Luận án Nghiên cứu sản xuất oligocarrageenan từ rong sụn Kappaphycus alvarezii Doty (Doty) bằng phương pháp enzyme và ứng dụng trong chế biến và bảo quản surimi

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu sản xuất oligocarrageenan từ rong sụn Kappaphycus alvarezii Doty (Doty) bằng phương pháp enzyme và ứng dụng trong chế biến và bảo quản surimi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu sản xuất oligocarrageenan từ rong sụn Kappaphycus alvarezii Doty (Doty) bằng phương pháp enzyme và ứng dụng trong chế biến và bảo quản surimi

0.4 0.5 0.6 0.7 0.8 M ứ c đ ộ t hủ y ph ân c ar ( % ) Nồng độ enzyme (%) Hình 3.18. Ảnh hưởng của nồng độ enzyme Termamyl 120L đến mức độ thủy phân carrageenan Kết quả này có thể lý giải là do đặc tính xúc tác của enzyme: khi nồng độ enzyme tăng thì vận tốc phản ứng cũng tăng. Nhưng vận tốc của phản ứng enzyme chỉ tăng trong một giới hạn nhất định khi enzyme còn dư thừa cơ chất. Khi nồng độ enzyme tiếp tục tăng gần tới mức cần cho phản ứng và enzyme bắt đầu có hiện tượng không đủ mức dư thừa cơ chất thì phản ứng thủy phân bởi enzyme có xu thế không tăng - ở trạng thái này nếu tăng nồng độ enzyme sẽ dẫn tới lãng phí enzyme. Từ những phân tích ở trên, luận án chọn nồng độ enzyme Temamyl 120L thích hợp để thủy phân car tạo oligocar là 0,5 % . 3.3.2.2. Xác định pH thích hợp cho quá trình thủy phân Tiến hành 6 mẫu thí nghiệm thủy phân car với pH thay đổi từ 5,5 ÷ 8,0, bước nhảy của pH là 0,5. Cố định các thông số: nồng độ car 1,0%, nhiệt độ 500C, nồng độ enzyme Temamyl 120L 0,5%. Sau thời gian 14giờ, lấy mẫu xác định hàm lượng đường khử tạo thành và mức độ thủy phân car ở các pH khác nhau. Kết quả phân tích được trình bày ở hình 3.19 ÷ 3.20 và bảng 2.9 ÷ 2.10 phụ lục 2. Hình 3.19. Ảnh hưởng của pH đến đến hàm lượng đường khử tạo thành bằng enzyme Temamyl 120L 91 Hình 3.20. Ảnh hưởng của pH đến mức độ thủy phân carrageenan bằng enzyme Temamyl 120L Kết quả phân tích ở hình 3.19 và 3.20 cho thấy mức độ thủy phân car của enzyme Temamyl 120L phụ thuộc khá mạnh vào pH, khi pH thay đổi thì mức độ thủy phân car cũng thay đổi theo. Cụ thể, ở giá trị pH cao hơn hoặc thấp hơn pH = 6,5 thì mức độ thủy phân car đều giảm và càng xa với pH = 6,5 thì mức độ thủy phân car càng giảm. Cụ thể, ở pH = 6,5 mức độ thủy phân car cao nhất và đạt mức 52,63%, cao gấp tương ứng mức độ thủy phân của enzyme Temamyl 120L ở các pH: 5,5; 6,0; 7,0; 7,5; 8,0 là 1,44; 1,12; 1,03; 1,13; 1,34 lần. Kết quả xử lý bằng phần mềm SPSS cho thấy sự khác biệt về mức độ thủy phân của enzyme Temamyl 120L ở các giá trị pH: 5,5; 6,0; 7,0; 7,5; 8,0 là sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Như vậy, pH tối thích cho hoạt động của enzyme Temamyl 120L khi thủy phân car là 6,5. Ngoài ra, luận án cũng tiến hành nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của pH lên hoạt tính của enzyme Termamyl 120L trên cơ chất car thể hiện qua hàm lượng đường khử tạo thành trong phản ứng (hình 3.19). Kết quả đánh giá hàm lượng đường khử cũng cho kết quả tương tự với mức độ thủy phân car đó là hàm lượng đường khử được tạo thành do tác động của enzyme Termamyl 120L vào cơ chất car cũng đạt giá trị cực đại tại pH= 6,5; ở các giá trị pH ≠ 6,5 hàm lượng đường khử được tạo thành khi thủy phân car bằng enzyme Termamyl 120L đều giảm. Kết quả này có thể lý giải là mỗi loại enzyme có hoạt tính cao nhất ở một giá trị pH xác định gọi là pH tối thích của enzyme. Sở dĩ như vậy là do pH ảnh hưởng tới hoạt tính độ bền của enzyme và trạng thái ion hóa cơ chất từ đó ảnh hưởng tới cấu trúc trung tâm hoạt động của enzyme và trạng thái ion hóa của cơ chất cũng như việc tạo thành phức hợp enzyme - cơ chất, tức ảnh hưởng tới vận tốc phản ứng thủy phân. 92 Một số nghiên cứu trên thế giới về khả năng thủy phân của enzyme polysaccharase cũng cho kết quả tương tự: theo nghiên cứu của Liphis, pH tối thích cho hoạt động dextrin hóa và đường hóa của chế phẩm amylase từ A. oryzae nằm trong khoảng 5,6 - 6,2 và theo Fenixova, khoảng pH tối thích cho hoạt động dextrin hóa của amylase từ A. oryzae nằm trong khoảng 6,0 - 7,0 [5]. Từ những phân tích ở trên, luận án chọn pH thích hợp để thủy phân car tạo oligocar bằng enzyme Termamyl là pH=6,5. 3.3.2.3. Xác định nhiệt độ thích hợp cho quá trình thủy phân Tiến hành 10 mẫu thí nghiệm thủy phân car ở các nhiệt độ khác nhau, thay đổi trong khoảng 50 ÷ 950C, bước nhảy nhiệt độ là 50C. Các thông số cố định cho hoạt động của enzyme Termamyl: nồng độ car 1,0%, pH 6,5, nồng độ enzyme 0,5%. Sau 14giờ thủy phân, lấy mẫu xác định hàm lượng đường khử tạo thành và mức độ thủy phân car, kết quả phân tích được trình bày ở hình 3.21 ÷ 3.22 và bảng 2.11 ÷ 2.12 phụ lục 2. Hình 3.21. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hàm lượng đường khử tạo thành bằng enzyme Temamyl 120L Hình 3.22. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến mức độ thủy phân carrageenan bằng enzyme Termamyl 120L 93 Kết quả phân tích ở hình 3.21 ÷ 3.22 cho thấy trong khoảng nhiệt độ thủy phân từ 50 ÷ 850C, càng tăng nhiệt độ mức độ thủy phân car của enzyme Termamyl 120L càng tăng. Cụ thể, ở nhiệt độ 850C, mức độ thủy phân car của enzyme Termamyl 120L cao nhất và đạt mức 47,01%, cao gấp tương ứng mức độ thủy phân car của enzyme này ở các nhiệt độ: 500C, 600C, 700C, 800C là 1,64; 1,39; 1,19; 1,05 lần. Kết quả xử lý bằng phần mềm SPSS cho thấy sự khác biệt về mức độ thủy phân car của enzyme này ở nhiệt độ: 500C, 600C, 700C, 800C là sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Khi tăng nhiệt độ thủy phân > 850C, mức độ thủy phân car của enzyme Termamyl 120L lại giảm. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ đến hàm lượng đường khử tạo thành trong quá trình thủy phân car bằng enzyme Termamyl 120L: trong khoảng nhiệt độ thủy phân từ 500C ÷ 800C, hàm lượng đường khử tạo thành trong dung dịch thủy phân tăng đều theo nhiệt độ và khi nhiệt độ thủy phân là 850C thì hàm lượng đường khử tạo thành cao nhất, sau đó không tăng. Kết quả này có thể lý giải là do enzyme là một protein nên nhiệt độ ảnh hưởng đến độ bền cấu trúc của protein. Khi nhiệt độ tăng quá cao có thể làm dãn mạch cấu trúc của protein từ đó ảnh hưởng tới cấu trúc không gian của trung tâm hoạt động của enzyme và làm ảnh hưởng tới hoạt tính của enzyme. Từ những phân tích ở trên, luận án quyết định chọn nhiệt độ thủy phân car bằng enzyme Termamyl 120L là 850C. 3.3.2.4. Xác định nồng độ carrageenan Tiến hành 5 mẫu thí nghiệm thủy phân car với nồng độ car thay đổi trong khoảng 0,5 ÷ 1,5%, bước nhảy nồng độ car là 0,5%. Các thí nghiệm đều thực hiện ở nhiệt độ 850C, nồng độ enzyme Termamyl 120L 0,5% và pH 6,5. Sau 14 giờ thủy phân, lấy mẫu xác định hàm lượng đường khử tạo thành và mức độ thủy phân car, kết quả phân tích được trình bày ở hình 3.23 ÷ 3.24 và bảng 2.13 ÷ 2.14 phụ lục 2. 0.28 0.35 0.42 0.49 0.56 0.63 0.70 H àm l ư ợ ng đ ư ờ ng k hử t ạo t hà nh ( m g/ m l) Hình 3.23. Ảnh hưởng của nồng độ carrageenan đến hàm lượng đường khử tạo thành bằng enzyme Termamyl 120L 94 65 75 85 95 M ứ c độ t hủ y ph ân c ar ( % ) Hình 3.24. Ảnh hưởng của nồng độ carrageenan đến mức độ thủy phân car bằng enzyme Termamyl 120L Kết quả phân tích ở hình 3.23 và 3.24 cho thấy mức độ thủy phân car bằng enzyme Termamyl 120L với nồng độ cơ chất car trong khoảng từ 0,5 ÷ 1,0% khác biệt không nhiều. Kết quả phân tích bằng phần mềm SPSS về sự sai khác của mức độ thủy phân car khi tăng nồng độ car trong khoảng 0,5 ÷ 1,0% cho thấy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này chứng tỏ sự khác nhau về mức độ thủy phân car ở các nồng độ car trong khoảng 0,5 ÷ 1,0% chỉ là sai số trong quá trình thí nghiệm. Khi tăng nồng độ car > 1,0% mức độ thủy phân giảm dần và kết quả xử lý bằng phần mềm SPSS cho thấy sự khác biệt về mức độ thủy phân car ở các nồng độ nồng độ car > 1,0% là sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05), tức càng tăng nồng độ car trên 1% thì sự khác biệt về mức độ thủy phân car càng thể hiện rõ. Mặt khác, khi phân tích về hàm lượng đường khử được tạo thành do tác động của enzyme Termamyl 120L cho thấy hàm lượng đường khử tạo thành trong phản ứng thủy phân car đạt mức cao nhất khi nồng cơ chất car là 1,0% (hình 3.23). Khi tăng nồng độ car trên 1% thì hàm lượng đường khử tạo thành trong phản ứng có xu hướng không tăng. Kết quả này chứng tỏ nồng độ car 1% là phù hợp với các điều kiện thí nghiệm đã thực hiện. Từ những phân tích ở trên, luận án chọn nồng độ car thích hợp cho quá trình thủy phân car thành oligocar bằng enzyme Termamyl 120L là 1,0%. 95 3.3.2.5. Xác định thời gian thủy phân Tiến hành 11 mẫu thí nghiệm thủy phân car với thời gian thay đổi từ 10 ÷ 20 giờ, bước nhảy thời gian thủy phân là 1giờ. Tất cả các thí nghiệm đều thực hiện ở nhiệt độ 850C, nồng độ enzyme Termamyl 120L 0,5%, nồng độ car 1,0% và pH 6,5. Sau 10 giờ, 11giờ, 12giờ, 13giờ,19giờ, 20 giờ thủy phân, lấy mẫu xác định hàm lượng đường khử tạo thành và mức độ thủy phân car và kết quả phân tích được trình bày ở hình 3.25 ÷ 3.26 và bảng 2.15 ÷ 2.16 phụ lục 2. Kết quả phân tích ở hình 3.25 và 3.26 cho thấy trong khoảng thời gian thủy phân từ 10 ÷ 16giờ, càng tăng thời gian thủy phân, mức độ thủy phân car càng tăng. Cụ thể, ở thời gian thủy phân 16 giờ cho mức độ thủy phân car cao nhất và đạt mức 90,84%, cao gấp tương ứng mức độ thủy phân ở các nhiệt độ: 10giờ, 11giờ, 12giờ, 13giờ, 14giờ, 15giờ là 1,154; 1,124; 1,096; 1,070; 1,047; 1,026 lần. Kết quả xử lý bằng phần mềm SPSS cho thấy, có sự khác biệt về mức độ thủy phân car ở các thời gian thủy phân ≤16giờ là sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Khi tăng thời gian thủy phân >16giờ, mức độ thủy phân car có tăng nhưng không đáng kể và kết quả phân tích bằng phần mềm SPSS về sự sai khác về mức độ thủy phân car tương ứng với thời gian thủy phân >16giờ là sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này chứng tỏ khi thời gian thủy phân >16giờ sự tăng mức độ thủy phân car chỉ là sai số trong quá trình thí nghiệm. Như vậy, thủy phân car ở thời gian thủy phân >16giờ không hiệu quả. Kết quả phân tích về hàm lượng đường khử tạo thành trong phản ứng cũng có quy luật tương tự. Hình 3.25. Ảnh hưởng của thời gian thủy phân đến hàm lượng đường khử tạo thành bằng enzyme Termamyl 120L 96 Hình 3.26. Ảnh hưởng của thời gian thủy phân đến mức độ thủy phân bằng enzyme Termamyl 120L Kết quả này có thể giải thích: Enzyme Termamyl 120L là polysaccharase, trong giai đoạn đầu của quá trình thủy phân car, enzyme này sẽ phân cắt car thành oligocar làm cho độ nhớt giảm và hàm lượng đường khử tạo thành tăng lên. Tuy thế nếu kéo dài thời gian thủy phân, đến giai đoạn sau enzyme sẽ tiếp tục phân cắt oligocar thành các đường đơn. Do vậy nếu thời gian thủy phân dài quá sẽ làm hiệu quả thu oligocar sẽ thấp do mạch oligocar quá ngắn dẫn tới rất khó thu nhận. Từ những phân tích ở trên, luận án chọn thời gian thủy phân car thành oligocar bằng enzyme Termamyl 120L là 16giờ. 3.3.2.6. Đề xuất quy trình thủy phân carrageenan bằng enzyme Termamyl 120L Từ các nghiên cứu ở trên cho phép đề xuất quy trình sản xuất oligocar và được trình bày ở hình 3.27. Hình 3.27. Quy trình sản xuất oligocarrageenan từ rong sụn K. alvarezii (Doty) Doty Carrageenan Sấy khô Cô đặc Oligocarrageenan Lọc Bất hoạt enzyme Thủy phân Nồng độ enzyme: 0,5% Nhiệt độ: 850C pH: 6,5 Nồng độ car: 1,0% Thời gian: 16 giờ Enzyme, tạp chất 97 * Thuyết minh quy trình + Carrageenan: sản xuất theo sơ đồ quy trình sản xuất car từ rong sụn K. alvarezii (Doty) Doty bằng phương pháp sử dụng enzyme Viscozyme L (hình 3.7). Kết quả phân tích một số chỉ tiêu hóa lý, chỉ tiêu vi sinh vật của car được trình bày ở các bảng 3.14 ÷ 3.15. + Thủy phân: thủy phân cắt mạch car thành oligocar bằng enzyme Termamyl 120L với các thông số: nồng độ enzyme Termamyl 120L: 0,5%; nồng độ car: 1,0%; pH: 6,5; nhiệt độ: 850C; thời gian thủy phân: 16giờ. + Bất hoạt enzyme: đun sôi để bất hoạt enzyme trong thời gian 15phút. + Lọc: sau khi bất hoạt enzyme, tiến hành lọc dịch thủy phân qua hai lớp vải mịn nhằm loại bỏ protein enzyme bị kết tủa và tạp chất. + Cô đặc: tiến hành cô quay chân không để cô đặc dịch thủy phân. Trong quá trình cô đặc tiến hành ở nhiệt độ thấp hơn 700C do nếu cô đặc ở nhiệt độ trên 700C có thể làm oligocar bị biến đổi sẫm mầu dưới tác dụng của nhiệt độ cao. Khi thể tích dịch thủy phân giảm còn khoảng 1/2 thể tích ban đầu thì dừng lại. + Sấy khô: tiến hành đông khô dịch thủy phân đã cô đặc bằng máy đông khô Lyobeta35 (Tây Ban Nha) ở áp suất p = 104 ÷ 105 mbar, nhiệt độ t0 = -400C ÷ -100C, trong thời gian từ 36 đến 48 giờ trong. Khi quá trình đông khô kết thúc, lấy sản phẩm và đóng gói bằng bao bì PA, ghép mí và hút chân không, bảo quản ở nhiệt độ thấp để dùng trong suốt quá trình nghiên cứu. 3.4. NGHIÊN CỨU TINH SẠCH VÀ XÁC ĐỊNH MỘT SỐ ĐẶC TÍNH CẤU TRÚC CỦA OLIGOCARRAGEENAN 3.4.1. Xác định nhiệt độ tinh sạch Để có thể lựa chọn kỹ thuật tinh sạch oligocar, trước tiên, luận án tiến hành phân tích thành phần hóa học chính của car thu nhận từ rong sụn. Kết quả trình bày trên bảng 3.16. Bảng 3.16. Thành phần hóa học chính của mẫu oligocarrageenan trước tinh sạch Stt Các chỉ tiêu Hàm lượng (%) 1 Carbohydrat 47,7 ± 0,03 2 Protein 5,3 ± 0,02 3 Lipid 0,5 ± 0,01 4 Khoáng 18,1 ± 0,02 5 Sunphat 16,9 ± 0,02 6 Nước 10,8 ± 0,02 98 Kết quả kết quả phân tích ở bảng 3.16 cho thấy thành phần hóa học chính của mẫu oligocar thô trước tinh sạch chủ yếu gồm carbohydrat, sunphat, tro, nước, lipid và protein. Trong đó, các thành phần carbohydrat, sunphat là thành phần của oligocar. Như vậy trong thành phần tạp chất chủ yếu là lipid, protein. Để tinh sạch oligocar, trước tiên luận án cần phải tiến hành xác định điều kiện nóng chảy của oligocar. Kết quả xác định nhiệt độ đông đặc và nhiệt độ tan chảy của oligocar được trình bày ở bảng 3.17. Bảng 3.17. Nhiệt độ đông đặc và tan chảy của oligocarrageenan thô Stt Chỉ tiêu Nhiệt độ (0C) 1 Nhiệt độ đông đặc 32,6 ± 0,3 2 Nhiệt độ tan chảy 48,5 ± 0,5 Kết quả phân tích ở bảng 3.17 cho thấy oligocar thô có nhiệt độ nóng chảy và nhiệt độ đông đặc lần lượt là 48,50C và 32,60C. Như vậy, ở nhiệt độ < 32,60C oligocar tồn tại ở trạng thái đông đặc nên không thể thực hiện được quá trình tinh sạch ở nhiệt độ này. Ở nhiệt độ > 48,50C oligocar tồn tại ở trạng thái nóng chảy và hòa tan trong dịch thể nên sẽ dễ dàng cho việc kết tủa loại bỏ các tạp chất lẫn vào oligocar chẳng hạn như loại protein ra khỏi oligocar. Từ phân tích trên, luận án chọn nhiệt độ kết tủa protein lẫn với oligocar là nhiệt độ >48,50C. Tuy vậy, trong quá trình thực nghiệm hòa tan oligocar trong nước cho thấy ở nhiệt độ ≥ 600C dung dịch oligocar có trạng thái trong suốt và thể hiện là dung dịch đồng nhất. Do vậy, luận án đã chọn nhiệt độ hòa tan oligocar là 600C. 3.4.2. Xác định nồng độ ethanol kết tủa phân đoạn protein Tiến hành 7 thí nghiệm kết tủa protein hòa tan trong dung dịch oligocar bằng ethanol 960 với nồng độ ethanol đạt được khi kết tủa thay đổi từ 10 ÷ 40%, bước nhảy nồng độ ethanol là 5%. Tất cả các mẫu thí nghiệm đều sử dụng dung dịch oligocar được hòa tan theo cách thức như sau: hòa tan 50g oligocar/1 lít nước cất ở nhiệt độ 600C và khuấy đều cho đến khi tan hoàn toàn. Các mẫu thí nghiệm kết tủa protein được bổ sung ethanol cho đạt được nồng độ thí nghiệm và tiến hành khuấy đều để protein và tạp chất có trong dung dịch oligocar kết tủa. Sau đó, ly tâm hỗn hợp trên máy ly tâm với tốc độ 10.000 v/phút trong 15phút. Lọc thu dung dịch oligocar và tách 99 kết tủa ra khỏi dung dịch. Xác định hàm lượng protein, lipid, carbohydrate trong tủa và trong dung dịch, kết quả được trình bày trên bảng 3.18. Kết quả phân tích ở bảng 3.18 cho thấy khi tăng nồng độ ethanol từ 10% ÷ 40%, hàm lượng lipid trong dung dịch thay đổi không đáng kể trong khi hàm lượng carbohydrat và protein thay đổi mạnh do quá trình kết tủa protein và do sự kết tủa của protein lôi cuốn theo cả carbohydrat trong dung dịch. Cụ thể, khi sử dụng nồng độ ethanol gây kết tủa trong khoảng từ 10% ÷ 30% thì hàm lượng protein bị kết tủa tăng theo nồng độ ethanol sử dụng. Cụ thể, tương ứng với nồng độ ethanol sử dụng kết tủa là 10% ÷ 30%, hàm lượng protein trong kết tủa tương ứng là 1,13g và 2,40g. Kết quả phân tích cũng cho thấy tương ứng với nồng độ ethanol đã sử dụng trong khoảng từ 10% ÷ 30% không thấy hàm lượng carbohydrate và lipid chứng tỏ ở nồng độ này carbohydrat và lipid chưa bị kết tủa cùng protein. Kết quả phân tích hàm lượng các chất trong dung dịch oligocar cũng minh chứng cho nhận định này (bảng 3.18). Khi tiếp tục tăng nồng độ ethanol > 30%, cụ thể khi nồng độ ethanol ≥ 35% bắt đầu xuất hiện kết tủa oligocar và hàm lượng ethanol càng tăng lớn hơn 35% thì hàm lượng oligocar trong kết tủa càng tăng. Trong khi đó, kết quả phân tích protein ở kết tủa cho thấy khi tăng nồng độ ethanol sử dụng ≥ 35% thì hàm lượng protein trong kết tủa có tăng nhưng không đáng kể và sự tăng hàm lượng protein trong kết tủa giữa các mẫu sử dụng nồng độ ethanol gây kết tủa ≥ 35% không có ý nghĩa về mặt thống kê. Bảng 3.18. Ảnh hưởng của nồng độ ethanol tới hàm lượng protein, lipid, carbohydrate trong kết tủa và trong dung dịch oligocar sau tinh chế Hàm lượng các chất trong kết tủa (g) Hàm lượng các chất trong dung dịch oligocar (g/l) Nồng độ ethanol (%) protein lipid carbohydrate protein lipid carbohydrate 10 1,13 - - 1,38 0,21 23,2 15 1,54 - - 0,97 0,2 23,1 20 1,81 - - 0,71 0,21 22,9 25 2,12 - - 0,39 0,19 23,3 30 2,40 - - 0,09 0,21 23,1 35 2,40 - 0,93 0,10 0,22 22,3 40 2,41 - 1,47 0,10 0,21 21,9 100 Kết quả này có thể lý giải do ethanol là dung môi hữu cơ có khả năng tan tốt trong nước. Trong cấu trúc của ethanol có nhóm hydroxyl (-OH) có khả năng liên kết với nước. Do vậy, khi bổ sung ethanol vào các dung dịch như dung dịch protein, car, oligocar, ethanol sẽ cạnh tranh nước với các polymer như protein, car, oligocar và làm mất nước tự do, nước liên kết của các polymer này, gây nên hiện tượng tập hợp của các polymer protein, car, oligocar thành các tập hợp lớn không tan trong dung dịch chứa ethanol. Nồng độ ethanol càng lớn, phân tử lượng của chất tan càng lớn thì quá trình kết tủa càng nhanh. Do vậy, người ta hay sử dụng ethanol với nồng độ khác nhau để gây kết tủa và kết tủa phân đoạn các polymer có trọng lượng phân tử khác nhau nhưng cùng tan trong một dung dịch. Theo nguyên tắc, các polymer có khối lượng phân tử lớn hơn sẽ bị kết tủa trước ở nồng độ ethanol thấp hơn và các polymer có khối lượng phân tử nhỏ hơn sẽ bị kết tủa sau ở nồng độ ethanol cao hơn. Theo nguyên tắc này, nghiên cứu sinh đã dùng ethanol để kết tủa phân đoạn để loại bỏ protein trước khi kết tủa car và oligocar. Nguyên nhân là do, protein là một polymer có trọng lượng phân tử lớn, dễ bị kết tủa bởi ethanol hơn car và oligocar nên protein bị kết tủa trước với nồng độ ethanol thấp hơn. Ngoài ra, do các đặc tính lý hóa của protein - đó là một hợp chất cao phân tử dễ bị kết tủa trong môi trường ethanol nhất là ở trong môi trường ethanol kết hợp với nhiệt độ cao ở nhiệt độ gây biến tính protein (600C) ngay cả khi ở nồng độ ethanol thấp (Hóa sinh Công nghiệp - Lê Ngọc Tú, 2002). Vì thế, ở nồng độ ethanol ≤ 30% oligocar chưa bị kết tủa nên trong thành phần của kết tủa không có carbohydrat và chỉ khi nồng độ ethanol ≥ 35%, oligocar mới bị kết tủa. Do vậy, nếu sử dụng nồng độ ethanol ≥ 35% sẽ làm lôi cuốn theo kết tủa protein một lượng oligocar dẫn đến hiệu suất tinh sạch sẽ thấp. Từ các phân tích trên, luận án quyết định chọn nồng độ ethanol sử dụng để tủa protein trong dung dịch oligocar thô là 30% ở nhiệt độ 600C. 3.4.3. Xác định chế độ kết tủa oligocarrageenan trong dung dịch oligocarrageenan sau kết tủa protein 3.4.3.1. Xác định nồng độ ethanol kết tủa oligocarrageenan Tiến hành 9 thí nghiệm kết tủa oligocar trong dung dịch bằng ethanol 960 với nồng độ ethanol đạt được khi kết tủa thay đổi từ 50% ÷ 90%, bước nhảy nồng độ ethanol là 5%. Tất cả các mẫu thí nghiệm đều sử dụng dung dịch oligocar được pha theo cách thức như sau: hòa tan 50g oligocar /1 lít nước cất ở nhiệt độ 600C và khuấy 101 đều cho đến khi tan hoàn toàn. Sau khi hòa tan th
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_san_xuat_oligocarrageenan_tu_rong_sun_kap.pdf