Luận án Nghiên cứu sản xuất khí sinh học từ rơm và lục bình

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu sản xuất khí sinh học từ rơm và lục bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu sản xuất khí sinh học từ rơm và lục bình

ong năm 2011 thì lượng khí CO2 phát sinh cho toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long là 17949,57 nghìn tấn, chiếm trên 97% tổng lượng khí sinh ra. Trong đó vụ Đông Xuân đóng góp trên 50% (9630,85 nghìn tấn). Lượng khí CO và NOX thì chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng lượng khí phát sinh (Bảng 4.7). Bảng 4.7: Lượng phát thải khí nhà kính sau khi đốt rơm của các tỉnh và ĐBSCL Đơn vị tính: nghìn tấn Địa điểm Vụ Thu Đông Vụ Đông Xuân Cả năm 2011 CO2 CO NOx CO2 CO NOx CO2 CO NOx Kiên Giang 8,58 0,23 - 1269,25 34,34 0,73 1680,90 45,47 0,97 Đồng Tháp - - - 1166,34 31,55 0,67 2615,68 70,76 1,51 Cần Thơ - - - 703,23 19,02 0,41 1029,12 27,84 0,60 An Giang 17,15 0,46 0,01 2092,54 56,61 1,21 3970,69 107,42 2,30 ĐBSCL 780,42 21,11 0,45 9630,85 260,54 5,57 17949,57 485,58 10,38 Nhìn chung, kết quả nghiên cứu cho thấy hiện tại lượng rơm phát sinh tại đồng ruộng sau khi thu hoạch không được sử dụng có hiệu quả mà chủ yếu được đốt bỏ. Quá trình đốt gây phát thải một lượng lớn các khí nhà kính ảnh hưởng đến môi trường. Nếu lượng rơm này có thể được sử dụng để chuyển đổi thành nguồn năng lượng tái tạo thì sẽ góp phần giảm ô nhiễm môi trường và tái cung 64 cấp một nguồn năng lượng sạch. Kết quả cho thấy cần có những nghiên cứu sử dụng hiệu quả lượng rơm này. Thảo luận chung: Kết quả nghiên cứu cho thấy có 6 hình thức quản lý và xử lý lượng rơm được người dân lựa chọn phổ biến là đốt rơm, vùi rơm, trồng nấm, chăn nuôi, bán và cho người khác. Các hình thức xử lý rơm trên ruộng thay đổi tùy theo mùa vụ. Ở vụ Đông Xuân, đốt rơm là hình thức phổ biến nhất (98,2%), còn lại trồng nấm, bán rơm, cho rơm chiếm tỷ lệ rất thấp. Ở vụ Hè Thu, tỷ lệ đốt rơm giảm xuống còn 89,7%, vùi rơm chiếm 6,7%. Vụ Thu Đông có tỷ lệ đốt rơm thấp nhất (54,1%), tỷ lệ vùi rơm tại ruộng khá cao (26,1%), kế đến là trồng nấm (8,1%), các hình thức khác chiếm tỷ lệ thấp. Kết quả ước tính lượng rơm dư thừa trên đồng ruộng cần phải xử lý đồng bằng sông Cửu Long năm 2011 vào khoảng 25,2 triệu tấn/năm, trong đó khoảng 20,9 triệu tấn/năm là người dân đốt. Lượng khí thải phát sinh từ quá trình đốt rơm ước tính phát thải vào khí quyển là 17,95 triệu tấn CO2, 485,58 nghìn tấn CO và 10,38 nghìn tấn NOx. Kết quả điều tra cho thấy đa số nông dân đều có khuynh hướng giữ nguyên tập quán đốt rơm trong những năm tiếp theo. Điều này cho thấy, cần phải có các biện pháp để xử lý lượng rơm dư thừa trên đồng ruộng. Trong đó, sử dụng rơm để sản xuất khí sinh học là vấn đề cần được nghiên cứu. Bên cạnh lượng rơm dư thừa ở đồng bằng sông Cửu Long thì lục bình là một nguồn sinh khối dồi dào. Nếu rơm chỉ có tập trung vào thời gian thu hoạch lúa thì lục bình là vật liệu sẵn có ở hầu hết các nông hộ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Do đó, lục bình là một nguồn sinh khối tiềm năng có khả năng ứng dụng để sản xuất khí sinh học. Một số nghiên cứu trong và ngoài nước đã chứng minh lục bình là vật liệu có khả năng sử dụng cho sản xuất khí sinh học. Trong trường hợp thiếu hụt nguồn nguyên liệu nạp thì lục bình có thể được sử dụng để bổ sung cho túi ủ/hầm ủ nhằm duy trì tính ổn định của mô hình khí sinh học. Do đó, cần có những nghiên cứu tận dụng được sự tăng trưởng sinh khối nhanh của lục bình để bổ sung cho túi ủ trong điều kiện thiếu hụt nguồn nguyên liệu nạp mà không cần phải tốn nhiều nhân công trong việc thu gom. Vì vậy, nghiên cứu khảo sát sự tăng trưởng của lục bình ở các thủy vực khác nhau đã được thực hiện nhằm tính toán khả năng sử dụng sự tăng trưởng nhanh của lục bình để sản xuất khí sinh học trong điều kiện nông hộ. 4.2 Khảo sát sự phát triển của lục bình ở các thủy vực khác nhau 4.2.1 Đặc điểm môi trường nước trong các thủy vực Kết quả nghiên cứu cho thấy về đặc điểm hóa học môi trường nước được trình bày ở Bảng 4.8. Trong đó, pH dao động từ 7,19 – 7,32, N-NO3- dao động 65 từ 0,1 – 0,29 mg/L, N-NH4+ dao động từ 0,14 – 2,98 mg/L, TKN dao động từ 4,27 – 10,8 mg/L, giá trị P-PO43- dao động từ 0,06 – 4,72 mg/L, COD dao động từ 21,9 – 60,3 mg/L. pH giữa các thủy vực biến động không lớn (dưới 0,5), đây là khoảng pH trung tính thích hợp cho sự phát triển của lục bình (Wilson et al., 2005). Do ao nhận trực tiếp nước thải sau túi ủ biogas, nên hàm lượng dinh dưỡng trong nước ao cao hơn so với các thủy vực còn lại. Lục bình là loại thực vật thủy sinh phát triển nhanh, nên dinh dưỡng là yếu tố quan trọng trong sự phát triển của lục bình, hàm lượng đạm tổng số tối ưu cho sự phát triển của lục bình là 28 mg/L (Wang and Dou, 1998). Trong môi trường sống tự nhiên, lục bình dễ bị tác động của lân hơn đạm, hàm lượng lân cao là yếu tố giới hạn cho sự phát triển của lục bình (Pinto-Coelho and Greco, 1999; Sharma and Oshode, 1991), giá trị lân tối ưu cho sự phát triển của lục bình là 1 mg/L (Reddy et al.,1990). COD cao là yếu tố giới hạn cho sự phát triển của lục bình, giá trị tối ưu cho sự phát triển của lục bình dao động từ 18 – 80 mg/L. Trong nghiên cứu này nhìn chung yếu tố dinh dưỡng ở các thủy vực sông, kênh và mương thấp hơn nhu cầu dinh dưỡng của lục bình, riêng đối với các thủy vực ao thì các giá trị dinh dưỡng dao động trong khoảng thuận lợi cho sự phát triển của lục bình. Bảng 4.8 Đặc điểm lý – hóa học môi trường sống của lục bình ở các thủy vực khác nhau Thông số Sông Kênh dẫn nước Ao nuôi cá Mương vườn pH 7,32±0,19 7,19±0,20 7,20±0,28 7,21±0,26 N-NO3- (mg/L) 0,27±0,01 0,29±0,03 0,10±0,01 0,25±0,01 N-NH4+ (mg/L) 0,15±0,05 0,14±0,05 2,98±1,05 0,24±0,10 TKN (mg/L) 5,30±1,42 4,27±1,39 10,8±0,94 5,32±1,57 P-PO43- (mg/L) 0,06±0,03 0,07±0,06 4,72±0,75 0,70±0,68 TP (mg/L) 0,22±0,13 0,30±0,21 6,30±2,52 1,07±0,68 COD (mg/L) 24,5±4,70 21,9±4,03 60,3±5,88 25,7±9,37 Ghi chú: Số liệu trình bày TB ± SD, n = 21 4.2.2 Sự tăng trưởng của lục bình ở các loại hình thủy vực khác nhau a) Sự tăng trưởng chiều dài thân Thông thường trọng lượng thân của lục bình chiếm 20 – 40% trọng lượng cây (Jackson et al., 1996). Chiều dài thân của LB bắt đầu thí nghiệm dao động từ 29,5 – 31,7 cm, sau 42 ngày theo dõi chiều dài thân của LB dao động từ 39,0 – 42,2 cm tăng từ 8,2 – 10,5 cm so với chiều dài thân trước khi bố trí thí nghiệm. Chiều dài thân LB ở sông tăng lên nhanh hơn so với các thủy vực kênh, mương, ao (p<0,05). Trong khi giữa các thủy vực kênh, mương, ao không khác biệt (p>0,05) (Hình 4.1). 66 Thôøi gian Tuaàn 1 Tuaàn 3 Tuaàn 5 Tuaàn 7 C hi eàu d aøi th aân (c m /c aây ) 25 30 35 40 45 Ao nuoâi caù Möông vöôøn Soâng Keânh daãn nöôùc a a a a a b b b a b bc c a b b b Hình 4.1: Sự tăng trưởng chiều dài thân của lục bình trên các loại hình thủy vực Ghi chú: các cột ký hiệu bằng chữ cái giống nhau thì không khác biệt có ý nghĩa thống kê (Duncan test, α= 0,05) b) Sự tăng trưởng chiều dài rễ Chiều dài rễ của LB khi bắt đầu bố trí thí nghiệm dao động từ 17,1 – 17,4 cm và tăng dần trong thời gian thí nghiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy chiều dài rễ khi kết thúc thí nghiệm dao động từ 21,4 – 29,47 cm. Rễ là một bộ phận quan trọng của cây, giúp hấp thu các chất dinh dưỡng trong nước giúp cho sự phát triển của LB (Heeraman and Juna, 1993). Chiều dài rễ của lục bình ở hai thủy vực kênh dẫn nước và ao nuôi cá tăng khá rõ và cao hơn so với sông và mương vườn ở giai đoạn cuối (p<0,05), điều này góp phần giúp lục bình ở hai thủy vực này tăng trưởng nhanh. Thôøi gian Tuaàn 1 Tuaàn 3 Tuaàn 5 Tuaàn 7 C hi eàu d aøi re ã ( cm /c aây ) 0 5 10 15 20 25 30 Ao nuoâi caù Möông vöôøn Soâng Keânh daãn nöôùc a a a a a a a a a a ab b a a b b Hình 4.2: Sự tăng trưởng chiều dài rễ của lục bình trên các loại hình thủy vực Ghi chú: các cột ký hiệu bằng chữ cái giống nhau thì không khác biệt có ý nghĩa thống kê (Duncan test, α= 0,05) 67 Chiều dài rễ cũng là một trong những yếu tố quyết định đến trọng lượng của LB. Nghiên cứu của Jackson et al. (1996) cho thấy trọng lượng rễ của lục bình có thể chiếm hơn 50 % tổng sinh khối của LB. Do đó rễ là một yếu tố quan trọng đóng góp vào sự gia tăng trọng lượng của LB. c) Sự tăng trưởng số lá và số chồi Khi bố trí thí nghiệm, lục bình có số là từ 7 – 8 lá/cây, sau đó số lá tăng nhanh thông qua sự tăng số chồi mới của lục bình. Khi kết thúc thí nghiệm, số lá của LB trong thủy vực ao nuôi cá đã tăng lên 228 lá và số chồi là 41 chồi. Số chồi và số lá của LB tăng rõ rệt ở các thủy vực ao nuôi cá, kênh dẫn nước và mương vườn (Hình 4.3 và 4.4) Thôøi gian Tuaàn 1 Tuaàn 3 Tuaàn 5 Tuaàn 7 So á lö ôïn g la ù (l aù/ ca ây) 0 50 100 150 200 250 Ao nuoâi caù Möông vöôøn Soâng Keânh daãn nöôùc a a a a a a ab a b c d a b b c Hình 4.3: Sự tăng trưởng số lượng lá của lục bình trên các loại hình thủy vực Ghi chú: các cột ký hiệu bằng chữ cái giống nhau thì không khác biệt có ý nghĩa thống kê (Duncan test, α= 0,05) Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng lá và chồi của LB ở các thủy vực kênh dẫn nước, ao nuôi cá và mương vườn cao hơn sông (p<0,05). Do sông có biên độ triều khá lớn (>2m) và tần suất đi lại của các phương tiện giao thông nhiều, môi trường nước thường xuyên bị xáo trộn nên ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của LB. Ao nuôi cá có hàm lượng các chất dinh dưỡng cao nên sự sinh trưởng và phát triển của LB tốt hơn, vì vậy số lá và số chồi của LB gia tăng nhanh hơn so với các thủy vực sông, kênh dẫn nước và mương vườn. 68 Thôøi gian Tuaàn 3 Tuaàn 5 Tuaàn 7 So á lö ôïn g ch oài (c ho ài/c aây ) 0 10 20 30 40 50 Ao nuoâi caù Möông vöôøn Soâng Keânh daãn nöôùc b a a a aab b c a bb c Hình 4.4: Sự tăng trưởng số chồi của lục bình trên các loại hình thủy vực Ghi chú: các cột ký hiệu bằng chữ cái giống nhau thì không khác biệt có ý nghĩa thống kê (Duncan test, α= 0,05) d) Sư gia tăng trọng lượng và thời gian nhân đôi của lục bình Kết quả nghiên cứu cho thấy trọng lượng tươi của LB khi bố trí thí nghiệm dao động trong khoảng từ 0,41 – 0,44 kg/m2 và đạt 1,3 – 6,9 kg/m2 sau 6 tuần. Sự gia tăng trọng lượng của LB sau 6 tuần ở kênh dẫn nước, ao nuôi cá và mương vườn là cao nhất với trọng lượng vật chất khô lần lượt là 634, 804 và 603 gDM/m2. Trong khi đó lục bình trên sông chỉ đạt 162 gDM/m2 (Hình 4.6). Thôøi gian Tuaàn 1 Tuaàn 3 Tuaàn 5 Tuaàn 7 Tr oïn g lö ôïn g tö ôi c uûa lu ïc bì nh (k g. m -2 ) 0 2 4 6 8 Ao nuoâi caù Möông vöôøn Soâng Keânh daãn nöôùc a a a a a bbc a ab b c aa a b Hình 4.5: Sự tăng trưởng trọng lượng tươi của lục bình trên các loại hình thủy vực Ghi chú: các cột ký hiệu bằng chữ cái giống nhau thì không khác biệt có ý nghĩa thống kê (Duncan test, α= 0,05) 69 Kết quả nghiên cứu cho thấy lục bình phát triển tốt ở các thủy vực nước tĩnh và giàu dinh dưỡng. Kênh dẫn nước, ao nuôi cá và mương vườn là các thủy vực có thể được sử dụng để lục bình phát triển nhanh và nguồn sinh khối này có thể được sử dụng để bổ sung vào các hầm ủ / túi ủ biogas đang hoạt động trong trường hợp nguồn nguyên liệu nạp bị gián đoạn do dịch bệnh hoặc tái đàn gia súc. TL ban ñaàu TL keát thuùc K ho ái l öô ïng v aät c ha át k ho â (g D M /m 2 ) 0 200 400 600 800 1000 Soâng Keânh Ao nuoâi caù Möông a abb cns Hình 4.6: Sự tăng trưởng trọng lượng khô của lục bình trên các loại hình thủy vực Ghi chú: các cột ký hiệu bằng chữ cái giống nhau thì không khác biệt có ý nghĩa thống kê (Duncan test, α= 0,05) Chu kỳ nhân đôi của LB ở sông, kênh dẫn nước, ao nuôi cá và mương vườn dao động từ 11 – 23 ngày. Lục bình phát triển trên sông có thời gian nhân đôi dài nhất với thời gian nhân đôi trọng lượng là 23 ngày. Lục bình trên các thủy vực kênh dẫn nước, ao nuôi cá và mương vườn có thời gian nhân đôi trọng lượng là 11 ngày (Hình 4.7). Thôøi gian (ngaøy) Soâng Keânh daãn nöôùc Ao nuoâi caù Möông vöôøn Th ôøi g ia n nh aân ñ oâi (n ga øy) 0 5 10 15 20 25 30 a b b b Hình 4.7: Thời gian nhân đôi của lục bình trên các loại hình thủy vực Ghi chú: các cột ký hiệu bằng chữ cái giống nhau thì không khác biệt có ý nghĩa thống kê (Duncan test, α= 0,05) 70 Chu kỳ nhân đôi càng ngắn thể hiện sự sinh trưởng và phát triển của LB diễn ra càng nhanh. Lục bình là một trong những loài thực vật phát triển nhanh, chu kỳ nhân đôi ngắn khoảng 11 – 18 ngày (Lê Hoàng Việt, 2005), nghiên cứu của (John et al., 2005) cho thấy LB có trọng lượng ban đầu là 10 gam với diện tích 100 m2 sau khoảng thời gian ngắn 2 – 3 tháng trong những môi trường thuận lợi điều kiện dinh dưỡng và phát triển tốt có thể dễ dàng đạt 1 kg/m2. Qua đó cho thấy LB là một trong những loài thực vật phát triển rất nhanh. Trong nghiên cứu này cho thấy các thủy vực ao, kênh và mương thì lục bình phát triển rất nhanh chu kỳ nhân đôi ngắn (11 ngày), đối với sông thì chu kỳ nhân đôi là 23 ngày. 4.2.3 Tiềm năng sử dụng lục bình để sản xuất khí sinh học Cho đến thời điểm hiện tại, hầu hết lục bình chưa được khai thác và sử dụng một cách hiệu quả, một số hộ sử dụng lục bình làm thủ công mỹ nghệ, thức ăn gia súc,.... Tuy nhiên, để sử dụng trong thủ công mỹ nghệ lục bình phải đạt yêu cầu về chiều cao thân ≥ 60cm. Ngoài ra, dù được sử dụng cho thủ công mỹ nghệ thì phần lá và rễ - chiếm tỷ lệ khá lớn trong trọng lượng của lục bình cũng không được sử dụng. Điều này cho thấy, lục bình nếu được sử dụng có hiệu quả thì sẽ là một nguồn sinh khối dồi dào có thể cung cấp cho quá trình sản xuất năng lượng tái tạo trong đó đơn giản nhất là khí sinh học. Kết quả nghiên cứu về sự tăng trưởng của lục bình trên các thủy vực cho thấy thời gian nhân đôi trọng lượng của LB ở các thủy vực phổ biến ở ĐBSCL như ao nuôi cá, kênh dẫn nước và mương vườn là 11 ngày. Nếu người dân chủ động tận dụng sinh khối lục bình trên các thủy vực này để bổ sung vào các hầm ủ/túi ủ khí sinh học trong trường hợp thiếu hụt nguyên liệu thì sẽ góp phần giúp ổn định mô hình khí sinh học, giảm các tác động đến môi trường. Trung bình lượng DM của lục bình gia tăng 19,1 g.m-2.ngày-1 đối với thủy vực ao, trong đó thành phần VS của lục bình chiếm 83,6 % TS (Carina and Cecilia, 2007), trung bình lượng VS gia tăng từ 16 g.m-2.ngày-1. Với năng suất sinh khí của lục bình dao động từ 200 – 300 L.kgVS-1 (O’Sullivan et al., 2010; Rajendran et al., 2012) thì sự tăng trưởng của lục bình có thể cung cấp từ 3,2 – 4,8 L khí sinh học.m-2.ngày-1. Nếu hộ gia đình 4 người với nhu cầu đun nấu từ khí sinh học 300 – 500 L.ngày-1, thì với diện tích từ 62 – 156 m2 lục bình có thể cung cấp lượng khí sinh học đủ dùng cho hộ gia đình. Thảo luận chung: Các kết quả nghiên cứu được trình bày ở trên đã cho thấy rơm và lục bình là hai nguồn sinh khối dồi dào và có tiềm năng sử dụng để sản xuất khí sinh học trong điều kiện đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, khác với nguồn nguyên liệu truyền thống cho sản xuất khí sinh học là phân heo, rơm và lục bình có cấu 71 tạo hóa học chủ yếu là các lignocellulose do đó các nguyên liệu này cần phải được tiền xử lý và thủy phân một phần trước khi nạp vào các túi ủ hay hầm ủ biogas. Bên cạnh việc đẩy nhanh quá trình thủy phân thông qua quá trình tiền xử lý thì kích cỡ của rơm và lục bình cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình phân hủy yếm khí. Do đó, nghiên cứu ảnh hưởng của kích cỡ nguyên liệu nạp và các phương pháp tiền xử lý rơm và lục bình để tăng hiệu quả của quá trình sản xuất khí sinh học là một vấn đề cần được nghiên cứu tiếp theo trong luận án. Căn cứ vào điều kiện thực tế tại các nông hộ vùng đồng bằng sông Cửu Long, nghiên cứu đã chọn 04 loại nước để tiền xử lý vật liệu gồm (1) nước máy; (2) nước thải biogas ; (3) nước bùn đáy ao và (4) nước ao. Đây là các nguồn nước sẵn có trong điều kiện nông hộ và có thể được sử dụng để tiền xử lý vật liệu nhằm đẩy nhanh quá trình thủy phân đồng thời bổ sung nguồn vi sinh vật ban đầu cho quá trình phân hủy yếm khí. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của các kích cỡ rơm và lục bình khác nhau (từ không cắt đến cắt nhỏ 1 cm) lên hiệu quả sinh khí và chất lượng khí sinh học đã được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của kích cỡ nguyên liệu lên quá trình sản xuất khí sinh học. 4.3 Xác định ảnh hưởng của phương pháp tiền xử lý sinh học và kích thước vật liệu rơm và lục bình lên hiệu suất sinh khí biogas và chất lượng biogas trong thí nghiệm ủ biogas theo mẻ 4.3.1 Ảnh hưởng của phương pháp tiền xử lý sinh học a) Các yếu tố môi trường Kết quả nghiên cứu cho thấy nhiệt độ của các nghiệm thức tiền xử lý rơm, lục bình dao động từ 26,9 – 29,3oC, nhiệt độ trung bình giữa các nghiệm thức dao động không lớn. Trong khoảng thời gian từ 1 – 20 ngày đầu, nhiệt độ của các mẻ ủ cao hơn so với giai đoạn từ 20 – 60 ngày. Giai đoạn đầu của quá trình ủ yếm khí, nguyên liệu được thủy phân và tạo ra các a-xít béo, hầu hết các phản ứng này thuộc phản ứng tỏa nhiệt (Zeikus, 1977), điều này dẫn đến nhiệt độ trong giai đoạn đầu cao hơn các gian đoạn còn lại, giai đoạn từ 20 – 60 ngày nhiệt độ giữa các nghiệm thức có xu hướng ổn định. Phối trộn rơm, lục bình với phân heo cho thấy nhiệt độ giữa các bình ủ có xu hướng cao hơn so với chỉ nạp đơn thuần 100% PH, tuy nhiên sự chênh lệch này không lớn (<0,8 oC). Trong quá trình ủ yếm khí, nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển của các vi sinh vật sinh khí mê-tan dao động từ 31 – 36 oC (Lê Hoàng Việt, 2005), nhiệt độ tối ưu là 35oC (Hinrich et al., 2005). Nhìn chung, sự thay đổi nhiệt độ trong các mẻ ủ đều nằm trong khoảng thuận lợi cho sự phát triển của vi sinh vật sinh khí mê-tan. 72 (b) Thôøi gian 1 - 10 11 - 20 21 - 30 31 - 45 46 - 60 N hi eät ñ oäï (o C ) 20 22 24 26 28 30 32 Phaân heoNöôùc buøn ñaùy ao Thôøi gian 1 - 10 11 - 20 21 - 30 31 - 45 46 - 60 N hi eät ñ oäï (o C ) 20 22 24 26 28 30 32 Nöôùc aoNöôùc thaûi biogasNöôùc maùy (a) Nhieät ñoä moâi tröôøng neàn Hình 4.8 Diễn biến nhiệt độ của các nghiệm thức tiền xử lý sinh học rơm (a) và lục bình (b) Giá trị pH trong suốt thời gian theo dõi thí nghiệm dao động từ 6,2 – 6,9. pH của các nghiệm thức đều thấp ở giai đoạn đầu của quá trình ủ (Hình 4.9). Sau giai đoạn này, pH có xu hướng tăng dần và ổn định trong khoảng 6,5 đến 7,0. Giai đoạn đầu quá trình phân hủy yếm khí là quá trình thủy phân các hợp chất cao phân tử sang các hợp chất hữu cơ đơn giản, hình thành nên các a-xít béo bay hơi. Sự tích lũy các a-xít này là nguyên nhân dẫn đến pH thấp trong thời gian đầu. pH là thông số quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động của các vi sinh vật trong suốt quá trình phân hủy yếm khí. Giá trị pH tối ưu cho sự phát triển của vi sinh vật trong mẻ ủ yếm khí từ 6,6 - 7,6 (Gerardi, 2003). Tuy nhiên, pH thuận lợi cho quá trình ủ yếm khí từ 6,5 - 8,5 (Raja et al., 2012). Kết quả nghiên cứu cho thấy quá trình tiền xử lý không làm thay đổi lớn pH của mẻ ủ, trong suốt quá trình thí nghiệm pH nằm trong khoảng thuận lợi cho sự hoạt động của vi sinh vật sinh khí mê-tan. (a) (b) Nöôùc maùy Nöôùc thaûi biogas Thôøi gian 1 - 10 11 - 20 21 - 30 31 - 45 46 - 60 pH 5.0 5.5 6.0 6.5 7.0 7.5 8.0 Nöôùc ao Nöôùc buøn ñaùy ao Phaân heo Thôøi gian 1 - 10 11 - 20 21 - 30 31 - 45 46 - 60 pH 5.0 5.5 6.0 6.5 7.0 7.5 8.0 Hình 4.9: Diễn biến pH của các nghiệm thức tiền xử lý sinh học rơm (a) và lục bình (b) Bên cạnh nhiệt độ và pH thì thế oxy hóa khử của mẻ ủ cũng được theo dõi. Thế oxy hóa khử của các mẻ ủ trong suốt thời gian thí nghiệm dao động từ -155 đến -289 mV (Hình 4.10). Trong khoảng thời gian 20 ngày đầu thế oxy hóa khử của các nghiệm thức có xu hướng thấp hơn so với các giai đoạn từ 20 – 60 ngày 73 (dao động từ -259 đến -289 mV). Sau giai đoạn này thế oxy hóa khử của các nghiệm thức có xu hướng tăng dần và ổn định từ -150mV đến -200mV. Tất cả các giá trị thế oxy hóa khử đều âm, thể hiện quá trình khử chiếm vai trò chủ đạo trong tiến trình phân hủy các chất hữu cơ. Các giá trị này thấp hơn so
File đính kèm:
luan_van_nghien_cuu_san_xuat_khi_sinh_hoc_tu_rom_va_luc_binh.pdf
Thongtinluanan-En.doc
Thongtinluanan-Vi.doc
Tomtatluanan-En.pdf
Tomtatluanan-Vi.pdf