Luận án Nghiên cứu pheromone giới tính và nấm ký sinh trong phòng trị sùng khoai lang (Cylas Formicarius fabricius) tại đồng bằng sông Cửu Long

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu pheromone giới tính và nấm ký sinh trong phòng trị sùng khoai lang (Cylas Formicarius fabricius) tại đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu pheromone giới tính và nấm ký sinh trong phòng trị sùng khoai lang (Cylas Formicarius fabricius) tại đồng bằng sông Cửu Long

chất Crotonyl Chloride bằng phản ứng ester hóa trong dung môi CH2Cl2 dưới môi trường kiềm của Pyridine tạo thành hợp chất (Z)-3-dodecenyl (E)-2- butenoate (Z3-12:E2). Cho đến nay hợp chất Z3-12:OH đã được tổng hợp bằng các con đường khác nhau chủ yếu thông qua phản bắt cặp và phản ứng Wittig. Mỗi con đường tổng hợp có những ưu, khuyết điểm riêng thực hiện theo 2 nhóm tác giả được so sánh trong phần thảo luận chung bên dưới: * Con đường tổng hợp thông qua phản ứng bắt cặp: các tác giả Heath et al. (1986), Lo et al. (1992), Sureda et al. (2006) tổng hợp thông qua phản ứng bắt cặp để tạo thành hợp chất Dodec-3-yn-1-ol, sau đó khử nối ba bằng phản ứng Lindlar để thu được hợp chất Z3-12:OH. - Ưu điểm: hợp chất Z3-12:OH có cấu hình Z (cis) của nối đôi được chọn lọc, từ đó làm tăng hiệu suất tổng hợp của toàn bộ quy trình. - Nhược điểm: phản ứng bắt cặp sử dụng các chất phản ứng đắt tiền, bao gồm các tác nhân gây ung thư như hợp chất Ethylene oxide và Hexamethyl phosphoric triamide (HMPA). Chất xúc tác Lindlar dùng trong phản ứng khử (Hydrogenation) là hỗn hợp của chất Bariumsulfate và chì, là hợp chất có tính độc đối với sức khỏe con người. Do đó, con đường tổng hợp thông qua phản ứng bắt cặp đòi hỏi phải được thực hiện trong điều kiện an toàn nghiêm ngặt. * Con đường tổng hợp thông qua phản ứng Wittig: Nguyen Cong Hao et al. (1996), Mithran và Subbaraman (1999) đã xây dựng quy trình tổng hợp thành hợp chất Z3-12:OH thông qua phản ứng Wittig như sau: Con đường tổng hợp của Nguyen Cong Hao et al. (1996), hợp chất Methyl acrylate được sử dụng làm chất phản ứng ban đầu. Mặc dù, chưa tìm thấy 82 những mô tả cụ thể, nhưng qua sơ đồ con đường tổng hợp của Nguyen Cong Hao et al. (1996) nhận thấy phản ứng Brom hóa nhóm chức Alken của hợp chất Methyl acrylate bằng Hydogen bromide để tạo thành hợp chất Methyl 3- bromopropionate theo nguyên tắc Markovnikov thì hiệu suất của phản ứng sẽ rất thấp. Thêm vào đó, việc loại bỏ sự bảo vệ nhóm chức rượu của Ester bằng Lithium aliminium hydride là phức tạp hơn so với việc loại bỏ sự bảo vệ nhóm chức rượu của Ether. Con đường tổng hợp của Mithran và Subbaraman (1999) sử dụng hợp chất Bromoacetal và hợp chất 2-(2-bromo-ethyl)-[1,3]-dioxolane làm chất phản ứng ban đầu. Đây là hợp chất với nhóm chức Aldehyde được bảo vệ nên sản phẩm của phản ứng Wittig là Olefinic acetal, sau khi loại bỏ sự bảo vệ nhóm chức chỉ thu được hợp chất (Z)-3-dodecenal. Điều này làm cho con đường tổng hợp phải tăng thêm công đoạn khử Z3-12:Ald để thu được hợp chất Z3- 12:OH. Toàn bộ con đường tổng hợp này thông qua 8 bước thực hiện trãi qua nhiều công đoạn rất phức tạp. Tổng hợp thông qua phản ứng Wittig có ưu khuyết điểm như sau: - Ưu điểm: khắc phục được việc sử dụng các chất là tác nhân gây ung thư, trong khi điều kiện phản ứng đơn giản, dễ thực hiện với chất phản ứng rẻ tiền (so với phản ứng bắt cặp). - Nhược điểm: phản ứng Wittig có khuyết điểm quan trọng là tạo thành hợp chất Z3-12:OH đồng thời có 2 cấu hình Z (cis) và E (trans) của nối đôi dẫn đến quy trình phải thêm công đoạn khử hợp chất Z3-12:Ald bằng Sodium borohydride để thu được hợp chất Z3-12:OH, quy trình gồm 8 bước, như vậy chi phí và thời gian thực hiện phản ứng sẽ gia tăng, trong khi hiệu suất tổng hợp của quy trình giảm. * Con đường tổng hợp hợp chất (Z)-3-dodecenyl (E)-2-butenoate (Z3- 12:E2) tại phòng thí nghiệm, ĐHCT, năm 2010 Con đường tổng hợp thông qua phản ứng Wittig với các hợp chất ban đầu là hợp chất 1,3-propanediol và 1-nonanal. Trong quy trình này, phản ứng Wittig được điều chỉnh để tổng hợp chọn lọc cấu hình Z (cis) của nối đôi trong phân tử theo mô tả của Lê Văn Vàng và ctv. (2006). Vì vậy, cần thay đổi điều kiện phản ứng, cụ thể là thay đổi chất phản ứng n-Butyllithium bằng hợp chất Sodium Bis(trimethylsilyl) amide, để thu được sản phẩm Z3-12:OH chỉ có cấu hình Z (cis) đã được mô tả bởi Le Van Vang et al. (2008). Để khắc phục nhược điểm của phản ứng Wittig, thực hiện bằng cách chọn hợp chất phản ứng ban đầu ít độc hại là hợp chất 1,3-propanediol và 1- 83 nonanal với nhóm chức OH được bảo vệ bằng OMOM ether và sử dụng hợp chất Sodium bis(trimethylsilyl) amide để tạo môi trường kiềm cho phản ứng Wittig, thu được sản phẩm Z3-12:OH chỉ có cấu hình Z (cis), không phải thêm công đoạn phân tách và tinh lọc sản phẩm Z3-12:OH để chọn lọc cấu hình Z. Hiệu suất tổng hợp của toàn bộ quy trình thông qua 5 bước thực hiện là 62%. Quy trình này rút ngắn công đọan tổng hợp, chỉ còn 5 bước (con đường tổng hợp của Mithran và Subbaraman (1999) có 8 bước), ít tốn chi phí hóa chất, dung môi, với độ tinh khiết sản phẩm cuối cùng được kiểm định bằng Sắc ký khí khối phổ (GC-MS) đạt trên 99%. Như vậy, con đường tổng hợp thành hợp chất (Z)-3-dodecenyl-(E)2-butenoate (Z3-12:E2) đã thành công thông qua phản ứng Wittig khắc phục được nhược điểm như trình bày ở trên. - Ưu điểm: sử dụng các hợp chất ban đầu ít độc hại, điều kiện phản ứng đơn giản, dễ thực hiện với chất phản ứng rẻ tiền, có sẳn trên thị trường. Thay đổi chất phản ứng để chọn lọc cấu hình Z (cis) của nối đôi trong phân tử, đây là điểm mấu chốt quan trọng của quy trình tổng hợp tạo nên sự khác biệt so với các quy trình trước đây. - Khuyết điểm: để khắc phục phản ứng Wittig tạo thành hợp chất Z3- 12:OH có 2 cấu hình Z (cis) và E (trans) của nối đôi, bằng cách thay đổi hợp chất phản ứng để tạo môi trường kiềm cho phản ứng Wittig thu được sản phẩm Z3-12:OH chỉ có cấu hình Z (cis), quy trình chỉ còn 5 bước, ít tốn chi phí hóa chất, thời gian, với độ tinh khiết đạt trên 99%, hiệu suất toàn bộ quy trình là 62% (từ 3 g chất ban đầu tổng hợp ra sản phẩm cuối cùng là 1,86 g). 4.2.1.2 Thẩm định cấu trúc hợp chất (Z)-3-dodecenyl (E)-2-butenoate Sau khi tổng hợp được hợp chất (Z)-3-dodecenyl (E)-2-butenoate tiến hành gởi mẫu hợp chất này qua phòng thí nghiệm Sinh thái hóa chất, Bộ môn Khoa học sinh học ứng dụng, Khoa Nông Nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp và Công nghệ Tokyo, Nhật Bản để phân tích mẫu. Hình 4.5 trình bày kết quả phân tích và thẩm định cấu trúc, độ tinh khiết của hợp chất Z3-12:E2 tổng hợp bằng các phân tích Cộng hưởng từ hạt nhân và Sắc ký khí khối phổ. Sử dụng cột thủy tinh phân tích là DB-23 và chương trình nhiệt độ như sau: bắt đầu ở 800C (trong 1 phút), tiếp tục tăng lên 2100C với tốc độ 80C/phút và giữ ở 2100C trong 10 phút thì hợp chất Z3-12:E2 tổng hợp có thời gian lưu là 14,14 phút với độ tinh khiết của hợp chất biểu hiện là 100% (Hình 4.5 (A)). Phổ khối lượng (Hình 4.5 (B)) với các ion phân tử lượng M+ ở m/z 252 và các ion phân rã ở m/z 166 (M-butenoic acid), 54, 69, 82, 96, 109, 124 và 84 136 (hình thành do sự phân tách của một nhóm CH3 hoặc -CH2) đã chứng tỏ hợp chất ester mạch thẳng 16 carbon chứa 2 nối đôi trong phân tử. Phổ 1H NMR (Phụ lục B) cho các cao điểm ở δ (ppm) =5,30-5,40 (1H, td, J=7,31, 12,3 Hz), 5,46-5,55 (1H, dt, J=11,05, 7,44 Hz) có hằng số bắt cặp của các germinal hydrogens là 12,3 Hz và 11,05 Hz cho thấy nối đôi của dẫn xuất rượu có cấu hình Z (cis) và các cao điểm ở 5,81- 5,87 (1H, dt, J=15,69, 1,59 Hz) và 6,91-7,03 (1H, qd, J=6,97, 15,61 Hz) có hằng số bắt cặp của các germinal hydrogens là 15,69 Hz và 16,61 Hz, chứng tỏ nối đôi của dẫn xuất axít có cấu hình E (trans). Thêm vào đó, phổ 13C NMR δ (ppm)=14,14, 17,99, 22,72, 26,94, 27,36, 29,35, 29,35, 29,58, 29,66, 31,95, 63,73, 122,77, 124,39, 132,99, 144,56 và 166,59 (Mục 4.2.2.1 và Phụ chương) cho thấy sự hiện diện của 16 carbon với các cao điểm ở δ (ppm) là 122,77 (O=C-CH=CH), 124,39 (-CH=CH-CH2-), 132,99 (-CH2-CH=CH-) và 144,56 (-CH=CH-CH3), dựa vào kết quả phân tích này đã xác định được cấu trúc phân tử của hợp chất (Z)-3-dodecenyl (E)-2- butenoate (Z3-12:E2) (pheromone giới tính tổng hợp). Hình 4.5: Phân tích GC-MS của hợp chất Z3-12:E2 tổng hợp (A) Phổ sắc ký tổng ion (TIC, Total ion Chromatogram); (B) Phổ khối lượng (MS, Mass Spectrum). 85 4.2.1.3 Điều chế mồi pheromone giới tính của sùng khoai lang Sau khi tổng hợp thành hợp chất (Z)-3-dodecenyl (E)-2-butenoate (Z3- 12:E2) là pheromone giới tính tổng hợp của SKL, bước tiếp theo là thực hiện điều chế thành mồi pheromone giới tính tổng hợp bằng cách bơm hợp chất này vào tuýp cao su để kìm giữ và phóng thích mùi pheromone từ từ, dùng đặt bẫy hấp dẫn sùng đực tới tiêu diệt chúng ở điều kiện ngòai đồng. Từ đó, làm cơ sở cho việc ứng dụng pheromone giới tính tổng hợp trong việc phòng trị SKL theo hướng thân thiện với môi trường, thay thế dần thuốc trừ sâu hóa học độc hại làm ảnh hưởng tới môi trường sinh thái và sức khỏe con người. Pheromone giới tính tổng hợp, sau khi tinh lọc, tạo ra sản phẩm cuối cùng được pha loãng trong dung môi n-Hexane ở nồng độ 10 mg/ml (tương ứng 10 µg/µl). Dùng các microsyringe (dụng cụ kim bơm hóa chất) có dung tích 25 và 100 µl để rút dung dịch pha loãng ở các nồng độ khác nhau rồi bơm vào tuýp cao su (quy cách 0,8 cm OD rubber septum, Aldrich, Germany) hoặc ống cao su non, đặt các tuýp cao su (ống cao su non) này vào trong tủ hút hơi độc khoảng 10 phút làm bay hơi dung môi. Sau đó, lấy tuýp cao su ra ngoài và không thêm bất kỳ chất ổn định hay chất chống oxy hóa nào, tuýp cao su này gọi là mồi pheromone giới tính tổng hợp của SKL và được cho vào các bao nhôm ép miệng kín lại, dán nhãn và lưu trữ bảo quản trong điều kiện lạnh của tủ lạnh cho đến khi làm thí nghiệm. Trong quá trình điều chế mồi pheromone giới tính tổng hợp, các thao tác được thực hiện cẩn thận theo phương pháp mô tả ở trên, mồi pheromone giới tính tổng hợp khi sử dụng ngoài đồng thì hiệu quả hấp dẫn sùng đực vào bẫy có thể kéo dài tới 2 tháng. Như vậy, việc thay mồi mới được thực hiện định kỳ 2 tháng/lần. Vụ khoai lang có thời gian sinh trưởng từ 3-5 tháng tùy theo giống khoai có thể sử dụng 2 lần mồi pheromone giới tính để đặt bẫy trên ruộng khoai hấp dẫn sùng đực vào bẫy trong suốt vụ khoai. Tóm lại, các bước thực hiện điều chế mồi pheromone giới tính tổng hợp của SKL trong điều kiện phòng thí nghiệm được mô tả theo Hình 4.6 như sau: 86 Hình 4.6: Các bước điều chế mồi pheromone giới tính tổng hợp của sùng khoai lang (A) Pheromone tổng hợp hòa tan trong dung môi n-Hexane; (B) Pheromone tổng hợp được nhồi vào tuýp cao su; (C) Đóng gói mồi pheromone trong bao nhôm; (D) Bảo quản ở điều kiện lạnh trong tủ lạnh. Bước 1: Pha loãng hợp chất (Z)-3-dodecenyl-(E)-2-butenoate (A) trong dung môi n-Hexane tinh khiết ở nồng độ 10 mg/ml. Bước 2: Dùng microsyringe hút 30 μl dung dịch pha loãng (Bước 1), tương ứng với 0,3 mg hợp chất (Z)-3-dodecenyl-(E)-2-butenoate, bơm vào túyp cao su (B) để làm mồi pheromone giới tính. Bước 3: Cho tuýp cao su (B) đã được bơm hợp chất (Z3-12:E2) (mồi pheromone giới tính tổng hợp) vào bao giấy nhôm hàn kín lại, bảo quản ở điều kiện lạnh trong tủ lạnh cho đến khi làm thí nghiệm hay áp dụng ngoài đồng. 4.2.2 Ứng dụng của pheromone giới tính tổng hợp ở điều kiện ngoài đồng 4.2.2.1 Khảo sát hiệu quả hấp dẫn của pheromone giới tính tổng hợp đối với SKL ở điều kiện ngoài đồng tại huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long a) Khảo sát hiệu quả hấp dẫn của pheromone giới tính tổng hợp ở các khối lượng/bẫy khác nhau đối với sùng khoai lang ở ngoài đồng Kết quả trình bày ở Bảng 4.8 cho thấy các NT có mồi pheromone là (Z)-3- dodecenyl-(E)2-butenoate ở các khối lượng sản phẩm (KLSP) khác nhau đều cho hiệu lực hấp dẫn cao hơn có ý nghĩa so với NT đối chứng (mồi là dung môi n-Hexane). Điều này chứng tỏ pheromone giới tính tổng hợp đã cho hiệu lực hấp dẫn SKL trên ruộng khoai. Giữa các KLSP thí nghiệm (0,1, 0,3, 0,5, 0,7 và 1,0 mg/bẫy) thì nghiệm thức A-4 và A-5 có KLSP là 0,7 và 1,0 mg/bẫy cho hiệu quả hấp dẫn sùng đực lần lượt là 39 và 44 con/bẫy/tuần, tương đương nhau, có ưu thế trội hơn so với các NT khác. Tuy nhiên, kết quả phân tích thống kê cho thấy số lượng sùng đực vào bẫy/tuần ở các NT còn lại đều tương đương nhau và không khác biệt ý nghĩa 5% so với 2 NT A-4 và A-5. Từ kết A B C D Microsyringe 87 quả này có thể chọn NT A-1 với KLSP 0,1 mg/bẫy để áp dụng, tuy nhiên qua theo dõi số lượng sùng đực vào bẫy nhận thấy hiệu lực hấp dẫn sùng có tính không ổn định theo thời gian so với NT A-2, vì vậy để áp dụng pheromone tổng hợp ở KLSP thấp nhằm đảm bảo hiệu lực hấp dẫn sùng ổn định theo thời gian trên đồng ruộng, có thể chọn NT A-2 với KLSP là 0,3 mg/bẫy để áp dụng làm mồi pheromone là phù hợp. Bảng 4.8: Hiệu quả hấp dẫn của pheromone giới tính tổng hợp ở các khối lượng sản phẩm khác nhau đối với sùng khoai lang tại xã Thành Lợi, huyện Bình Tân, Vĩnh Long, năm 2010 Nghiệm thức Thành phần Khối lượng sản phẩm/bẫy (mg/bẫy) Số lượng sùng đực (con/bẫy/tuần) A-1 Z3-12:E2 tinh khiết 0,1 23,0ab A-2 Z3-12:E2 tinh khiết 0,3 21,7ab A-3 Z3-12:E2 tinh khiết 0,5 27,3ab A-4 Z3-12:E2 tinh khiết 0,7 44,0a A-5 Z3-12:E2 tinh khiết 1,0 39,0a A-6 Z3-12:E2 chưa tinh khiết 0,3 22,0ab A-7 n-Hexane (Đối chứng) 0 0,0c CV(%) 11,84 Mức ý nghĩa * Các số trong cùng một cột có chữ theo sau giống nhau thì không khác biệt nhau qua thống kê ở mức ý nghĩa 5% và kiểm định Duncan. Số liệu các trung bình được chuyển đổi sang log(x+10) trước khi phân tích thống kê. Trong thí nghiệm này có NT A-6 với KLSP 0,3 mg/bẫy chưa tinh khiết hợp chất Z3-12:E2, đưa vào để so sánh với sản phẩm đã tinh khiết ở cùng khối lượng, làm cơ sở đánh giá sơ bộ độ tinh khiết của pheromone tổng hợp thông qua hiệu lực hấp dẫn sùng đực vào bẫy. Theo giả thuyết nếu hiệu lực hấp dẫn sùng đực vào bẫy tương đương nhau thì độ tinh khiết của 2 sản phẩm này cũng giống nhau, như vậy sản phẩm tổng hợp không cần thêm công đoạn tinh khiết sẽ tiết kiệm chi phí và thời gian. Qua thử nghiệm thăm dò có thể chọn KLSP 0,3 mg/bẫy (chưa tinh khiết) là phù hợp với thí nghiệm này, do ở khối lượng thấp thì hiệu lực hấp dẫn sùng đực vào bẫy sẽ thể hiện sự khác biệt rõ hơn so với khối lượng cao. Kết quả ở Bảng 4.8 cho thấy (a) nghiệm thức A-2 và A-6 cùng khối lượng SP 0,3 mg/bẫy cho hiệu quả hấp dẫn sùng đực tương đương nhau (21,7 và 22 con/bẫy/tuần) và cùng khác biệt so với đối chứng ở mức ý nghĩa 5%; (b) nếu sử dụng khối lượng SP tinh khiết thấp (từ 0,1-0,5 mg/bẫy) và chưa tinh 88 khiết (0,3 mg/bẫy) cho hiệu lực hấp dẫn sùng đực tương đương nhau, điều này cho thấy hợp chất Z3-12:E2 tổng hợp có độ tinh khiết cao; (c) khối lượng SP/bẫy cao có số lượng sùng đực vào bẫy cao so với bẫy có khối lượng SP/bẫy thấp, tuy nhiên chưa có khác biệt rõ rệt giữa các khối lượng SP/bẫy khác nhau. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả thẩm định cấu trúc pheromone tổng hợp tại phòng thí nghiệm Sinh thái hóa chất, Bộ môn Khoa học sinh học ứng dụng, Khoa Nông Nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp và Công nghệ Tokyo, Nhật Bản với độ tinh khiết sản phẩm được kiểm tra bằng Sắc ký khí khối phổ (GC-MS) đạt trên 99%, như vậy quy trình tổng hợp này đã tổng hợp được hợp chất Z3-12:E2 pheromone giới tính có độ tinh khiết rất cao, không có lẫn tạp chất trong sản phẩm. Vì vậy, sản phẩm tổng hợp không cần phải thêm công đoạn tinh khiết nữa, nếu như bỏ qua được công đoạn tinh khiết sản phẩm sẽ rút ngắn thời gian tổng hợp và giảm bớt lượng hóa chất sử dụng trong quá trình tổng hợp pheromone giới tính của SKL, góp phần làm giảm giá thành sản xuất mồi pheromone. Bước đầu đã đánh giá hiệu lực hấp dẫn và tìm ra KLSP/bẫy phù hợp, các nghiên cứu tiếp theo nhằm tìm ra điều kiện thích hợp cho việc áp dụng mồi pheromone giới tính tổng hợp của SKL ở ngoài đồng đã được thực hiện, kết quả khảo sát đạt được như sau. b) Khảo sát ảnh hưởng của kiểu tuýp mồi lên hiệu quả hấp dẫn của pheromone giới tính đối với sùng khoai lang ở ngoài đồng Kết quả trình bày ở Bảng 4.9 với cùng KLSP là 0,3 mg/tuýp cao su (mồi) cho thấy cả 2 kiểu tuýp mồi ở NT B-1 và B-2 đều cho hiệu quả hấp dẫn sùng đực tương đương nhau và khác biệt so với đối chứng (ĐC: bẫy không) ở mức ý nghĩa 5%. Đặc biệt, ở tuần 3 và 4 cho thấy NT B-2 (kiểu tuýp mồi Việt Nam: ống cao su non) có khác biệt so với B-3 (bẫy không), nhưng NT B-1 (kiểu tuýp mồi Aldrich, Đức) lại không khác biệt so với NT B-3 ở mức ý nghĩa 5%. Như vậy, chứng tỏ kiểu tuýp mồi Việt Nam (ống cao su non) là vật liệu nền có tác dụng kìm giử và phóng thích pheromone giới tính tổng hợp cho hiệu quả hấp dẫn sùng đực cao và không làm ảnh hưởng đến chất lượng của pheromone giới tính khi được khảo sát ngoài đồng. Việc áp dụng hóa chất tín hiệu (pheromone) để quản lý côn trùng gây hại thường gặp trở ngại quan trọng, nhất là đối với các nước đang phát triển nơi mà nông sản có giá trị thấp, chi phí áp dụng cao. Trong đó, tuýp mồi chiếm tỉ lệ chí phí đáng kể. Năm 2010, 1 tuýp cao su Aldrich, Đức có giá ở thời điểm hiện tại khoảng 15.000 đồng/túyp. Việc tìm ra kiểu tuýp mồi được sản xuất ở 89 Việt Nam (khoảng 50 đồng/ống cao su non) để thay thế cho kiểu tuýp mồi Aldrich, Đức là tín hiện rất tốt, đã mở ra triển vọng lớn cho việc áp dụng hóa chất tín hiệu để quản lý các loài côn trùng gây hại ở Việt Nam. Bởi vì, cùng khối lượng pheromone/tuýp mồi như nhau, giá thành tuýp mồi phụ thuộc vào vật liệu làm tuýp mồi. Nếu chọn vật liệu rẽ tiền có sẳn phù hợp sẽ làm giảm giá thành tuýp mồi một cách đáng kể và có hiệu quả kinh tế. Bảng 4.9: Ảnh hưởng của kiểu tuýp mồi lên hiệu lực hấp dẫn của pheromone giới tính tổng hợp đối với sùng khoai lang ở điều kiện ngoài đồng, năm 2010 Nghiệm thức Kiểu tuýp mồi Số lượng sùng đực vào bẫy (con/bẫy/tuần) Tuần 1 Tuần 2 Tuần 3 Tuần 4 Trung bình B-1 Aldrich, Đức 157,0a 119,7 a 76,33ab 90,67ab 109,0a B-2 Việt Nam 148,3a 149,3a 124,3a 141,0a 146,5a B-3 ĐC (bẫy không) 0,0b 0,0b 0,0b 0,0b 0,0b CV(%) 40,45 68,95 68,94 84,43 52,90 Mức ý nghĩa * * * * * Các số trong cùng một cột có cùng chữ theo sau giống nhau thì không khác biệt nhau qua thống kê ở mức ý nghĩa 5% và kiểm định Duncan. (ĐC: đối chứng). Số liệu các trung bình được chuyển đổi sang log(x+10) trước khi phân tích thống kê. Về chất liệu tuýp cao su (mồi) qua quan sát cảm quan nhận thấy tuýp mồi Aldrich, Đức có kích thước lớn, có nhiều màu sắc, cao su dẽo và dầy hơn, sau thời gian sử dụng 2 tháng còn nguyên hình dạng, hình trụ tròn rỗng bên trong, đầu lớn, đầu nhỏ, giá thành cao, số lượng 1 kg vật liệu ít. Ngược lại, tuýp mồi Việt Nam có kích thước nhỏ, chỉ có màu vàng, cao su dẽo và mõng hơn rất nhiều, là ống cao su non (dùng ghép cà chua) sau 2 tháng sử dụng có thể tự phân hủy, hình ống dài 2 cm, rỗng ở giữa, giá thành rẽ, số lượng 1 kg vật liệu rất lớn. Sau khi xác định được kiểu tuýp mồi phù hợp, nghiên cứu tiếp theo sẽ tìm ra kiểu bẫy cho hiệu quả hấp dẫn cao phù hợp với điều kiện ngoài đồng. c) Khảo sát ảnh hưởng của kiểu bẫy lên khả năng hấp dẫn của pheromone giới tính tổng hợp đối với sùng khoai lang ở ngoài đồng Kết quả trình bày ở Bảng 4.10 cho thấy số lượng sùng đực vào bẫy ở 2 nghiệm thức C-1 (bẫy nước+0,3 mg Z3-12:E2/tuýp) và nghiệm thức C-3 (bẫy dính+0,3 mg Z3-12:E2/tuýp) là tương đương nhau và cao hơn có ý nghĩa so với 2 nghiệm thức C-2 và C-4 (đối chứng, n-Hexane). Kết quả này cho thấy hiệu quả bắt được sùng đực của bẫy nước (109 con/bẫy/tuần) và bẫy dính (68 con/bẫy/tuần) là tương đương nhau, không khác biệt ý nghĩa. Tuy nhiên, số 90 lượng sùng đực vào bẫy trên thực tế ở bẫy nước cao gấp 1,6 lần so với bẫy dính. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Smit et al. (1997) bẫy nước dạng chai tròn cao cho hiệu quả hấp dẫn cao nhất so với các loại bẫy khác như bẫy thùng, bẫy can dầu, bẫy sô và bẫy dính trên 2 đối tượng SKL là loài Cylas puncticollis và C. brunneus ở Uganda. Bảng 4.10: Hiệu quả của kiểu bẫy lên khả năng hấp dẫn của pheromone giới tính đối với thành trùng SKL trên ruộng khoai lang tại huyện Bình Tân, năm 2010 Nghiệm thức Thành phần mồi pheromone Dạng kiểu bẫy Số lượng sùng đực (con/bẫy/tu
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_pheromone_gioi_tinh_va_nam_ky_sinh_trong.pdf
Thongtinluanan_En.doc
Thongtinluanan_Vi.doc
Tomtatluanan_En.pdf
Tomtatluanan_Vi.pdf