Luận án Nghiên cứu phương pháp quan trắc sinh học trong đánh giá chất lượng nước trên tuyến sông hậu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn

Luận án Nghiên cứu phương pháp quan trắc sinh học trong đánh giá chất lượng nước trên tuyến sông hậu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu phương pháp quan trắc sinh học trong đánh giá chất lượng nước trên tuyến sông hậu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu phương pháp quan trắc sinh học trong đánh giá chất lượng nước trên tuyến sông hậu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu phương pháp quan trắc sinh học trong đánh giá chất lượng nước trên tuyến sông hậu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu phương pháp quan trắc sinh học trong đánh giá chất lượng nước trên tuyến sông hậu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu phương pháp quan trắc sinh học trong đánh giá chất lượng nước trên tuyến sông hậu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu phương pháp quan trắc sinh học trong đánh giá chất lượng nước trên tuyến sông hậu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu phương pháp quan trắc sinh học trong đánh giá chất lượng nước trên tuyến sông hậu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu phương pháp quan trắc sinh học trong đánh giá chất lượng nước trên tuyến sông hậu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu phương pháp quan trắc sinh học trong đánh giá chất lượng nước trên tuyến sông hậu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 198 trang nguyenduy 09/10/2025 100
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu phương pháp quan trắc sinh học trong đánh giá chất lượng nước trên tuyến sông hậu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu phương pháp quan trắc sinh học trong đánh giá chất lượng nước trên tuyến sông hậu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn

Luận án Nghiên cứu phương pháp quan trắc sinh học trong đánh giá chất lượng nước trên tuyến sông hậu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn
p<0,05) bằng kiểm định 
Tukey HSD. 
4.1.2.6 Tổng đạm (TN) 
Hàm lượng TN tại các vị trí thu mẫu có sự chênh lệch tương đối cao và 
biến động trong khoảng 0,31-2,57 mg/L, trung bình 1,17±0,6 mg/L. Giá trị TN 
ở các khu vực khảo sát vào mùa khô cao hơn mùa mưa ở cả sông chính và 
sông nhánh. Trên sông chính, TN ghi nhận cao nhất vào đợt 4 và khác biệt 
(p0,05) so với đợt 3. 
Trong cùng một đợt thu mẫu thì TN giữa vùng đầu nguồn, giữa nguồn và cuối 
nguồn khác biệt không đáng kể (p>0,05) lớn (Bảng 4.19). Trên sông nhánh, 
biến động hàm lượng TN ghi nhận được tương tự như trên sông chính, nghĩa 
là TN đạt cao nhất vào đợt 4 ở tất cả các nhóm thủy vực, trong đó nhóm thủy 
76 
vực bị ảnh hưởng trực tiếp bởi nước thải thủy sản có TN đạt cao nhất. Tuy 
nhiên, trong cùng một đợt khảo sát thì TN giữa các nhóm thủy vực khác biệt 
không có ý nghĩa (p>0,05) (Bảng 4.20). Theo Boyd and Green (2002) để hạn 
chế tối đa khả năng gây phú dưỡng nguồn nước thì TN không được vượt quá 3 
mg/L. Khi TN cao hơn 1,7 mg/L thì khả năng gây phú dưỡng nguồn nước rất 
cao (Ongley, 2009). Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết các điểm thu mẫu trong 
mùa mưa có TN thấp, ngoại trừ các điểm Cái Sao và Nông trường Sông Hậu 
vào đầu mùa mưa (tháng 06/2013). Vào giữa mùa khô (tháng 03/2014) tỷ lệ 
các điểm thu mẫu có TN cao hơn 1,7 mg/L chiếm 22%, đặc biệt xuất hiện ở 
các điểm thu chịu ảnh hưởng bởi sản xuất nông nghiệp và thủy sản trên sông 
nhánh. Khi hàm lượng TN trong nước cao sẽ thuận lợi cho sự phát triển của 
Gastropoda, Malacostraca và Insecta, cụ thể ở một số điểm thu có hàm lượng 
TN cao như rạch cái Sao 2 (2,19 mg/L), kênh cây Dương (2,37 mg/L) vào đợt 
3 thì mật độ động vật đáy ghi nhận được khá cao (1.017-1.927 ct/m2). 
Bảng 4.19: Hàm lượng TN (mg/L) tại các khu vực thu mẫu trên sông chính 
Đợt 
Đầu nguồn 
(n=5) 
Giữa nguồn 
(n=5) 
Cuối nguồn 
(n=4) 
1 0,93±0,41a;xy 0,63±0,21a;x 0,83±0,16a;x 
2 0,84±0,27a;x 1,03±0,35a;xy 1,07±0,19a;x 
3 1,21±0,32a;xy 0,94±0,41a;xy 1,00±0,36a;x 
4 1,50±0,26a’y 1,27±0,33a;y 1,09±0,18a;x 
Ghi chú: Số liệu trình bày trong bảng là số TB±ĐLC. Các giá trị trung bình có ký tự mũ a, b, c hoặc 
x, y, z khác nhau trong cùng một hàng/cột thì khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) bằng kiểm định Tukey 
HSD. 
Bảng 4.20: Hàm lượng TN (mg/L) tại các nhóm thủy vực trên sông nhánh 
Đợt 
Nhóm TV1 
(n=3) 
Nhóm TV2 
(n=3) 
Nhóm TV3 
(n=3) 
Nhóm TV4 
(n=13) 
1 1,48±0,88
a;x 0,94±0,69a;x 1,28±0,47a;x 0,95±0,30a;x 
2 1,13±0,25a;x 1,11±0,39a;x 1,04±0,61a;x 1,11±0,35a;x 
3 1,30±0,32
a;x 1,65±0,91a;x 1,59±0,55a;x 1,36±0,44a;x 
4 1,54±0,43
a;x 1,83±0,53a;x 1,83±0,30a;x 1,27±0,51a;x 
Ghi chú: Số liệu trình bày trong bảng là số TB±ĐLC. Các giá trị trung bình có ký tự mũ a, b, c hoặc 
x, y, z khác nhau trong cùng một hàng/cột thì khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) bằng kiểm định Tukey 
HSD. 
4.1.2.7 Tổng lân (TP) 
Hàm lượng TP ở các điểm khảo sát qua 4 đợt thu mẫu có sự chênh lệch 
tương đối lớn và dao động 0,01-1,12 mg/L, trung bình 0,29±0,25 mg/L. TP ở 
sông nhánh cao hơn sông chính nhưng khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) 
qua các giai đoạn khảo sát. Trên sông chính, TP ở đợt 4 đạt cao nhất 
(0,56±0,29 mg/L) và khác biệt (p<0,05) so với các đợt khác. Trong cùng một 
khu vực thu mẫu, TP ở vùng đầu nguồn khác biệt không đáng kể (p>0,05) qua 
77 
các giai đoạn thu mẫu, trong khi đó vùng giữa nguồn và cuối nguồn có TP ở 
đợt 4 đạt cao nhất và khác biệt (p<0,05) so với các đợt khác (Bảng 4.21). Trên 
sông nhánh, TP trong cùng 1 đợt thu mẫu khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) 
giữa các nhóm thủy vực khảo sát. Nhóm thủy vực bị ảnh hưởng bởi nước thải 
nông nghiệp và sinh hoạt có TP ở đợt 4 cao hơn và khác biệt (p<0,05) so với 
các đợt còn lại, tuy nhiên đối với nhóm thủy vực ảnh hưởng trực tiếp hoặc 
gián tiếp bởi hoạt động nuôi trồng thủy sản thì TP khác biệt không đáng kể 
(p>0,05) giữa các đợt thu mẫu (Bảng 4.22). Nhìn chung, TP thấp vào mùa 
mưa và cao vào mùa khô và trên sông nhánh cao hơn trên sông chính. Quá 
trình bón phân trong canh tác lúa có thể làm ảnh hưởng trực tiếp đến TP trên 
sông nhánh. Tại các điểm thu thuộc khu vực nuôi trồng thủy sản trên sông 
nhánh cũng có TP đạt khá cao do thường xuyên tiếp nhận lượng lớn chất thải 
của cá nên có TP đạt khá cao vào mùa khô. Vũ Ngọc Út và ctv. (2013) cũng 
cho thấy TP trên sông Cổ Chiên thuộc sông Tiền đạt giá trị cao vào giai đoạn 
mùa khô và dao động từ 0,108-4,873 mg/L. Theo Boyd and Green (2002) nếu 
TP>0,1 mg/L thì khả năng phú dưỡng rất dễ xảy ra. Nghiên cứu hiện tại cho 
thấy 134 trường hợp khảo sát (93%) có TP>0,1 mg/L thể hiện môi trường 
nước có mức độ dinh dưỡng cao. Qua đó cho thấy TP trong nước ở các điểm 
thu mẫu trong nghiên cứu này tương đối cao và trên sông nhánh cao hơn sông 
chính. Khi môi trường nước có hàm lượng TP tăng cao thì mật độ động vật 
đáy của các nhóm thủy vực cũng tăng cao, đặc biệt vào giai đoạn mùa khô. 
Bảng 4.21: Hàm lượng TP (mg/L) tại các khu vực thu mẫu trên sông chính 
Đợt 
Đầu nguồn 
(n=5) 
Giữa nguồn 
(n=5) 
Cuối nguồn 
(n=4) 
1 0,25±0,20a;x 0,16±0,06a;x 0,12±0,04a;x 
2 0,24±0,04a;x 0,21±0,07a;x 0,18±0,06a;x 
3 0,19±0,10a;x 0,12±0,06a;x 0,13±0,07a;x 
4 0,54±0,41a;x 0,55±0,25a;y 0,60±0,21a;y 
Ghi chú: Số liệu trình bày trong bảng là số TB±ĐLC. Các giá trị trung bình có ký tự mũ a, b, c hoặc 
x, y, z khác nhau trong cùng một hàng/cột thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) bằng kiểm định 
Tukey HSD. 
Bảng 4.22: Hàm lượng TP (mg/L) của các nhóm thủy vực trên sông nhánh 
Đợt 
Nhóm TV1 
(n=3) 
Nhóm TV2 
(n=3) 
Nhóm TV3 
(n=3) 
Nhóm TV4 
(n=13) 
1 0,17±0,08
a;x 0,18±0,13a;x 0,18±0,07a;x 0,16±0,04a;x 
2 0,33±0,17a;x 0,26±0,05a;x 0,21±0,02a;x 0,23±0,09a;x 
3 0,22±0,07
a;x 0,22±0,21a;x 0,20±0,10a;x 0,14±0,09a;x 
4 0,76±0,25
a;y 0,65±0,43a;x 0,57±0,46a;x 0,59±0,31a;y 
Ghi chú: Số liệu trình bày trong bảng là số TB±ĐLC. Các giá trị trung bình có ký tự mũ a, b, c hoặc 
x, y, z khác nhau trong cùng một hàng/cột thì khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) bằng kiểm định Tukey 
HSD. 
78 
4.1.3 Hàm lượng vật chất hữu cơ (TOM) trên nền đáy thủy vực 
Tỉ lệ phần trăm (%) vật chất hữu cơ trên nền đáy thủy vực (TOM) qua 
các giai đoạn khảo sát khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) giữa sông chính và 
sông nhánh. Biến động TOM giữa các điểm thu mẫu từ 2,4-10,0%, trung bình 
5,7±1,4 %. TOM trung bình trên sông chính và sông nhánh lần lượt 5,5±1,5% 
và 5,8±1,4%, thấp hơn so với nghiên cứu của Vũ Ngọc Út và ctv. (2013) ở 
khu vực cồn Phú Đa, huyện chơ Lách, tỉnh Bến Tre thuộc khu vực sông Tiền, 
TOM trung bình 6,8±2,2%. 
Bảng 4.23: Hàm lượng TOM (%) tại các khu vực thu mẫu trên sông chính 
Đợt 
Đầu nguồn 
(n=5) 
Giữa nguồn 
(n=5) 
Cuối nguồn 
(n=4) 
1 4,8±1,0a;x 4,9±1,7a;x 5,6±1,3a;x 
2 5,6±1,8a;x 5,1±1,6a;x 7,0±1,9a;x 
3 5,2±1,2a;x 6,3±1,2a;x 5,8±0,6a;x 
4 4,7±1,9a;x 6,0±1,5a;x 5,8±1,4a;x 
Ghi chú: Số liệu trình bày trong bảng là số TB±ĐLC. Các giá trị trung bình có ký tự mũ a, b, c hoặc 
x, y, z khác nhau trong cùng một hàng/cột thì khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) bằng kiểm định Tukey 
HSD. 
Bảng 4.24: Hàm lượng TOM (%) của các nhóm thủy vực trên sông nhánh 
Đợt 
Nhóm TV 1 
(n=3) 
Nhóm TV 2 
(n=3) 
Nhóm TV 3 
(n=3) 
Nhóm TV 4 
(n=13) 
1 6,9±0,9
a;x 5,6±1,0a;x 6,5±1,2a;x 5,2±1,0a;x 
2 6,2±3,4a;x 6,2±0,8a;x 6,8±0,6a;x 5,1±1,2a;x 
3 6,9±2,2
a;x 5,6±2,4a;x 6,0±1,7a;x 5,7±0,7a;x 
4 7,3±2,6
a;x 6,2±0,5a;x 6,9±1,2a;x 5,3±1,4a;x 
Ghi chú: Số liệu trình bày trong bảng là số TB±ĐLC. Các giá trị trung bình có ký tự mũ a, b, c hoặc 
x, y, z khác nhau trong cùng một hàng/cột thì khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) bằng kiểm định Tukey 
HSD. 
Trên sông nhánh, nhóm TV1 có TOM cao hơn so với các nhóm thủy vực 
khác vào đợt 1, đợt 3 và đợt 4, trong khi đó nhóm TV3 có TOM cao hơn các 
nhóm thủy vực khác vào đợt 2. Nguyên nhân là do nhóm TV1 và nhóm TV3 
bị tác động bởi nguồn nước thải từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp và 
thủy sản, môi trường nhiều vật chất hữu cơ lắng tụ dưới nền đáy thủy vực làm 
cho hàm lượng TOM đạt cao hơn so với các nhóm TV khác. TOM trên sông 
nhánh có xu hướng cao hơn sông chính qua các đợt khảo sát, tuy nhiên sự 
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Trong cùng một đợt khảo 
sát, TOM khác biệt không đáng kể (p>0,05) giữa các nhóm thủy vực kể cả trên 
sông chính và sông nhánh (Bảng 4.23 và Bảng 4.24). Vào mùa khô TOM có 
xu hướng cao hơn mùa mưa nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê 
79 
(p>0,05). Hàm lượng vật chất hữu cơ trên nền đáy thủy vực có ảnh hưởng đến 
sự phát triển của động vật đáy, theo Culp et al. (1983) ở thủy vực nước chảy 
khi nền đáy có vật chất hữu cơ thì sự gia tăng hàm lượng vật chất hữu cơ có 
mối tương quan thuận với thành phần ĐVKXSCL. Ngoài ra, khi nền đáy có 
hàm lượng mùn bã hữu cơ bị giới hạn thì ĐVKXSCL sẽ sử dụng các mảnh 
vụn hữu cơ làm thức ăn (Rowe and Richardson, 2001). 
4.1.4 Biến động một số yếu tố chất lượng nước trên sông Hậu theo 
mùa 
Tổng cộng có 12 biến các yếu tố môi trường nước được đưa vào phân 
tích nhân tố bằng phương pháp xác định thành phần cơ bản (Principal 
Component Analysis, PCA). Kết quả cho thấy qui luật biến động của các 
thông số chất lượng nước trên sông Hậu qua các giai đoạn khảo sát. Các điểm 
thu của các yếu tố môi trường nước được sắp xếp theo thứ tự từ các điểm thu 
trên sông chính (14 điểm) đến các điểm thu trên sông nhánh (22 điểm) và sắp 
xếp lần lượt từ đợt 1 đến đợt 4 (Bảng 4.27). Giá trị KMO=0,654 (Kaiser-
Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy) trong phân tích cho thấy mức 
độ phù hợp của quá trình thiết lập các nhân tố dựa trên số các biến và số quan 
sát (n=144). Với 12 biến môi trường nước được tổ hợp thành 4 nhân tố giải 
thích được 63,31% tổng phương sai của số liệu (Bảng 4.25). 
Bảng 4.25: Tổng phương sai được giải thích bởi các hợp phần nhân tố 
Hợp phần 
Phương sai được xác định 
Phương sai được xác định sau khi 
xoay trục tọa độ 
Tổng 
% phương 
sai % tích lũy Tổng 
% phương 
sai % tích lũy 
1 2,74 22,80 22,80 2,05 17,10 17,10 
2 2,19 18,27 41,07 2,01 16,74 33,83 
3 1,35 11,25 52,32 1,97 16,40 50,23 
4 1,32 10,99 63,31 1,57 13,07 63,31 
Nhân tố 1 (NT1) giải thích 17,1% sự biến động của số liệu thu được 
(tổng phương sai, Bảng 4.25). NT1 bị tác động rất mạnh bởi biến có hệ số 
tham gia “dương, +” của độ đục (0,91) và TSS (0,92) (Bảng 4.26), nhân tố 1 
có thể được xem là nhân tố “hàm lượng vật chất lơ lửng trong nước” trong đó 
các giá trị ước lượng của NT1 (factor scores) có giá trị âm chứng tỏ rằng độ 
đục và TSS tại các vị trí thu mẫu tương ứng có giá trị thấp, ngược lại giá trị 
của NT1 có giá trị dương thì độ đục và TSS tại các vị trí thu mẫu tương ứng sẽ 
đạt giá trị cao hơn. Kết quả này cũng thể hiện hàm lượng TSS và độ đục ở đợt 
2 (Tháng 9/2013, giai đoạn mùa mưa) (các mẫu thu từ 37-72) cao hơn so với 
các đợt khác (Hình 4.2). Bên cạnh đó, thông qua hợp phần này cũng cho thấy 
độ đục và TSS cùng mối tham gia đồng biến (cùng dấu) với NT1. 
80 
Bảng 4.26: Ma trận xoay các hệ số tham gia của các biến thủy hóa vào các hợp 
phần cơ bản 
Các hợp phần nhân tố (NT) 
NT1 NT2 NT3 NT4 
Nhiệt độ 0,67 
pH 0,57 
Độ đục 0,91 
TSS 0,92 
DO -0,75 
N-NO3
- 0,62 
TAN 0,76 
TN 0,62 
P-PO4
3- 0,80 
TP 0,62 0,60 
COD 0,63 
TOM 0,62 
Phương pháp xác định: hợp phần cơ bản (PCA) Xoay ma trận Varimax – Kaiser. Các hệ số có giá 
trị < 0,5 không được thể hiện. 
Nhân tố 2 (NT2) giải thích được 16,74% tổng phương sai (Bảng 4.25), 
NT2 có sự tham gia mạnh (hệ số dương, +) của các biến pH (0,57), N-NO3- 
(0,62), TN (0,62), TP (0,62) và COD (0,63) (Bảng 4.26). NT2 có thể gọi là 
nhân tố “hàm lượng dinh dưỡng và vật chất hữu cơ trong nước” và được sự 
tham gia đồng biến của các yếu tố này. Kết quả từ Hình 4.3 cho thấy vào mùa 
mưa (Đợt 1 và đợt 2 tương ứng với các vị trí từ 1 đến 72) các giá trị ước lượng 
của NT2 phần lớn nhỏ hơn 0; vào mùa khô (đợt 3 và đợt 4, tương ứng với các 
điểm thu từ 73 đến 144) phần lớn các giá trị ước lượng của NT2 lớn hơn 0; 
quy luật này thể hiện hàm lượng dinh dưỡng và vật chất hữu cơ trong nước 
biến động và có giá trị thấp vào mùa mưa và cao vào mùa khô. 
Nhân tố 3 (NT3) giải thích 16,40% tổng phương sai (Bảng 4.25), chịu tác 
động mạnh của các hàm lượng DO (-0,75) và các TAN (0,76) và TOM (0,62) 
(Bảng 4.26). NT 3 được gọi là nhân tố “đạm ammonium và chất hữu cơ trên 
nền đáy thủy vực”. Kết quả cho thấy DO có sự tham gia nghịch biến với TAN 
và TOM trong nhân tố này (có nghĩa là khi giá trị DO cao, thì các giá trị TAN 
và TOM thấp). Hình 4.4 cho thấy sự biến động của hàm lượng DO, TAN và 
TOM tại các khu vực thu mẫu không theo qui luật rõ ràng. Các điểm thu có 
giá trị ước lượng NT30 
thì DO thấp. Các điểm thu có giá trị ước lượng NT3<0 thì hàm lượng TAN và 
TOM đạt giá trị thấp và ngược lại. 
81 
Bảng 4.27: Vị trí các điểm thu mẫu (số quan sát) trong phân tích PCA được 
thể hiện trong Hình 4.2, Hình 4.3, Hình 4.4 và Hình 4.5 
 Sông chính Sông nhánh 
 Đợt 
Đầu 
nguồn Giữa nguồn Cuối nguồn 
Nhóm 
TV1 
Nhóm 
TV2 Nhóm TV3 Nhóm TV4 
 1 
1, 2, 3, 4, 
5 6, 7, 8, 9, 10 
11, 12, 13, 
14 
15, 
16, 17 
18, 
19, 20 21, 22, 23 
24, 25, 26, 27, 28, 29, 
30, 31, 32, 33, 34, 35, 
36 
2 
37, 38, 
39, 40, 
41 
42, 43, 44, 
45, 46 
47, 48, 49, 
50 
51, 
52, 53 
54, 
55, 56 57, 58, 59 
60, 61, 62, 63, 64, 65, 
66, 67, 68, 69, 70, 71, 
72 
3 
73, 74, 
75, 76, 
77 
78, 79, 80, 
81, 82 
83, 84, 85, 
86 
87, 
88, 89 
90, 
91, 92 93, 94, 95 
96, 97, 98, 99, 100, 
101, 102, 103, 104, 105, 106, 
107, 108 
4 
109, 110, 
111, 112, 
113 
114, 115, 
116, 117, 
118 
119, 120, 
121, 122 
123, 
124, 
125 
126, 
127, 
128 129, 130, 131 
132, 133, 134, 135, 
136, 137, 138, 139, 
140, 141, 142, 143, 144 
Hình 4.2: Giá trị ước lượng của NT1-Hàm lượng vật chất lơ lửng trong nước 
Hình 4.3: Giá trị ước lượng của NT2-Hàm lượng dinh dưỡng và vật chất hữu cơ 
82 
Hình 4.4: Giá trị ước lượng của NT3-Đạm ammonium và chất hữu cơ trên nền 
đáy thủy vực 
Hình 4.5: Giá trị ước lượng của NT 4-Lân trong nước 
Nhân tố 4 giải thích 13,07% tổng phương sai (Bảng 4.25), NT4 có sự 
tham gia của nhiệt độ (0,67), P-PO43- (0,80) và TP (0,60) (Bảng 4.26), gọi 
chung là nhân tố “lân trong nước”. Sự tham gia của biến nhiệt độ, P-PO43- và 
TP là đồng biến trong NT4. Biến động hàm lượng lân trong nước vào đợt 1 và 
đợt 2 không theo qui luật rõ ràng, tuy nhiên vào đợt 3 (tháng 12/2013) tương 
ứng với các điểm thu từ 71 đến 110 phần lớn các giá trị ước lượng của NT4<0 
cho thấy các vị trí thu mẫu có hàm lượng lân trong nước đạt giá trị thấp. Các 
điểm thu có các giá trị ước lượng > 0 tập trung ở hầu hết các điểm thu vào đợt 
4 (tháng 03/2014) cho thấy hàm lượng lân trong nước đạt giá trị cao vào giai 
đoạn mùa khô (Hình 4.5). 
83 
4.1.5 Đánh giá chất lượng nước trên sông Hậu bằng chỉ số WQI 
4.1.5.1 Chỉ số WQIhi 
Dựa vào 4 thông số môi trường nước: DO, N-NH4+, COD và TP để tính 
toán chỉ số WQIhi. Khi 10≥WQIhi≥ 9,5 thì chất lượng nước không bị tác động; 
9,5≥WQIhi ≥ 8,5 chất lượng nước bị tác động nhẹ; 8,5≥WQIhi ≥7 chất lượng 
nước bị tác động ở mức trung bình và WQIhi <7 thì chất lượng nước bị tác 
động mạnh. Với kết quả ghi nhận được ở tất cả các khu vực khảo sát trong 
nghiên cứu này đều có WQIhi nhỏ hơn 7, ngoại trừ điểm thu ở Cái Côn trên 
sông chính có WQIhi = 10, điều này chứng tỏ chất lượng nước trên sông chính 
và sông nhánh thuộc tuyến sông Hậu bị tác động mạnh mẽ bởi các hoạt động 
của con người như nuôi cá trong ao đất và cá bè trên sông, hoạt động sản xuất 
nông nghiệp, công nghiệp cũng như nước thải sinh hoạt. Kết quả này cũng phù 
hợp với kết quả của MRC (2008) trong giai đoạn khảo sát từ 2000-2008, tất cả 
các vị trí khảo sát ở sông chính và sông nhánh của sông Mê Kông từ Phnom 
Penh, Campuchia đến Việt Nam đều bị tác động bởi các hoạt động của con 
người, trong đó các vị trí trên sông nhánh bị tác động mạnh hơn sông chính do 
sự gia tăng mật độ dân cư sinh sống ở hai bên bờ sông và sự trao đổi nước với 
sông lớn dưới tác động của thủy triều bị hạn chế. 
4.1.5.2 Chỉ số WQI 
Theo Kannel et al. (2007) chỉ số WQI có thể đươc sử dụng rộng rãi ở 
một số quốc gia đang phát triển để đánh giá chất lượng nước với nhiều thông 
số chất lượng nước khác nhau, trong đó Liu et al. (2012) đã ứng dụng chỉ số 
WQI để đánh giá chất lượng nước trên sông Dongjiang, Trung Quốc dựa vào 7 
thông số: Nhiệt độ, pH, DO, N-NH4+, N-NO2-, N-NO3- và COD với phân mức 
từ ô nhiễm nặng (0-25), ô nhiễm trung bình (26-50), ô nhiễm nhẹ (51-70), sạch 
(71-90) và rất sạch (91-100). Chỉ số WQI càng thấp thì môi trường nước càng 
bị ô nhiễm. Kết quả trong nghiên cứu này cho thấy chỉ số WQI có sự biến 
động tương đối lớn giữa các vị trí thu mẫu và dao động từ 17,3-61,4 tương 
ứng với chất lượng nước từ ô nhiễm nhẹ đến ô nhiễm nặng. Trên sông chính, 
chỉ số WQI trung bình khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) giữa khu vực đầu 
nguồn, giữa nguồn và cuối nguồn qua các giai đoạn khảo sát. Chỉ số WQI có 
xu hướng cao vào giai đoạn giữa mùa mưa cho thấy chất lượng nước vào giai 
đọạn mùa mưa tốt hơn giai đoạn mùa khô nhưng khác biệt không đáng kể 
(p>0,05) giữa các đợt thu mẫu ở khu vực giữa nguồn và cuối nguồn, riêng khu 
vực đầu nguồn thì chỉ số WQI ở đợt 3 khác biệt không lớn (p>0,05) so với đợt 
4, nhưng khác biệt (p<0,05) so với đợt 1 và đợt 2 (Hình 4.6). Trên sông nhánh, 
biến động chỉ số WQI tương tự như ở sông chính, chỉ số WQI trung bình ghi 
nhận được lần lượt 39,2±10,0, 40,9±10,2, 35,5±2,6 và 36,3±4,0 tương ứng cho 
84 
đợt 1, đợt 1, đợt 3 và đợt 4, kết quả này cho thấy mức độ ô nhiễm môi trường 
nước vào mùa khô cao hơn mùa mưa. Nếu xét trong cùng một đợt thu mẫu, 
nhóm TV3 có chỉ số WQI thấp hơn các nhóm thủy vực khác ở đợt 1 và đợt 2, 
trong khi đó nhóm TV 1 có chỉ số WQI thấp hơn các nhóm thủy vực khác ở 
đợt 3 và đợt 4, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa (p>0,05) giữa các 
nhóm thủy vực (Hình 4.6). Tóm lại, do nhóm TV1 bị tác động bởi việc bón 
phân trong quá trình canh tác lúa và rau màu và nhóm TV3 bị ảnh hưởng bởi 
nước thải từ việc nuôi cá trong ao đất nên môi trường nước có nhiều dinh 
dưỡng, do đó mức độ ô nhiễm nước của hai nhóm thủy vực này cao hơn so với 
các nhóm thủy vực khác. Mặc dù có sự chênh lệch chỉ số WQI giữa sông 
chính và sông nhánh, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa (p>0,05) 
qua các giai đoạn khảo sát, trong đó chỉ số WQI của các nhóm thủy vực trên 
sông nhánh vào mùa khô luôn thấp hơn các khu vực trên sông chính cho thấy 
mức độ ô nhiễm trên sông nhánh cao hơn sông chính. Ngoài ra, kết quả xử lý 
tương quan (Pearson correlation) cho thấy không có mối tương quan chặt chẽ 
(p>0,05) giữa chỉ số WQI và độ sâu (từ 1,3-3,2 m) tầng nước thu mẫu động 
vật đáy, điều này có nghĩa là chất lượng nước mặt không có sự thay đổi đáng 
kể ở tầng nước thấp hơn 3,2 m. 
. 
-
10
20
30
40
50
60
Đầu nguồn Giữa nguồn Cuối nguồn Nhóm TV 1 Nhóm TV 2 Nhóm TV 3 Nhóm TV 4
Sông chính Sông nhánh
C
h
ỉ 
số
 W
Q
I
Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4
Hình 4.6: Chỉ số chất lượng nước (WQI) trên sông chính và sông nhánh 
4.2 Nội dung 2: Đa dạng thành phần động vật đáy trên sông chính và 
sông nhánh thuộc tuyến sông Hậu 
4.2.1 Tính chất nền đáy 
Tính chất nền đáy không có sự khác biệt đáng kể qua các giai đoạn khảo 
sát ở cả sông chính và sông nhánh. Nền đáy của các điểm thu mẫu có tỉ lệ 
phần trăm bùn đạt cao nhất (56%-68%) qua các giai đọan thu mẫu, kế đến là tỉ 
lệ cát (22-39%), thấp nhất là tỉ lệ sét (4-15%) thể hiện nền đáy của sông chính 
85 
và sông nhánh chủ yếu là bùn mềm nhiều mùn bã hữu cơ (Hình 4.7). Theo 
Ruggiero and Merchant (1979) sự phân bố của động vật đáy có mối tương 
quan chặt chẽ với tính chất nền đáy hơn các thông số chất lượng nước. Trong 
nghiên cứu này, kết quả xử lý tương quan đơn biến (Pearson correlation

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_phuong_phap_quan_trac_sinh_hoc_trong_danh.pdf
  • docThongtinluanan-en.doc
  • docThongtinluanan-vi.doc
  • pdfTomtatluanan-en.pdf
  • pdfTomtatluanan-vi.pdf