Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 234 trang nguyenduy 30/08/2025 40
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

Luận án Nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên
8,8 10,0 
- Lượng mưa (mm) 51,2 132,6 182,4 278,5 342,6 154,8 56,8 
 Từ phân hóa đòng đến thu hoạch lúa 
 10/3 15/4 15/5 1/8 1/9 30/9 
Nguồn: Trạm Khí tượng Điện Biên (2012) 
 94
+ Số giờ nắng: Số giờ nắng trung bình/năm tại trạm Điện Biên là khá cao 
(2.052,8 giờ/năm). Giai đoạn từ khi lúa làm đòng đến thu hoạch (45-60 ngày cuối) 
thời tiết ảnh hưởng lớn đến năng suất và chất lượng gạo, đặc biệt từ khi lúa trỗ bông 
đến thu hoạch (30 ngày cuối). Tại Điện Biên, trong vụ xuân giai đoạn lúa trỗ 
khoảng 15/4 và thu hoạch 10-20/5 có số giờ nắng là 205,8 giờ/tháng; trong vụ mùa 
lúa trỗ và thu hoạch trong tháng 9, có số giờ nắng cao, 171,8 giờ/tháng. Đây là điều 
kiện tốt cho quá trình lúa trỗ bông đến chín ảnh hưởng đến quang hợp sau trỗ, đẩy 
mạnh quá trình vận chuyển vật chất vào hạt. Cũng chính vì vậy, lúa ở cánh đồng 
Mường Thanh cho năng suất cao. 
+ Bức xạ quang hợp: Nhiệt độ, sánh sáng ở giai đoạn cuối (nhất là 30 ngày 
cuối) là rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đối với năng suất cây trồng. Biết được 
bức xạ, có thể tính toán được tiềm năng năng suất cây trồng (Nguyễn Văn Viết, 
2009). Theo Bùi Huy Đáp (1981) (Dẫn theo Lý nhạc và cs., 1987), ở miền Bắc lúa 
mùa trung năng suất cao hơn lúa mùa sớm và lúa mùa muộn; lúa xuân (tháng 11-6) 
cao hơn năng suất lúa chiêm (tháng 10-5) do thời gian cuối của lúa xuân có số giờ 
nắng nhiều hơn, lượng bức xạ lớn hơn khi cấy cùng một giống. 
Tại lòng chảo Điện Biên vào thời kỳ lúa trỗ đến thu hoạch có tổng lượng bức 
xạ/tháng cao (6,4-6,8 kcal/cm2/tháng trong vụ xuân và 6,5 kcal/cm2/tháng trong vụ 
mùa); cao hơn tại Nam Định chỉ 5,8-6,1 kcal/cm2/tháng trong vụ xuân và 5,2-5,6 
kcal/cm2/tháng trong vụ mùa (phụ lục 1.2). Đây chính là điều kiện để lúa trồng ở 
Điện Biên có năng suất cao hơn. 
+ Nhiệt độ trung bình: Nhiệt độ thích hợp giai đoạn cây lúa trỗ yêu cầu nhiệt 
độ ổn định 20-300C, nếu nhiệt độ thấp < 200C làm cho quá trình thụ phấn của lúa bị 
giảm, nhiệt độ thích hợp là 25-300C. Khi nhiệt độ cao vào thời kỳ làm đòng thì 
giảm số hoa, vào thời kỳ cây trổ bông làm tăng tỷ lệ hạt lép do hạt phấn chết, khi 
chín làm giảm tỷ lệ hạt chắc, khối lượng hạt giảm (do giảm tích luỹ) (Nguyễn Văn 
Liêm và cs., 2007). Qua nghiên cứu cho thấy, tại Điện Biện các tháng lúa trỗ đến 
chín có nhiệt độ tương đối ổn định và khá thuận lợi. Cây lúa trỗ bông đến chín trong 
vụ xuân 10/4-15/5 với nhiệt độ trung bình 24,4-25,60C; trong vụ mùa 1-30/9 với 
nhiệt độ trung bình 24,90C là rất phù hợp. 
 95
0
2
4
6
8
10
12
14
16
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
Các tháng
N
h
iệ
t 
đ
ộ
 (
o
C
)
Điện Biên Việt Trì
Nam Định Hà Nội
Hình 3.5. So sánh biên độ nhiệt giữa Trạm Khí tượng Điện Biên với một số 
trạm vùng núi trung du và đồng bằng Bắc Bộ (số liệu trung bình 1971-2010) 
+ Biên độ nhiệt độ ngày đêm: Đối với ngành trồng trọt, biên độ nhiệt ngày 
đêm có tác dụng lớn đối với quá trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng, đặc biệt 
trong quá trình quang hợp tích luỹ vật chất do quá trình hô hấp vào ban đêm thấp, 
nhiều khi biên độ nhiệt còn có ý nghĩa đến chất lượng nông sản của một vùng. Do 
đó, đối với từng vùng thì thời gian có biên độ nhiệt ngày lớn chính là thời gian thích 
hợp và thuận lợi đối với quá trình ra hoa, tạo quả và tích lũy vào hạt (củ) của nhiều 
loại cây trồng (Nguyễn Văn Viết, 2009). 
0
5
10
15
20
25
30
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
N
h
iệ
t 
đ
ộ
 (
o
C
),
0
50
100
150
200
250
Các tháng
S
ố
 g
iờ
 n
ắn
g
 T
B
 (
g
iờ
)
Nhiệt độ (oC)
Số gời nắng TB tháng (giờ)
Hình 3.6. Tổng hợp một số chỉ tiêu của Trạm Khí tượng Điện Biên 
huyện Điện Biên qua các tháng trong năm (số liệu trung bình 1971-2010) 
 96
Biên độ nhiệt độ không khí ngày đêm của Trạm Điện Biên khá cao (10,50C), 
cao hơn so với các trạm vùng núi khác (Trạm Việt Trì chỉ đạt 6,0-7,10C) và cao hơn 
hẳn so với các trạm ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng (Trạm Láng - Hà Nội 
6,20C, Trạm Nam Định 5,60C) (xem phụ lục 1.2). Tại Điện Biên, ở các tháng cây 
lúa trỗ đến chín đều có biên độ nhiệt cao. Trong vụ xuân, vào thời kỳ lúa trỗ đến thu 
hoạch, biên độ nhiệt của Điện Biên là 11-12,20C (giữa tháng 4 - giữa tháng 5), trong 
khi đó tại Hà Nội chỉ 6,80C, tại Nam Định chỉ 6,50C. Trong vụ mùa, vào thời kỳ lúa 
trỗ đến thu hoạch, biên độ nhiệt độ của Trạm Điện Biên 8,80C (tháng 9), trong khi 
đó tại Hà Nội chỉ 6,3-6,60C và Nam Định chỉ 5,6-6,00C (tháng 9 và 10). 
Thời gian có biên độ nhiệt ngày đêm lớn chính là điều kiện thích hợp và thuận 
lợi đối với quá trình trỗ bông, chín của cây lúa. Ban ngày nhiệt độ cao, ánh sáng 
nhiều tạo điều kiện thuận lợi cho bộ lá quang hợp hợp được nhiều, ban đêm nhiệt độ 
thấp làm quá trình tích lũy vật chất từ từ, vận chuyển tốt làm cho cấu trúc tinh bột 
được chặt chẽ và cũng tạo điều kiện tốt cho quá trình chuyển hóa tích lũy phenol 
thơm vào trong hạt thóc, làm tăng chất lượng gạo (gạo có độ dẻo, độ trong). Đồng 
thời, nhiệt độ thấp vào ban đêm làm thời gian sinh trưởng cây lúa kéo dài, dẫn đến 
tăng số bông/m2 và hô hấp (vô hiệu) giảm nên tích lũy chất khô lớn, tinh bột cũng 
tăng lên. Nhiệt độ ban đêm thấp làm hô hấp giảm, giảm vật chất tiêu hao nên tăng 
tích lũy cho cây lúa, vì vậy lúa có năng suất cao (Nguyễn Duy Chinh, 2009). Do đó, 
lúa ở tỉnh Điện Biên nói chung, huyện Điện Biên nói riêng trong điều kiện cùng 
giống, cùng mùa vụ có năng suất cao ổn định, chất lượng tốt hơn các vùng khác. 
- Lượng mưa, chế độ mưa: Ở Điện Biên, vào thời kỳ thu hoạch lúa vụ xuân 
10-20/5 lượng mưa thấp, trong vụ mùa (25/9-5/10) lượng mưa đã giảm, là điều kiện 
rất thuận lợi cho thu hoạch, phơi lúa, đặc biệt là lúa chất lượng. 
Mặt khác, trong điều kiện thực tế mưa ở Điện Biên chủ yếu từ tháng 5 đến 
tháng 9 và lượng mưa trung bình tháng không đáp ứng được nhu cầu cây lúa nước. 
Do đó, để sản xuất được 2 vụ lúa ở đây, nhất thiết (điều kiện tiên quyết) phải sử 
dụng nước lưu trữ từ hồ chứa, đảm bảo tưới cho lúa trong vụ xuân. Nhờ có hệ thống 
công trình đại thủy nông Nậm Rốm với hồ Pa Khoang cùng các hồ trung, tiểu thủy 
nông và hệ thống kênh dẫn đã chủ động tưới cả các tháng mùa khô đầu vụ lúa xuân 
 97
nên đã đáp ứng được nhu cầu tưới chủ động ổn định 3.200 ha lúa 2 vụ ở đây. 
Như vậy, nghiên cứu cho thấy ở vùng lòng chảo Điện Biên một số yếu tố khí 
hậu chính đã tạo nên chất lượng gạo đặc sản: có tổng lượng bức xạ và số giờ nắng 
lớn và biên độ nhiệt ngày đêm cao đã tạo nên lúa có năng suất cao và chất lượng tốt; 
ở giai đoạn thu hoạch mưa ít, thuận lợi cho thu hoạch và phơi lúa. 
(c) Tính chất nguồn nước tưới cho lúa 
Nguồn nước tưới cho lúa vùng cánh đồng Mường Thanh chủ yếu từ hệ thống 
thủy lợi Nậm Rốm qua kênh hữu, kênh tả bao quanh cánh đồng và có bổ sung từ 
các hồ thủy lợi xung quanh. Qua nghiên cứu cho thấy, hàm lượng các chất khoáng 
trong nước tưới cho lúa (pH, NH4+, P2O5, K2O, Ca
2+, Mg2+, K+, Na+) giữa các khu 
vực không có sự khác nhau lớn và chưa có những chỉ tiêu hóa tính vượt trội ảnh 
hưởng đến sinh trưởng phát triển cây lúa tạo nên chất lượng gạo, nhất là các chất vi 
lượng (xem chi tiết phụ lục 2.3). 
Tuy nhiên, việc sử dụng nước tưới từ hệ thống thủy lợi Nâm Rốm, các hồ, 
sông suối đã cung cấp thêm một lượng dinh dưỡng đáng kể cho cây lúa như: đạm, 
lân, can xi, mage, natri, ... và nhiều chất khoáng, vi lượng khác. 
Vấn đề địa hình, khí hậu và nguồn nước là chung cho toàn vùng, nhưng tại 
sao chất lượng gạo không đồng đều, phải chăng do đặc tính đất đai khác nhau. 
d. Đặc điểm đất và chất lượng gạo vùng cánh đồng Mường Thanh 
Lúa ở cánh đồng Mường Thanh được sản xuất chủ yếu trong phạm vi từ độ 
cao < 600 m so với mực nước biển. Chính vì vậy, đề tài đi sâu nghiên cứu đánh giá 
đất đai khu vực có độ cao < 600 m, kết quả được trình bày ở bảng 3.19. 
- Nhóm đất phù sa chiếm phần lớn diện tích đất canh tác lúa vùng cánh đồng 
Mường Thanh (chiếm 83,25%), đất được hình thành từ các sản phẩm bồi tụ chủ yếu 
của sông Nậm Rốm và một số sông suối lớn trong vùng lòng chảo đã tạo nên cánh 
đồng Mường Thanh khá màu mỡ. Do vị trí địa lý và bản chất của các sản phẩm phù 
sa được bồi đắp khác nhau nên đặc điểm của chúng rất đa dạng. Nhóm đất phù sa 
tại lòng chảo Điện Biên được chia ra 5 loại đất chính, trong đó đất trồng lúa chủ yếu 
trên 3 loại đất: đất phù sa không được bồi chua (Pc), đất phù sa gley (Pg) và đất phù 
sa có tầng loang lổ đỏ vàng (Pf). 
 98
Bảng 3.19. Tổng hợp diện tích các loại đất (ở độ cao < 600 m) 
vùng lòng chảo Điện Biên huyện Điện Biên năm 2010 
 Đơn vị tính: Ha 
TT Tên đất 
Ký 
hiệu 
Đất ở độ cao < 600m Đất trồng lúa (2010) 
 Diện tích Tỷ lệ (%) Diện tích Tỷ lệ (%) 
 Tổng diện tích tự nhiên 12.759,57 100 
 Diện tích đất vùng nghiên cứu (I+II) 9.792,53 76,75 4006,00 100 
 Trong đó: 
I Nhóm đất phù sa 4.249,23 33,31 3.334,90 83,25 
1 Đất phù sa được bồi chua Pbc 276,32 2,17 33,45 0,83 
2 Đất phù sa k. được bồi chua Pc 649,32 5,09 185,81 4,64 
3 Đất phù sa gley Pg 1.083,13 8,49 1.076,67 26,88 
4 Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng Pf 2.019,42 15,83 1.996,49 49,84 
5 Đất phù sa ngòi suối Py 221,04 1,73 42,48 1,06 
II Nhóm đất khác 5.543,30 43,45 671,10 16,75 
6 Đất nâu đỏ trên đá bazan Fk 91,81 0,72 
7 Đất đỏ vàng trên đá phiến sét Fs 4.447,56 34,86 104,58 2,61 
8 Đất vàng nhạt trên đá cát Fq 208,24 1,63 
9 Đất nâu vàng trên phù sa cổ Fp 229,17 1,80 
10 Đất đỏ vàng biến đổi do trồng l. nước Fl 566,52 4,44 566,52 14,14 
III Đất phi nông nghiệp 2.967,04 23,25 
Theo Chỉ tiêu phân cấp một số yếu tố lý hoá học phục vụ đánh giá độ phì 
nhiêu hiện tại của đất của Bộ NN & PTNT (2006) thì tính chất một số loại đất trồng 
lúa chính ở cánh đồng Mường Thanh được đánh giá như sau (số liệu bảng 3.20): 
+ Đất phù sa không được bồi chua (ký hiệu: Pc), có diện tích 649,32 ha, trong 
đó có 185,81 ha đang được trồng lúa. Đất có thành phần cơ giới thịt pha sét, phản 
ứng đất chua (pHKCl: 4,64). Hàm lượng chất hữu cơ và đạm tổng số trung bình đến 
khá (tương ứng 1,58% và 0,11%). Lân tổng số khá (0,11%). Kali tổng số trung bình 
(1,02%). Lân dễ tiêu trung bình (12,5 mg/100g đất) và kali dễ tiêu nghèo (5,7 
mg/100g đất). Độ no baze ở mức cao. Loại đất này hàng năm không bị ảnh hưởng 
ngập lụt của sông, được phân bố ở các xã, dọc theo sông Nậm Rốm (Thanh Hưng, 
 99
Thanh Chăn, Thanh Yên, Noong Luống, Thanh An, Noong Hẹt), trên địa hình vàn 
cao và cao, thoát nước tốt. 
Bảng 3.20. Đặc điểm tầng canh tác (0-20 cm) các loại đất trồng lúa chính 
vùng cánh đồng Mường Thanh 
Loại 
đất 
pHKCl 
OM 
(%) 
Tổng số 
(%) 
Dễ tiêu 
(mg/100g đất) 
BS 
(%) 
Thành phần cơ giới (%) 
theo cấp hạt (mm) 
N P2O5 K2O P2O5 K2O 2-0,02 0,02-0,002 < 0,002 
Đất đất phù sa không được bồi chua (Pc) (n = 4) 
TB 4,64 1,58 0,11 0,11 1,02 12,5 5,7 49,70 40,21 31,58 28,21 
Min 4,20 1,00 0,07 0,07 0,65 9,30 3,60 43,47 24,04 26,40 18,40 
Max 4,96 2,03 0,17 0,14 1,44 14,60 7,20 66,12 46,20 37,32 38,64 
Đất phù sa glây (Pg) (n = 10) 
TB 4,21 2,25 0,17 0,12 1,16 12,07 8,08 64,11 16,45 39,97 43,58 
Min 3,70 1,69 0,13 0,09 0,85 8,60 4,80 45,10 8,64 29,70 32,40 
Max 4,62 2,90 0,18 0,19 1,49 14,60 11,60 87,15 23,70 46,60 53,80 
Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng (Pf) (n = 12) 
TB 4,75 2,16 0,16 0,16 1,13 12,6 9,2 60,59 26,66 38,16 35,18 
Min 4,05 1,50 0,13 0,06 0,83 4,40 7,20 47,23 12,14 35,10 30,79 
Max 5,55 2,58 0,24 0,22 1,43 18,60 11,79 75,19 30,40 47,15 46,82 
Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa (Fl) (n = 6) 
TB 4,69 1,54 0,14 0,18 0,75 12,4 7,2 50,47 47,00 34,07 18,93 
Min 4,03 0,95 0,10 0,09 0,12 8,16 5,12 42,99 42,20 26,40 16,00 
Max 5,25 1,95 0,19 0,32 1,14 16,30 9,15 61,06 51,40 38,00 25,20 
+ Đất phù sa glây (ký hiệu: Pg), có diện tích 1.083,13 ha, trong đó có 
1.076,67 ha đang được trồng lúa. Đất có thành phần cơ giới sét, phản ứng đất từ rất 
chua đến chua (pHKCl: 4,21). Hàm lượng chất hữu cơ và đạm tổng số giàu (tương 
ứng 2,25% và 0,17%). Lân tổng số khá (0,12%). Kali tổng số nghèo đến trung bình 
(1,16%). Lân dễ tiêu trung bình (12,07 mg/100g đất) và kali dễ tiêu nghèo (8,08 
mg/100g đất). Độ no baze ở mức (64,11%). Đất hình thành ở địa hình vàn và vàn 
thấp, khó thoát nước, xa bờ sông suối hơn các loại đất phù sa khác. Đất được phân 
bố chủ yếu ở các xã phía tây và nam vùng lòng chảo (Thanh Luông, Thanh Yên, 
 100
Noong Luống, Thanh Xương, Thanh An, Noong Hẹt, Sam Mứn). 
+ Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng (ký hiệu: Pf), có diện tích: 2.019,4 ha, 
trong đó có 1.996,49 ha đang được trồng lúa, chiếm gần 50% diện tích đang trồng 
lúa của vùng. Đất có thành phần cơ giới thịt pha sét đến sét, phản ứng đất chua 
(pHKCl: 4,75). Hàm lượng chất hữu cơ và đạm tổng số khá (tương ứng 2,16% và 
0,16%). Lân tổng số khá (0,16%). Kali tổng số trung bình (1,13%). Lân dễ tiêu 
trung bình (12,6 mg/100g đất). Kali dễ tiêu nghèo (9,2 mg/100g đất). Độ no baze ở 
mức khá (60,59). Đất phân bố trên địa hình vàn, vàn cao và cao, thoát nước tốt. Đất 
được phân bố ở tất cả các xã trong vùng lòng chảo Điện Biên. 
Còn lại 2 loại đất phù sa là: Đất phù sa được bồi chua (276,32 ha) và đất phù 
sa ngòi suối (221,04 ha) cũng phù hợp và được sử dụng một phần để trồng lúa, nhưng 
do được bồi đắp hàng năm nên chủ yếu được trồng cây hoa màu. Trên các loại đất 
phù sa này, tại những vùng đất cao hoặc chủ động tưới tiêu, nông dân đã xen thêm 
vụ cây trồng cạn, để có rau vụ đông hoặc cây họ đậu góp phần bồi dưỡng đất. Đây 
là nhóm đất chủ lực để sản xuất ra các sản phẩm lương thực, thực phẩm, tạo sản 
phẩm hàng hóa của huyện. 
- Nhóm đất đỏ vàng: Đất phân bố ở địa hình đồi núi thấp. Trong nhóm đất này, 
thảm thực vật có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và đặc điểm các loại đất (tích luỹ 
mùn, giữ nước, chống xói mòn). Nhóm đất đỏ vàng ở vùng lòng chảo Điện Biên 
được phân ra 5 loại đất, trong đó có 2 loại đất chính được sử dụng để trồng lúa là: đất 
đỏ vàng trên đá phiến sét, có diện tích 4.447 ha, sử dụng trồng lúa là 104,58 ha; đất 
đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước (Fl), có diện tích 566,52 ha, chiếm 14,14% diện 
tích đất trồng lúa. 
Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước (Fl) có thành phần cơ giới từ thịt đến 
thịt pha sét. Đất có phản ứng chua đến ít chua (pHKCl: 4,69). Hàm lượng chất hữu cơ 
trung bình (1,54%). Đạm tổng số trung bình (0,14%). Lân tổng số giàu (0,18%) và 
kali tổng số nghèo (0,75%). Lân dễ tiêu trung bình (12,4 mg/100g đất). Kali dễ tiêu 
nghèo (7,2 mg/100g đất). Độ no baze ở mức trung bình. 
Tại cánh đồng Mường Thanh, chất lượng gạo cũng có sự khác nhau giữa các 
khu vực. Ngoài những đặc điểm đặc thù của vùng về điều kiện khí hậu và địa hình 
 101
là nền tảng tạo nên gạo chất lượng thì chất lượng gạo có sự khác nhau giữa các tiểu 
vùng là do tính chất đất đai. 
Hiện nay, lúa ở cánh đồng Mường Thanh được gieo trồng chủ yếu bằng 
giống Bắc Thơm số 7 chiếm 55-65% diện tích. Chính vì vậy, đề tài đã đi sâu nghiên 
cứu chất lượng gạo Bắc Thơm số 7 trồng tại các vùng đất trồng lúa khác nhau, xác 
định ảnh hưởng bởi những tính chất đất trồng lúa chính như sau: pHKCl, OM%; 
đạm, lân, kali tổng số; lân và kali dễ tiêu; dung tích hấp thu (CEC), độ no bazơ (BS) 
và thành phần cơ giới đất (3 cấp). 
Chất lượng gạo được quyết định bởi những chỉ tiêu chính như: hàm lượng 
protein, amyloza, tinh bột và cuối cùng là chất lượng nấu và cảm quan cơm được 
tổng hợp từ: mùi thơm, độ mềm dẻo, độ trắng, độ ngon của cơm. 
Để chứng minh được mối quan hệ giữa các tính chất của đất với chất lượng 
gạo Bắc Thơm số 7 tại cánh đồng Mường Thanh, chúng tôi xác định hệ số tương 
quan giữa chất lượng gạo và các tính chất của đất (bảng 3.21). 
Bảng 3.21. Hệ số tương quan (r) giữa các tính chất đất với chỉ tiêu chất lượng 
gạo Bắc Thơm số 7 tại cánh đồng Mường Thanh 
 Chỉ tiêu pH OM N P2O5 K2O CEC BS Sét 
Tỷ lệ trắng trong -0,572* 0,467 0,238 -0,307 0,382 0,365 -0,564* 0,539* 
Hàm lg. protein -0,067 -0,195 -0,234 -0,437 0,011 0,132 -0,132 0,130 
Hàm lg. tinh bột 0,090 -0,244 0,310 0,171 -0,489 -0,232 0,249 0,035 
Hàm lg. amyloza -0,160 0,001 0,155 -0,080 -0,214 0,032 -0,129 -0,245 
Chất lượng thử nếm -0,763* 0,520* 0,303 -0,321 0,085 0,362 -0,744* 0,549* 
Ghi chú: N ở dạng tổng số; P2O5, K2O ở dạng dễ tiêu 
Phân tích hệ số tương quan (bảng 3.21) cho thấy, hàm lượng protein trong 
gạo tương quan không chặt với các tính chất đất chính, trong đó giữa protein và lân 
dễ tiêu có hệ số tương quan (r) lớn nhất r = -0,437, với đạm tổng số r = -0,234, còn 
lại các chỉ tiêu tính chất đất khác có |r| chỉ từ 0,011 đến 0,195. 
Hàm lượng tinh bột trong gạo tương quan tuyến tính không chặt với các tính 
chất đất chính, trong đó giữa tinh bột và kali dễ tiêu có hệ số tương quan cao nhất r 
= -0,489, còn lại các chỉ tiêu tính chất đất khác có r từ 0,035 đến 0,310. 
 102
Hàm lượng amyloza trong gạo tương quan tuyến tính không chặt với các tính 
chất đất chính, trong đó giữa amyloza và kali dễ tiêu có hệ số tương quan r = -0,214 
và giữa amyloza với sét r = -0,245, còn lại các chỉ tiêu tính chất đất khác có r chỉ từ 
0,001 đến 0,160. 
Tỷ lệ trắng trong hạt gạo tương quan tuyến tính với các tính chất của đất 
như: với pH đất, hệ số tương quan r = -0,572, với độ no bazơ r = -0,564, với thành 
phần cơ giới sét r = 0,539, với OM r = 0,467; tương quan không chặt với hàm lượng 
đạm tổng số trong đất, với hệ số tương quan r = 0,238 (coi như không có quan hệ). 
Chất lượng thử nếm cơm gạo Bắc Thơm số 7 vùng cánh đồng Mường Thanh 
tương quan tuyến tính chặt với pH đất, hệ số tương quan r = -0,763; với độ no bazơ 
r = -0,744; với sét r = 0,549; với hàm lượng OM r = 0,520. Các tính chất đất như 
đạm tổng số, lân và kali dễ tiêu,  tương quan không chặt với chất lượng thử nếm 
cơm Bắc Thơm số 7. Theo kết quả nghiên cứu thực tế và kinh nghiệm của người 
dân địa phương thì lúa sản xuất ở những khu vực thích hợp sẽ cho gạo có tỷ lệ trắng 
trong cao; hạt gạo trắng, sáng; chất lượng nấu nướng và thử nếm cơm tốt. 
Qua tính hệ số tương quan các biến phụ thuộc của chất lượng gạo trồng tại 
cánh đồng Mường Thanh với các tính chất đất (bảng 3.21), chúng tôi xác định các 
biến số là độ trắng trong hạt gạo và kết quả thử nếm cơm phụ thuộc vào các tính chất 
đất, còn lại các biến hàm lượng protein, amyloza, tinh bột ít phụ thuộc các tính chất 
của đất. Vì vậy, chúng tôi tiến hành xây dựng 2 phương trình hồi quy: (1) độ trắng 
trong của hạt gạo; và (2) kết quả thử nếm cơm phụ thuộc và các tính chất của đất. 
Nghiên cứu hệ số tương quan (bảng 3.21) và xác suất của các biến phụ thuộc 
(phụ lục 3.8.5) cho thấy, tương quan giữa độ trắng trong hạt gạo với N tổng số, OM, 
K20 và P205 dễ tiêu, CEC là không chặt. Chính vì vậy, các biến số này bị loại, còn lại 
3 biến là pH, BS, sét có tương quan chặt hơn được sử dụng để xây dựng phương trình 
hồi quy và có kết quả: Hệ số tương quan bội r = 0,72 được coi là tương quan tuyến 
tính và có 52,24% biến động số liệu do các yếu tố x1, x2, x3 gây ra. F thực nghiệm là 
10,21, ứng với xác xuất 1,04-4 < mức xác xuất ý nghĩa 0,05 nên phương trình hồi quy 
tuyến tính được chấp nhận (kết quả số liệu tham khảo phụ lục 3.8.6). 
Phương trình hồi quy biểu diễn tỷ lệ độ trắng trong của hạt gạo tại cánh đồng 
Mường Thanh phụ thuộc tuyến tính vào pH (x1), BS (x2), thành phần cơ giới đất 
(sét) (x3) như sau: Y = 96,7352 - 4,8971 x1 - 0,0917 x2 + 0,3510 x3 
 103
Tương tự như trên, tương quan giữa kết quả thử nếm chất lượng cơm với các 
tính chất của đất như N tổng số, K20 và P205 dễ tiêu, CEC là không chặt (phụ lục 
3.8.8). Còn lại các tính chất pH, OM, BS và sét có tương quan chặt hơn được sử 
dụng xây dựng phương trình hồi quy và có kết quả: Hệ số tương quan bội r = 0,88 
là tương quan tuyến tính chặt và có 77,74% biến động số liệu do các yếu tố x1, x2, 
x3, x4 gây ra. F thực nghiệm là 23,58, ứng với xác xuất 1,7
-8 < mức xác xuất ý nghĩa 
0,05 nên phương trình hồi quy tuyến tính được chấp nhận (kết quả số liệu tham 
khảo phụ lục 3.8.9). 
Phương trình hồi quy dự báo chất lượng thử nếm phụ thuộc tuyến tính vào 
pH (x1), 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_phat_trien_he_thong_cay_trong_nong_nghiep.pdf
  • pdfKHCT - TTLA - Hoang Cong Menh.pdf
  • pdfTTT - Hoang Cong Menh.pdf