Luận án Nghiên cứu quản lý dinh dưỡng theo vùng đặc thù (SSNM) trên cây mía đường (Saccharum officinarum L.) tại vùng đồng bằng sông Cửu Long

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu quản lý dinh dưỡng theo vùng đặc thù (SSNM) trên cây mía đường (Saccharum officinarum L.) tại vùng đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu quản lý dinh dưỡng theo vùng đặc thù (SSNM) trên cây mía đường (Saccharum officinarum L.) tại vùng đồng bằng sông Cửu Long

1,39 c 3,81 b 1,60 b 1,33 1,30 a Phân hữu cơ (B) KBB 2,47 2,15 1,52 x 1,22 1,43 y 4,00 1,69 x 1,37 x 1,15 BBM 2,22 2,44 1,41 y 1,19 1,49 x 3,56 1,54 y 1,26 y 1,17 FA ns ** ** ns ** ns * ns ** FB ns ** * ns ** ** * * ns FAxB ns ns * ns ** ** ** ns * CV (%) 15,0 6,0 6,6 7,4 1,6 5,5 8,0 8,3 5,4 Ghi chú: Trong cùng một cột các số có chữ theo sau giống nhau khác biệt không có ý nghĩa thống kê qua phép thử Duncan, *: khác biệt thống kê ở mức ý nghĩa 5% (p<0,05); **: khác biệt thống kê ở mức ý nghĩa 1% (p<0,01); ns: khác biệt không có ý nghĩa thống kê. FA: các nghiệm thức phân vô cơ; FB: các nghiệm thức bón phân hữu cơ; FAXB: tương tác giữa các nghiệm thức phân vô cơ và bón phân hữu cơ; CV% - độ biến động NPK: bón đầy đủ N, P, K; NP: bón khuyết K; NK: bón khuyết P; PK: bón khuyết N KBB: không bón bã bùn mía; BBM: bón bã bùn mía (10 tấn/ha) Trên đất phèn Long Mỹ, bón khuyết N đưa đến hàm lượng K trong lá cao hơn đáng kể. Bón khuyết K đưa đến hàm lượng K trong lá thấp, nhưng bón khuyết P cho thấy chưa ảnh hưởng rõ lên hàm lượng kali trong lá (Bảng 4.19). Kết quả phân tích cho thấy ở giai đoạn 150 NSKT, hàm lượng kali trong lá dao Luận án tốt nghiệp Tiến sĩ 71 động từ 1,56-1,83% trong các nghiệm thức bón phân theo lô khuyết, cao nhất ở nghiệm thức PK (1,83%) và không khác biệt thống kê với nghiệm thức NPK (1,68%) (Phụ lục C, Bảng C.51). Hàm lượng K trong lá và thân mía ở nghiệm thức NP cho thấy mặc dù có bón N nhưng hàm lượng K trong lá và thân mía vẫn thấp hơn so với các nghiệm thức còn lại. Điều này trái ngược với kết quả nghiên cứu của Wilkinson et al. (2000) cho rằng ảnh hưởng của việc bón N lên hàm lượng K trong cây có liên quan đến mức độ khả năng sinh h c ở vùng r . Nơi thiếu hụt N nghiêm tr ng thường là k m hấp thu K và thiếu hụt K có thể thấy mặc dù khả năng sinh h c của K không hạn chế. Có sự tương tác có nghĩa thống kê giữa nghiệm thức bón phân theo lô khuyết và bón bã bùn mía nghiệm thức tương tác PK+BBM (2,01%) cao nhất và không khác biệt với NPK+KBB (1,82%), cho thấy bón bã bùn không làm tăng hàm lượng kali trong lá vào giai đoạn này. Đến giai đoạn 330 NSKT, nghiệm thức có bón bã bùn đưa đến làm tăng hàm lượng kali trong lá (1,18%) so với nghiệm thức không bón bã bùn (p<0,05). Kết quả Bảng 4.19 c ng cho thấy có sự tương tác giữa giữa nghiệm thức bón phân theo lô khuyết và kết hợp với bón bã bùn mía và không có sự khác biệt nghĩa thống kê giữa nghiệm thức bón và không bón bã bùn mía về hàm lượng kali trong thân vào giai đoạn 150, 210 và 330 NSKT (Phụ lục C, Bảng C.54, C.56 và C.58). Bảng 4.19: Ảnh hưởng của việc bón khuyết dư ng chất N, P, K và kết hợp bón bã bùn mía lên hàm lượng kali trong lá và thân mía trên đất phèn Long Mỹ. Vụ mía 2011-2012. Nghiệm thức Ngày sau khi trồng (NSKT) Hàm lượng kali (%) trong lá mía Hàm lượng kali (%) trong thân mía 40 120 150 210 330 120 150 210 330 Phân vô cơ (A) NPK 2,49 1,64 ab 1,68 ab 1,71 a 1,17 b 1,80 b 1,08 a 1,04 a 0,63 a NP 2,36 1,52 b 1,59 b 1,49 b 0,95 c 1,55 c 0,95 a 0,65 b 0,49 c NK 2,53 1,76 a 1,56 b 1,60 ab 0,97 c 2,17 a 0,76 b 0,95 a 0,59 b PK 2,53 1,74 a 1,83 a 1,65 a 1,44 a 2,16 a 0,91 ab 0,83 ab 0,59 b Phân hữu cơ (B) KBB 2,52 1,68 1,67 1,60 1,07 y 1,98 0,89 0,86 0,58 BBM 2,45 1,65 1,66 1,62 1,18 x 1,86 0,96 0,87 0,57 FA ns * * * ** ** * * ** FB ns ns ns ns ** ns ns ns ns FAxB ns ns * ns ns ns ** * * CV (%) 7,5 7,1 8,6 9,1 2,7 10,0 17,6 22,9 3,8 Ghi chú: Trong cùng một cột các số có chữ theo sau giống nhau khác biệt không có ý nghĩa thống kê qua phép thử Duncan, *: khác biệt thống kê ở mức ý nghĩa 5% (p<0,05); **: khác biệt thống kê ở mức ý nghĩa 1% (p<0,01); ns: khác biệt không có ý nghĩa thống kê. FA: các nghiệm thức phân vô cơ; FB: các nghiệm thức bón phân hữu cơ; FAXB: tương tác giữa các nghiệm thức phân vô cơ và bón phân hữu cơ; CV% - độ biến động NPK: bón đầy đủ N, P, K; NP: bón khuyết K; NK: bón khuyết P; PK: bón khuyết N KBB: không bón bã bùn mía; BBM: bón bã bùn mía (10 tấn/ha) Luận án tốt nghiệp Tiến sĩ 72 b) Sinh khối khô (kg/ha) trong cây mía Kết quả trình bày ở Hình 4.3 (Phụ lục B, Bảng B.3) cho thấy cây mía có đáp ứng với bón phân NPK và bã bùn mía và có xu hướng tích l y sinh khối mía đến giai đoạn thu hoạch (330 NSKT) trên đất phù sa Cù Lao Dung và đất phèn Long Mỹ. a) b) c) d) Hình 4.3: Di n biến sinh khối mía trên đất phù sa Cù Lao Dung: a) Không bón bã bùn, b) Có bón bã bùn và trên đất phèn Long Mỹ: c) Không bón bã bùn, d) Có bón bã bùn. Vụ mía 2011-2012. Cù Lao Dung, sinh khối mía không thể hiện sự khác biệt ở các nghiệm thức bón phân và bón bã bùn mía, giai đoạn đầu đất bị nhi m mặn nên cây mía Luận án tốt nghiệp Tiến sĩ 73 chậm phát triển và chết nhiều. Từ giai đoạn 120-330 NSKT cây mía tích l y sinh khối tăng dần. Bón N cho thấy cây mía tích l y sinh khối đều cao hơn đáng kể so với nghiệm thức bón khuyết N, cao nhất là nghiệm thức bón đầy đủ NPK. Kết hợp bón bã bùn mía đều cho thấy làm tăng sinh khối mía từ giai đoạn 120 đến 210 NSKT. Có sự tương tác có nghĩa thống kê giữa giữa các nghiệm thức bón phân NPK theo lô khuyết có kết hợp bón bã bùn mía ở các giai đoạn này, cho thấy bã bùn góp làm tăng tích l y sinh khối mía. giai đoạn 330 NSKT, bón đầy đủ NPK đưa đến sinh khối mía cao nhất (66,2 t/ha), thấp nhất là nghiệm thức bón khuyết N (34,7 t/ha) và khác biệt với các nghiệm thức NP và NK (p<0,05). Tương tự, ở Long Mỹ, bón phân theo lô khuyết c ng đã ảnh hưởng lên sinh khối mía, tuy nhiên kết hợp với bón bã bùn mía không thể hiện rõ ảnh hưởng lên sinh khối mía vào giai đoạn 150 và 330 NSKT (Phụ lục B, Bảng B.3). Sinh khối mía có xu hướng tăng dần đến giai đoạn thu hoạch (330 NSKT). Bón N đều đưa đến sinh khối mía cao hơn so với nghiệm thức bón khuyết N (Hình 4.3c và 4.3d). giai đoạn 330 NSKT, nghiệm thức bón đầy đủ NPK đưa đến sinh khối mía là 81,4 t/ha trong khi đó thấp nhất ở nghiệm thức PK (51,6 t/ha), khác biệt có nghĩa thống kê với các nghiệm thức NP và NK (p<0,05). Tóm lại, đạm là yếu tố quan tr ng trong tích l y sinh khối cây trồng trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển của cây mía. Cây mía có đáp ứng tốt với bón đạm thể hiện qua tích l y sinh khối cao hơn đáng kể khi so với nghiệm thức bón khuyết N. Bón đầy đủ NPK đưa đến sinh khối mía cao nhất, cho thấy cây mía có nhu cầu NPK cao trên đất trồng mía Cù Lao Dung và Long Mỹ. Kết quả nghiên cứu của Mengel et al. (1976) chứng minh rằng nguyên nhân gia tăng kết quả năng suất chất khô bởi vì nồng độ của N trong mô lá cao hơn thông qua cung cấp nồng độ K+ được duy trì trong sự hiện diện của K+ hữu dụng đầy đủ trong đất-cây trồng liên tục. c) Sự hấp thu N, P, K trong cây mía Nhu cầu đạm của cây mía được dựa trên đáp ứng với phân bón và sự hấp thu đạm đạt được trong vụ trồng mía. Sự hấp thu đạm được tính dựa vào tổng sinh khối khô và hàm lượng đạm của giai đoạn lấy mẫu. * Sự ấ u ạm (N) Kết quả Hình 4.4 và 4.5 (Phụ lục B, Bảng B.4 và B.5) cho thấy sự hấp thu đạm trong lá, thân mía đáp ứng đáng kể với phương pháp bón phân theo lô khuyết từ 40 NSKT đến thời điểm thu hoạch giữa các nghiệm thức NPK, NP, NK và PK trên đất phù sa Cù Lao Dung và đất phèn Long Mỹ. Luận án tốt nghiệp Tiến sĩ 74 a) b) c) d) Hình 4.4: Hấp thu đạm trong lá: a) không bón bã bùn, b) bón bã bùn và trong thân: c) không bón bã bùn, d) bón bã bùn ở Cù Lao Dung-Sóc Trăng. Vụ mía 2011-2012 Cù Lao Dung, các nghiệm thức có bón N (NPK, NP, NK) cho thấy có sự hấp thu đạm trong lá cao hơn nghiệm thức bón khuyết N (PK) và cao nhất ở nghiệm thức bón đầy đủ NPK ở tất cả các giai đoạn (Hình 4.4). Sự hấp thu N trong lá đạt cao nhất vào giai đoạn 120 NSKT, đây là giai đoạn phát triển tích cực của cây mía. giai đoạn này, các nghiệm thức có bón N đều đưa đến hấp thu N trong lá (106-125 kgN/ha) cao hơn so với nghiệm thức bón khuyết N (68 kgN/ha) (p<0,05). Trong khi đó, sự hấp thu đạm đạt cao hơn vào giai đoạn 330 NSKT ở trong thân mía, với nghiệm thức bón đầy đủ NPK (219 kgN/ha) đạt cao nhất và Luận án tốt nghiệp Tiến sĩ 75 thấp nhất là nghiệm thức bón khuyết N (66 kgN/ha). Kết hợp bón bã bùn mía cho thấy có ảnh hưởng làm tăng hấp thu đạm trong lá mía đáng kể ở giai đoạn 210 NSKT với nghiệm thức tương tác NPK+BBM (96,4 kgN/ha) đạt cao nhất và trong thân mía ở giai đoạn 120 NSKT (cao nhất là NPK+KBB với 81,5 kgN/ha), 150 NSKT (cao nhất là NPK+BBM với 160,4 kgN/ha và NP+BBM với 158,7 kgN/ha) và 210 NSKT (cao nhất là NPK+BBM với 266,3 kgN/ha). a) b) c) d) Hình 4.5: Hấp thu đạm trong lá: a) không bón bã bùn, b) bón bã bùn và trong thân: c) không bón bã bùn, d) bón bã bùn ở Long Mỹ-Hậu Giang. Vụ mía 2011-2012 Tương tự, trên đất phèn Long Mỹ, nghiệm thức bón khuyết N (PK) đều có sự hấp thu đạm thấp hơn đáng kể so với các nghiệm thức có bón N (NPK, NP, NK) (Hình 4.5). Sự hấp thu đạm trong lá tăng dần sau giai đoạn 40 NSKT và thấp nhất ở giai đoạn 330 NSKT. Vào giai đoạn 120 NSKT, sự hấp thu lá ở nghiệm thức có bón N đều cao hơn nghiệm thức bón khuyết N (p<0,05), trong đó nghiệm Luận án tốt nghiệp Tiến sĩ 76 thức bón đầy đủ NPK hấp thu đạm trong lá (179 kgN/ha) cao hơn nghiệm thức NK (134 kgN/ha) và không khác biệt với nghiệm thức PK. Bón bã bùn mía có ảnh hưởng làm tăng đáng kể khả năng hấp thu đạm trong lá mía vào giai đoạn 210 NSKT. Kết hợp bón bã bùn mía cho thấy có ảnh hưởng tương tác có nghĩa thống kê lên các nghiệm thức bón phân theo lô khuyết vào giai đoạn này, với nghiệm thức tương tác NPK+BBM đưa đến cây mía hấp thu đạm trong lá cao nhất (219,4 kgN/ha), tuy nhiên không có sự khác biệt về hấp thu đạm trong lá giữa nghiệm thức có bón và không bón bã bùn mía. Sự hấp thu đạm trong lá mía thấp nhất ở giai đoạn 330 NSKT so với các giai đoạn, trong đó nghiệm thức có bón đầy đủ NPK (48,6 kgN/ha) cao nhất, nghiệm thức bón khuyết N (PK) và khuyết P (NK) đưa đến hàm lượng đạm trong lá thấp và khác biệt nghĩa thống kê (p<0,05). Giai đoạn này cho thấy bón bã bùn không làm tăng khả năng hấp thu đạm trong lá. Tuy nhiên, sự hấp thu N trong thân ở nghiệm thức NPK (234 kgN/ha) cao hơn có nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại và thấp nhất là nghiệm thức bón khuyết N (67,8 kgN/ha). Bảng 4.20: Ảnh hưởng của việc bón khuyết dư ng chất N, P, K và kết hợp bón bã bùn mía lên tổng hấp thu đạm (kgN/ha) trong cây mía trên đất phù sa Cù Lao Dung-Sóc Trăng. Vụ mía 2011-2012. Nhân tố Ngày sau khi trồng (NSKT) 40 120 150 210 330 Phân vô cơ (A) NPK 2,69 a 197,91 a 240,9 a 287,8 a 287,0 a NP 2,95 a 171,27 b 216,2 b 196,1 b 231,4 b NK 2,77 a 168,71 b 193,86 c 208,3 b 216,4 b PK 2,33 b 107,16 c 117,64 d 101,4 c 93,7 c Phân hữu cơ (B) KBB 2,73 152,07 y 175,91 y 169,9 y 192,7 y BBM 2,64 170,45 x 208,39 x 226,9 x 221,6 x FA * ** ** ** ** FB ns * ** ** * FAxB * ns * ** ns CV (%) 9,8 8,6 8,4 9,2 13,6 Ghi chú: Trong cùng một cột các số có chữ theo sau giống nhau khác biệt không có ý nghĩa thống kê qua phép thử Duncan, *: khác biệt thống kê ở mức ý nghĩa 5% (p<0,05); **: khác biệt thống kê ở mức ý nghĩa 1% (p<0,01); ns: khác biệt không có ý nghĩa thống kê. FA: các nghiệm thức phân vô cơ; FB: các nghiệm thức bón phân hữu cơ; FAXB: tương tác giữa các nghiệm thức phân vô cơ và bón phân hữu cơ; CV% - độ biến động NPK: bón đầy đủ N, P, K; NP: bón khuyết K; NK: bón khuyết P; PK: bón khuyết N KBB: không bón bã bùn mía; BBM: bón bã bùn mía (10 tấn/ha) Nhìn chung, kết quả thí nghiệm bón khuyết dư ng chất trên hai vùng đất thí nghiệm cho thấy cây mía có đáp ứng với bón đạm thể hiện qua tổng hấp thu đạm Luận án tốt nghiệp Tiến sĩ 77 trong cây mía được trình bày ở Bảng 4.20 và 4.21. Tỉ lệ phần trăm so với tổng nhu cầu của N để tạo năng suất mong muốn ở Cù Lao Dung là 32,6%N, và ở Long Mỹ là 32,9%N. Bón khuyết N đưa đến tổng hấp thu N trong cây mía thấp nhất do dư ng chất N chỉ được cung cấp từ đất bản địa. Bón khuyết P và K c ng cho thấy có ảnh hưởng lên khả năng hấp thu đư ng chất N trên cây mía. Bón N kết hợp với P và K đã đáp ứng nhu cầu đạm cho cây mía tốt hơn thể hiện qua khả năng hấp thu N cao ở các nghiệm thức bón đầy đủ NPK. Trên đất phù sa Cù Lao Dung, tổng lượng đạm mà cây mía hấp thu ở giai đoạn 330 NSKT ở nghiệm thức NPK, NP và NK (216-287 kgN/ha) cao hơn có nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức PK (93,7 kgN/ha) (Bảng 4.20) (Phụ lục C, Bảng C.78). Sự hấp thu này thấp hơn trên đất phèn Long Mỹ với 93,1 kgN/ha ở nghiệm thức PK và từ 180-282 kgN/ha ở các nghiệm thức NPK, NP và NK (Bảng 4.21) (Phụ lục C, Bảng C.79). Bảng 4.21: Ảnh hưởng của việc bón khuyết dư ng chất N, P, K và kết hợp bón bã bùn mía lên tổng hấp thu đạm (kgN/ha) trong cây mía trên đất phèn Long Mỹ-Hậu Giang. Vụ mía 2011-2012. Nhân tố Ngày sau khi trồng (NSKT) 40 120 150 210 330 Phân vô cơ (A) NPK 45,25 a 304,55 a 317,01 a 566,88 a 282,7 a NP 41,70 ab 258,49 b 267,03 b 442,75 b 203,7 b NK 38,29 bc 236,68 b 236,89 c 443,46 b 180,0 b PK 32,47 c 137,85 c 118,11 d 272,29 c 93,1 c Phân hữu cơ (B) KBB 37,05 y 225,96 236,26 405,84 y 183,8 BBM 41,81 x 242,82 233,26 456,85 x 195,4 FA * ** ** ** ** FB * ns ns * ns FAxB ns ns ns ns * CV (%) 15,6 12,2 10,6 13,6 12,9 Ghi chú: Trong cùng một cột các số có chữ theo sau giống nhau khác biệt không có ý nghĩa thống kê qua phép thử Duncan, *: khác biệt thống kê ở mức ý nghĩa 5% (p<0,05); **: khác biệt thống kê ở mức ý nghĩa 1% (p<0,01); ns: khác biệt không có ý nghĩa thống kê. FA: các nghiệm thức phân vô cơ; FB: các nghiệm thức bón phân hữu cơ; FAXB: tương tác giữa các nghiệm thức phân vô cơ và bón phân hữu cơ; CV% - độ biến động NPK: bón đầy đủ N, P, K; NP: bón khuyết K; NK: bón khuyết P; PK: bón khuyết N KBB: không bón bã bùn mía; BBM: bón bã bùn mía (10 tấn/ha) giai đoạn 210 đến 330 NSKT ở nghiệm thức NPK có sự giảm tổng hấp thu N và K trong thân mía chỉ ở Long Mỹ vì vào giai đoạn thu hoạch (tháng 12 dương lịch) vùng trồng mía ở đây bị ngập nước do ảnh hưởng l (từ tháng 9-10 đến tháng 12 dương lịch hằng năm). Sự sụt giảm sản lượng khô ở thân mía với Luận án tốt nghiệp Tiến sĩ 78 ngập lụt có thể là do giảm khả năng hữu dụng của chất dinh dư ng do sự thay đổi hóa h c đất hoặc tác động ức chế của cơ chế hấp thu dư ng chất từ r với O2 thấp (Kozlowski and Pallardy, 1984). Nhìn chung, hấp thu N, P và K của cây trồng giảm khi trồng trên đất ngập nước (Glinski and Stepniewski, 1985) (trích dẫn từ Morris and Tai (2004)). Kết quả Bảng 4.20 c ng cho thấy ở Cù Lao Dung, sự tương tác giữa phương pháp bón phân theo lô khuyết và kết hợp bón bã bùn mía nghĩa là kết hợp bón bã bùn mía đã làm gia tăng khả năng hấp thu N, P của cây mía vào giai đoạn 150 và 210 NSKT, nghiệm thức tương tác NPK+BBM đều đưa đến tổng hấp thu đạm trong cây cao nhất (262,8 và 362,7 kgN/ha, tương ứng). Đây là giai đoạn vươn lóng nên cây mía cần nhiều N, bón bã bùn mía đã cung cấp thêm lượng N hữu cơ cho cây mía, do đó cây mía đáp ứng tốt với kết hợp bón bã bùn mía vào giai đoạn này. Singh et al. (2007) đã báo cáo rằng sự hấp thu N cao nhất khi bã bùn mía được bón như nguồn dư ng chất (227,7 kg/ha). Rakkiyappan et al. (2001) đã báo cáo rằng tổng lượng đạm hấp thu trên mỗi giống mía khác nhau, với lượng đạm hấp thu thay đổi từ 88,55 kgN/ha đến 148,52 kgN/ha và trung bình 117,56 kgN/ha. Bã bùn mía là nguồn phân hữu cơ rẽ tiền. Đây là nguồn vật chất hữu cơ ảnh hưởng lên đặc tính l , hóa h c và sinh h c đất (Lamberton and Redcliff, 1960). Chất hữu cơ này hòa tan cao và hữu ích cho hoạt động vi sinh vật và cho đất (Gaikwad et al., 1996; Rangaraj et al., 2007). * Sự ấ u ân (P) Kết quả ở Hình 4.6 (Phụ lục B, Bảng B.6) cho thấy trên đất phù sa Cù Lao Dung không thể hiện rõ sự khác biệt về hấp thu lân của các nghiệm thức có bón lân (NPK, NP, PK) và bón khuyết lân (NK) vào giai đoạn 40 NSKT. Tuy nhiên, có sự khác biệt nghĩa thống kê giữa nghiệm thức bón NPK và nghiệm thức NK từ 120 NSKT đến khi thu hoạch. Vào thời điểm 150 NSKT, mặc dù bón khuyết P (NK) nhưng sự hấp thu lân trong lá mía ở nghiệm thức này (21,35 kgP2O5/ha) vẫn cao hơn nghiệm thức PK (16,75 kgP2O5/ha), có thể do N có khả năng thúc đẩy sự hấp thu P trong cây. Idrees et al. (2004) c ng báo cáo rằng hấp thu lân bị ảnh hưởng đáng kể bởi bón phân N và K. Luận án tốt nghiệp Tiến sĩ 79 Hấp thu lân trung bình trong lá và thân mía từ tương tác giữa nhân tố bón bã bùn mía trong mỗi nhân tố của các nghiệm thức bón phân theo lô khuyết có nghĩa thống kê vào giai đoạn này (Phụ lục B, Bảng B.6), trong đó hấp thu lân trong lá mía trung bình ở nhân tố phân hữu cơ không khác biệt, nhưng có khác biệt về hấp thu lân trong thân, với nghiệm thức tương tác NPK+BBM là 39,1 kgP2O5/ha khác biệt không nghĩa với NP+BBM (39,9 kgP2O5/ha). Vào thời điểm 330 NSKT, sự hấp thu lân trong lá mía ở nghiệm thức NPK (28,74 kgP2O5/ha) khác biệt với nghiệm thức NK (19,95 kgP2O5/ha) và cao hơn nghiệm thức PK (p<0,05). Sự hấp thu trong thân mía cao hơn với 99,6 kgP2O5/ha ở nghiệm thức bón đầy đủ NPK. a) b) c) d) Hình 4.6: Hấp thu lân trong lá: a) không bón bã bùn, b) bón bã bùn và trong thân: c) không bón bã bùn, d) bón bã bùn ở Cù Lao Dung-Sóc Trăng. Vụ mía 2011-2012. Luận án tốt nghiệp Tiến sĩ 80 Trên đất phèn Long Mỹ c ng cho thấy có sự khác biệt về mặt thống kê giữa các nghiệm thức có bón P với nghiệm thức bón khuyết P (Hình 4.7 và Phụ lục B, Bảng B.7). Sự hấp thu lân trong thân và lá đều khác biệt thống kê từ giai đoạn 120 NSKT đến thu hoạch. Trong lá, sự khác biệt về hấp thu lân thể hiện từ giai đoạn 120 đến 330 NSKT. Đối với các nghiệm thức có bón lân, nghiệm thức bón đầy đủ NPK đưa đến sự hấp thu lân trong lá mía cao nhất và khác biệt với các nghiệm thức NP và PK. Nghiệm thức NK mặc dù không bón lân nhưng c ng cho thấy khả năng hấp thu lân cao hơn nghiệm thức PK ở giai đoạn 150 và 330 NSKT. Vào giai đoạn 330 NSKT, sự hấp thu lân ở nghiệm thức bón đầy đủ NPK trong lá (22,3 kgP2O5/ha) và trong thân (135,3 kgP2O5/ha) đạt cao nhất và khác biệt với nghiệm thức bón khuyết lân (p<0,05). a) b) c) d) Hình 4.7: Hấp thu lân trong lá: a) không bón bã bùn, b) bón bã bùn và trong thân: c) không bón bã bùn, d) bón bã bùn ở Long Mỹ-Hậu Giang. Vụ mía 2011-2012. Luận án tốt nghiệp Tiến sĩ 81 Bón khuyết dư ng chất kết hợp với bón bã bùn cho thấy ảnh hưởng lên hấp thu lân trong lá trên đất phèn Long Mỹ ở giai đoạn 150 và 330 NSKT trong lá, tuy nhiên không khác biệt đáng kể giữa nghiệm thức có bón và không bón bã bùn mía. Theo Thangavelu and Chiranjivi Rao (2002), kết quả nghiên cứu cho thấy tổng hấp thu lân trên giống Co7201 là 81,90 kgP2O5/ha. Tổng lượng lân hấp thu khác nhau trên những giống mía, dao động 34,95 – 57,97 kgP2O5/ha và trung bình 49,95 kgP2O5/ha (Rakkiyappan et al., 2007). Sự hấp thu lân thay đổi theo thời gian trên đất phù sa và trên đất phèn. Kết quả thí nghiệm của Keshavaiah et al. (2012) đã cho thấy lượng lân hấp thu trên giống Co62175 đạt 14,26; 15,56 và 28,27 kgP2O5/ha vào các thời điểm 180, 270 NSKT và thời điểm thu hoạch. Lượng lân hấp thu trên giống Co62175 đạt 10,72; 11,71 và 20,96 kgP2O5/ha vào cùng các thời điểm trên. Tuy nhiên, lượng hấp thu lân cao hơn khi bón lân 119 kgP2O5/ha (Singh et al., 2007). Kết quả trình bày ở Bảng 4.22 cho thấy tổng hấp thu lân trên đất phù sa Cù Lao Dung cao nhất đến thời điểm 330 NSKT, tổng lượng lân mà cây mía hấp thu ở nghiệm thức NPK, NP và PK lần lượt 129,1; 98,9 và 59,7 kgP2O5/ha so với nghiệm thức NK (79,8 kgP2O5/ha). Sự hấp thu này trên đất phèn Long Mỹ với
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_quan_ly_dinh_duong_theo_vung_dac_thu_ssnm.pdf
thongtinLA-EN.doc
thongtinLA-VI.doc
tomtatLA-EN (bia).doc
tomtatLA-EN.doc
tomtatLA-VI (bia).doc
tomtatLA-VI.doc