được sử dụng để xây dựng phương trình hồi quy và có kết quả: Hệ số tương quan bội r = 0,72 được coi là tương quan tuyến tính và có 52,24% biến động số liệu do các yếu tố x1, x2, x3 gây ra. F thực nghiệm là 10,21, ứng với xác xuất 1,04-4 < mức xác xuất ý nghĩa 0,05 nên phương trình hồi quy tuyến tính được chấp nhận (kết quả số liệu tham khảo phụ lục 3.8.6). Phương trình hồi quy biểu diễn tỷ lệ độ trắng trong của hạt gạo tại cánh đồng Mường Thanh phụ thuộc tuyến tính vào pH (x1), BS (x2), thành phần cơ giới đất (sét) (x3) như sau: Y = 96,7352 - 4,8971 x1 - 0,0917 x2 + 0,3510 x3 103 Tương tự như trên, tương quan giữa kết quả thử nếm chất lượng cơm với các tính chất của đất như N tổng số, K20 và P205 dễ tiêu, CEC là không chặt (phụ lục 3.8.8). Còn lại các tính chất pH, OM, BS và sét có tương quan chặt hơn được sử dụng xây dựng phương trình hồi quy và có kết quả: Hệ số tương quan bội r = 0,88 là tương quan tuyến tính chặt và có 77,74% biến động số liệu do các yếu tố x1, x2, x3, x4 gây ra. F thực nghiệm là 23,58, ứng với xác xuất 1,7 -8 < mức xác xuất ý nghĩa 0,05 nên phương trình hồi quy tuyến tính được chấp nhận (kết quả số liệu tham khảo phụ lục 3.8.9). Phương trình hồi quy dự báo chất lượng thử nếm phụ thuộc tuyến tính vào pH (x1),
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_phat_trien_he_thong_cay_trong_nong_nghiep.pdf
KHCT - TTLA - Hoang Cong Menh.pdf
TTT - Hoang Cong Menh.pdf