Luận án Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản

Luận án Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 148 trang nguyenduy 04/10/2025 90
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản

Luận án Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản
 tương quan thuận giữa nội độc tố huyết tương với nội độc tố trong sữa 
đầu (r = 0,35; p = 0,004). Hiện tượng ỉa chảy ở lợn con là phổ biến ở những trại có 
MMA, nhất là ở những lợn mẹ đẻ lứa 1 và lứa 2. 
Baer and Bilkei (2005), khi nghiên cứu vấn đề này cho rằng lợn đẻ 
nhiều lứa dễ mắc hội chứng MMA. Khi siêu âm tuyến vú, sẽ có nhiều hình 
ảnh “tạo dội cao” (hyperechologic image) và có nhiều biến đổi đại thể ở 
tuyến vú hơn so với lợn đẻ lứa 1 và lứa 2 (P < 0,01). 
 55 
Đối với đàn nái đẻ nhiều lứa thì sức khoẻ và sức đề kháng giảm sút, sức 
rặn đẻ yếu, sự co bóp của tử cung giảm, không đủ cường độ để đẩy thai cũng như 
các sản dịch ra ngoài, dẫn đến sát nhau và kế phát viêm tử cung, viêm vú, mất 
sữa. Nhau thai còn tồn trong tử cung gây tiết Folliculin ngăn trở sự phân tiết 
Prolactin làm cho tuyến vú không sinh sữa dẫn đến viêm vú. Mặt khác thời gian 
phục hồi của tử cung chậm, thời gian đóng kín cổ tử cung dài hơn, là cơ hội cho 
vi khuẩn xâm nhập và gây viêm. 
3.4. Ảnh hưởng của mùa vụ đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA 
Hội chứng MMA do nhiều nguyên nhân gây nên trong đó nguyên nhân 
chính do các loại vi khuẩn và điều kiện thời tiết khí hậu có ảnh hưởng lớn tới sự 
tồn tại, phát sinh, phát triển và gây bệnh của các loại vi khuẩn. 
Nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, thời tiết khí hậu được chia làm 
bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông do đó cũng giống như các bệnh nhiễm trùng 
khác, thời tiết, khí hậu từng mùa cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA. 
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của mùa vụ đến tỷ lệ mắc MMA 
tại các trang trại. Kết quả được trình bày tại bảng số 3.4. 
Bảng 3.4. Tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA qua các mùa trong năm 
Mùa 
Số lợn theo dõi 
(con) 
Số lợn mắc 
MMA (con) 
Tỷ lệ 
(%) 
Xác suất 
 (P) 
Xuân 1.757 901 51,28a 
< 0,01 
Hạ 1.864 995 53,37a 
Thu 1.954 854 43,70b 
Đông 1.937 892 46,05b 
Tổng số 7.512 3.642 48,48 
 (Ghi chú: Trong cùng một cột, sự sai khác giữa các giá trị có một chữ cái 
giống nhau là không có ý nghĩa). 
Yếu tố thời tiết, mùa vụ ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA. 
Cụ thể tại bảng 3.4: mùa hạ có tỷ lệ mắc cao nhất 53,37%, tiếp theo là mùa xuân 
 56 
51,28%, mùa đông 46,05%, mùa thu có tỷ lệ mắc thấp nhất 43,70%. Theo chúng 
tôi sự khác nhau về tỷ lệ mắc hội chứng MMA ở đàn lợn nái là do ảnh hưởng của 
sự biến đổi các chỉ tiêu về thời tiết khí hậu của các mùa khác nhau. 
Mùa hè, nhiệt độ chuồng đẻ cao, vào những buổi trưa có khi lên tới 
360C - 380C. Nhiệt độ này vượt xa so với nhiệt độ thích hợp cho lợn nái là 
260C - 280C. Nếu trong chuồng đẻ không có biện pháp điều chỉnh thích hợp thì 
nhiệt độ còn cao hơn, làm cho lợn nái mệt mỏi, khả năng thu nhận thức ăn giảm, sức 
khoẻ và sức đề kháng giảm nên tỷ lệ mắc bệnh tăng cao. Mặt khác, nhiệt độ cao còn 
là điều kiện thúc đẩy nhanh sự phân huỷ các sản phẩm của quá trình đẻ, là môi 
trường thuận lợn cho vi khuẩn có sẵn trong tử cung phát triển nhanh về số lượng và 
độc lực gây viêm tử cung dẫn đến nhiễm trùng huyết, gây viêm vú và mất sữa. Mùa 
xuân, do độ ẩm không khí cao, việc vệ sinh chuồng trại kém là điều kiện thuận lợi 
cho mầm bệnh phát triển và gây bệnh. Mùa thu và mùa đông nhiệt độ môi trường 
thấp, khí hậu mát mẻ con vật thu nhận thức ăn tốt, sức khoẻ và sức đề kháng được 
tăng cường nên tỷ lệ mắc hội chứng MMA giảm. 
Backstrom et al. (1984) nghiên cứu 16.405 lượt đẻ của lợn trên 31 đàn nái 
sinh sản ở bang Illinois (Mỹ), cho thấy hội chứng MMA xảy ra nhiều nhất 
(10,3%) vào quý III hàng năm vì thời tiết không thuận lợi cho sức khỏe lợn; 
Masalmeh et al. (1990) cho biết mùa vụ ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ mắc hội 
chứng MMA. 
Ringarp (1960), cho biết yếu tố mùa vụ có ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc hội 
chứng mất sữa sau đẻ ở lợn nái, cụ thể: tỷ lệ mắc thấp nhất vào tháng giêng và 
tháng hai, tỷ lệ mắc cao nhất vào tháng tư hàng năm. 
3.5. Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của lợn nái 
Lợn mắc hội chứng MMA làm kéo dài thời gian động dục, tỷ lệ động dục 
thấp (do ảnh hưởng của viêm tử cung). Để đánh giá mức độ ảnh hưởng của hội 
chứng MMA đối với các chỉ tiêu sinh sản. Chúng tôi tiến hành theo dõi một số 
chỉ tiêu năng suất sinh sản của nhóm lợn mắc hội chứng MMA và của nhóm lợn 
bình thường. Kết quả được trình bày tại bảng 3.5a. 
 57 
Bảng 3.5a. Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến một số chỉ tiêu sinh sản 
ở lợn nái 
Địa điểm 
nghiên 
cứu 
Nhóm lợn 
nghiên cứu 
Số lợn 
nái 
theo 
dõi 
(con) 
Thời gian 
động dục 
lại sau cai 
sữa (ngày) 
( X ± SD) 
Số 
động 
dục 
lại 
(con) 
Tỷ lệ 
động 
dục 
lại 
(%) 
Số 
thụ 
thai 
(con) 
Tỷ lệ 
thụ 
thai 
 (%) 
Hà Nội Không mắc MMA 120 5,39
b±1,18 115 96,00 115 100 
Mắc MMA 200 6,20a±1,31 170 85,00 162 81,00 
Hưng Yên 
Không mắc MMA 140 5,37b±0,80 140 100 138 98,50 
Mắc MMA 200 6,12a±0,87 176 88,00 162 92,00 
Hải Dương 
Không mắc MMA 145 5,24b±0,93 145 100 143 98,60 
Mắc MMA 245 6,32a ±1,16 213 87,00 198 93,00 
Bắc Ninh 
Không mắc MMA 150 5,28b±0,68 150 100 148 98,70 
Mắc MMA 245 6,29a±1,30 221 90,00 201 91,00 
Thông thường, lợn nái động dục lại sau cai sữa từ 4 đến 6 ngày. Tuy nhiên, 
theo nghiên cứu của chúng tôi: thời gian động dục lại sau cai sữa ở nhóm lợn mắc 
hội chứng MMA dài hơn so với nhóm lợn không mắc hội chứng MMA tới hơn 1 
ngày. Tỷ lệ động dục lại và tỷ lệ thụ thai sau một chu kỳ của nhóm lợn nái mắc hội 
chứng MMA thấp hơn ở nhóm lợn bình thường (bảng 3.5a). Như vậy, theo chúng tôi 
khi lợn mắc hội chứng MMA làm kéo dài thời gian động dục lại, giảm khả năng thụ 
thai, từ đó làm giảm năng suất sinh sản. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù 
hợp với công bố của Hoy (2004) khi nghiên cứu ảnh hưởng của hội chứng MMA đến 
năng suất sinh sản của lợn nái trong 09 năm (1995 - 2003) và đây là nguyên nhân làm 
số lứa đẻ/nái/năm giảm, kéo theo giảm số con/nái/năm, tăng giá thành sản xuất lợn 
con do phải tăng chi phí thức ăn, thuốc thú y và tăng ngày công lao động. 
Cùng với việc so sánh tỷ lệ động dục lại, tỷ lệ thụ thai sau một chu kỳ ở 
nhóm lợn mắc hội chứng MMA và nhóm lợn bình thường, chúng tôi tiếp tục theo 
dõi các chỉ tiêu liên quan đến năng suất sinh sản của lợn như: số lợn con sinh 
ra/ổ, số lợn con cai sữa/ổ, trọng lượng lợn con lúc 21 ngày tuổi Kết quả được 
trình bày tại bảng 3.5b 
Bảng 3.5b. Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của lợn nái 
*Ghi chú: Trong cùng 1 cột, các giá trị trung bình có chữ cái khác nhau là khác nhau có ý nghĩa thống kê (P < 0,01) 
Địa điểm 
nghiên 
cứu 
Nhóm lợn nghiên 
cứu 
Số lợn nái 
theo dõi 
(con) 
Số lợn 
con 
sinh ra 
(con) 
Bình quân số 
lợn con sinh ra 
còn sống sau 24 
giờ/ổ (con) 
Số lợn con 
cai sữa 
(con) 
Bình quân 
số lợn cai 
sữa/ổ (con) 
Trọng lượng lợn 
con 21 ngày tuổi 
(kg/con) 
( X ± SD) 
Hà Nội 
Không mắc MMA 120 1.374 11,21 1.263 10,98 6,75a±0,15 
Mắc MMA 200 2.157 10,5 1.636 10,10 5,37b±0,17 
Hưng Yên 
Không mắc MMA 140 1.645 11,09 1.511 10,95 6,36b±0,11 
Mắc MMA 200 2.130 10,35 1.596 9,85 5,33a±0,18 
Hải 
Dương 
Không mắc MMA 145 1.680 11,25 1.567 10,96 6,57b±0,14 
Mắc MMA 245 2.520 10,25 1.940 9,80 5,48a±0,13 
Bắc Ninh 
Không mắc MMA 150 1.746 11,6 1.672 11,30 6,32a±0,16 
Mắc MMA 245 2.535 10,26 1.829 9,10 5,38b±0,14 
58
 59 
Kết quả ở bảng 3.5b cho thấy: số lợn con sinh ra còn sống sau 24 giờ/ổ và 
trọng lượng lợn con lúc 21 ngày tuổi của những lợn nái mắc hội chứng MMA thấp 
hơn so với các chỉ tiêu này của lợn nái không mắc hội chứng MMA (bảng 3.5b). 
Với lợn con sơ sinh, 3 ngày đầu sau khi sinh là thời kỳ quan trọng nhất cho 
sự sống của lợn. Do dự trữ glucogen trong cơ thể lợn sơ sinh rất thấp và quá trình 
sản sinh glucogen không đủ, sự giảm đường huyết có thể làm cho lợn con giảm 
nhanh glucose do bú sữa đầu không đủ nên lợn con chết vì đói và thiếu đường huyết. 
Bên cạnh đó còn do sự chuyển hóa không đủ những yếu tố miễn dịch từ mẹ sang 
con (Sujatha et al., 2003; dẫn từ Gerjets, 2011). 
Theo Đặng Vũ Bình và Nguyễn Văn Thắng (2006), bình quân số lợn con 
cai sữa/ổ là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng suất sinh sản 
của lợn nái. Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi: Khối lượng lợn con lúc 21 
ngày tuổi, bình quân số lợn con cai sữa/ổ ở lợn nái bình thường cao hơn so với 
lợn nái mắc hội chứng MMA, điều này đồng nghĩa với việc tỷ lệ chết của lợn con 
sau cai sữa ở lợn mắc hội chứng MMA cao hơn, lợn con sau cai sữa dễ mắc các 
bệnh truyền nhiễm, kéo dài thời gian nuôi thịt, giảm lợi nhuận chăn nuôi. 
Những tổn thất do hội chứng MMA gây ra được các tác giả nêu lên gồm: 
- Với lợn mẹ: kéo dài thời gian động dục lại sau đẻ, giảm tỷ lệ thụ thai, 
giảm số lợn con sinh ra trong ổ, sẩy thai, giảm số lứa đẻ trong năm, giảm sản 
lượng và chất lượng sữa Hậu quả là giảm khả năng sinh sản của lợn nái ở các 
chu kỳ sinh sản tiếp theo. 
- Với lợn con: tăng tỉ lệ tiêu chảy của lợn con theo mẹ (do số lượng và 
chất lượng sữa mẹ giảm hoặc biến chất), lợn con còi cọc, bú được ít sữa đầu, tăng 
trọng thấp, tăng tỷ lệ chết dẫn đến giảm số đầu lợn con do lợn mẹ sản xuất ra 
trong năm. 
- Tăng giá thành chăn nuôi, giảm hiệu quả kinh tế. 
(Nguyễn Thị Hương, 2010; Preibler and Kemper, 2011; Svendsen, 1992; 
Công ty Nhân Lộc, 2011; Nguyễn Thị Hồng, 2007). 
Kết quả của chúng tôi phù hợp với các công trình của các tác giả nêu trên. 
 60 
3.6. Kết quả kiểm tra huyết cầu và huyết sắc tố của lợn mắc hội chứng MMA 
Ở trạng thái sinh lý, máu của động vật có những chỉ tiêu ổn định. Khi 
động vật bị bệnh thì tính chất, thành phần của máu có những thay đổi tương ứng 
và đặc hiệu, thông qua những chỉ tiêu này chúng ta có thể chẩn đoán được bệnh. 
Vì vậy, xét nghiệm máu là một trong những xét nghiệm cơ bản để đánh giá tình 
trạng sức khỏe con vật, giúp cho việc chẩn đoán bệnh được thuận lợi. Chúng tôi 
kiểm tra một số chỉ tiêu sinh lý máu ở lợn nái mắc hội chứng MMA, so sánh với 
các chỉ tiêu này ở lợn nái bình thường (bảng 3.6). 
Bảng 3.6. Kết quả kiểm tra một số chỉ tiêu huyết học của lợn nái mắc hội 
chứng MMA và lợn nái bình thường 
Chỉ tiêu theo dõi 
Nhóm lợn nái 
mắc hội chứng 
MMA (n = 50) 
xmX±
Nhóm lợn nái 
bình thường 
(n = 50) 
xmX±
Xác 
xuất 
(P) 
Số lượng hồng cầu (triệu/mm3) 6,20 ± 0,13 5,57 ± 0,46 
< 0,05 
Hàm lượng Hb (g%) 12,11 ± 0,25 9,08 ± 1,04 
Tỷ khối huyết cầu (%) 40,73 ± 0,43 35,75 ± 0,45 
Thể tích hồng cầu (µm3) 67,06 ± 0,38 63,46 ± 0,37 
Nồng độ huyết sắc tố (%) 30,11 ± 0,37 28,05 ± 0,13 
Lượng huyết sắc tố trong một hồng 
cầu (Pg) 20,30 ± 0,16 18,19 ± 0,10 
Kết quả theo dõi các chỉ số liên quan đến huyết cầu và huyết sắc tố như 
số lượng hồng cầu; hàm lượng hemoglobin (Hb); tỷ khối huyết cầu; thể tích 
hồng cầu; nồng độ huyết sắc tố; lượng huyết sắc tố trong một hồng cầu... của 50 
lợn nái mắc hội chứng MMA đã được tổng hợp và so sánh với các chỉ số này 
của 50 lợn nái bình thường cho thấy: biến động các chỉ tiêu theo dõi có sự sai 
khác rõ rệt giữa hai nhóm lợn nái nghiên cứu (P < 0,05) (bảng 3.6). Số lượng 
hồng cầu, hàm lượng huyết sắc tố, tỷ khối huyết cầu, thể tích hồng cầu, nồng độ 
huyết sắc tố và lượng huyết sắc tố trong một hồng cầu của lợn nái mắc hội 
 61 
chứng MMA đều cao hơn so với các chỉ tiêu này của lợn nái bình thường. Cụ 
thể, số lượng hồng cầu của lợn nái mắc hội chứng MMA là 6,20 ± 0,13 
triệu/mm3, của lợn nái bình thường là 5,57 ± 0,46 triệu/mm3. Số lượng hồng cầu 
của lợn mắc hội chứng MMA cao hơn số lượng hồng cầu của lợn bình thường 
có thể do độc tố của vi khuẩn và các sản phẩm của quá trình viêm làm tăng nhu 
cầu oxy của các mô bào, kích thích thận sản sinh Erythropoietin thúc đẩy tủy 
xương sản sinh và tăng cường tuần hoàn hồng cầu nhằm đáp ứng yêu cầu vận 
chuyển oxy của cơ thể. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với dẫn liệu của 
Sjaastad et al. (2010). 
Hàm lượng huyết sắc tố của lợn mắc hội chứng MMA là 12,11 ± 0,25g%, 
cao hơn hàm lượng huyết sắc tố của lợn bình thường (9,08 ± 1,04g%). Hb tăng 
có tác dụng tăng vận chuyển oxy, cacbonic và điều hòa độ pH của máu. Hàm 
lượng hemoglobin tỷ lệ thuận với số lượng hồng cầu trong máu. Theo Nguyễn 
Đức Hưng (2008), số lượng hồng cầu tăng trong một số trường hợp như: lao 
động nặng, mất nước, ở độ cao trên 700 m so với mặt nước biển... So sánh với 
dẫn liệu trên thì khi lợn nái mắc hội chứng MMA có số lượng hồng cầu tăng, do 
đó hàm lượng huyết sắc tố cũng tăng so với hàm lượng huyết sắc tố của lợn nái 
bình thường. 
Tương tự các chỉ số khác như tỷ khối huyết cầu, thể tích hồng cầu, nồng 
độ huyết sắc tố và lượng huyết sắc tố có trong một hồng cầu của lợn nái mắc hội 
chứng MMA (lần lượt là 40,73 ± 0,43%, 67,06 ± 0,38 µm3, 30,11 ± 0,37% và 
20,30 ± 0,16 Pg) đều cao hơn các chỉ tiêu này của lợn bình thường (lần lượt là 
35,75 ± 0,45%; 63,46 ± 0,37 µm3; 28,05 ± 0,13% và 18,19 ± 0,10 Pg). 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn logic về mối tương quan giữa 
các chỉ tiêu và thống nhất với kết quả nghiên cứu của Ognean et al. (2010) khi 
nghiên cứu biến động các huyết đồ và một số chỉ tiêu sinh hóa máu của lợn nái 
trong tuần đầu sau khi đẻ. 
 62 
3.7. Số lượng và công thức bạch cầu của lợn nái mắc hội chứng MMA 
Cùng với việc kiểm tra các chỉ số huyết cầu, các chỉ số bạch cầu cũng 
được xác định. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt về số lượng bạch cầu 
và tỷ lệ các loại bạch cầu của lợn mắc hội chứng MMA và lợn bình thường (P < 
0,05). Trong đó, lợn nái mắc hội chứng MMA có tổng số bạch cầu và tỷ lệ bạch 
cầu trung tính cao hơn so với lợn bình thường (P < 0,05) (lần lượt là 23,16 ± 0,62 
nghìn/mm3 và 48,17 ± 0,76% của lợn nái mắc hội chứng MMA so với 17,05 ± 
0,43 nghìn/mm3 và 41,18 ± 1,39% của lợn nái bình thường). Theo Chu Đức 
Thắng và Phạm Ngọc Thạch (2008), công thức bạch cầu thay đổi do một số yếu 
tố, nếu mắc các bệnh nhiễm trùng thì bạch cầu trung tính tăng lên đột ngột. Như 
vậy, theo chúng tôi, lợn mắc hội chứng MMA, do quá trình viêm đã gây phản 
ứng kích thích cơ thể tăng cường miễn dịch, tăng cường đề kháng thông qua việc 
tăng số lượng bạch cầu, đặc biệt bạch cầu có khả năng thực bào, đảm nhận chức 
năng miễn dịch không đặc hiệu như bạch cầu trung tính. Còn lại, tỷ lệ các loại 
bạch cầu ái toan, bạch cầu đơn nhân lớn và lâm ba cầu của lợn mắc hội chứng 
MMA đều thấp hơn so với các tỷ lệ này của lợn nái bình thường (P < 0,05). 
Bảng 3.7. Số lượng bạch cầu và công thức bạch cầu ở lợn nái mắc hội chứng 
MMA và lợn nái bình thường 
Đối tượng 
nghiên cứu 
Số lượng BC 
(nghìn/mm3) 
Công thức bạch cầu (%) 
Bạch cầu 
ái toan 
Bạch cầu 
ái kiềm 
Bạch cầu 
trung tính 
BC Đơn 
nhân lớn 
Lâm ba 
cầu 
Lợn nái 
bình thường 
(n = 50) 
xmX±
17,05±0,43 4,11±0,58 4,20±0,07 41,18±1,39 6,13±0,96 48,16±0,87 
Lợn mắc hội 
chứng MMA 
(n=50) 
xmX±
23,16 ± 0,62 2,02±0,17 3,02±0,05 48,17±0,76 4,07±0,20 44,33±1,66 
Xác xuất (P) P < 0,05 
 63 
Như vậy, số lượng bạch cầu, tỷ lệ bạch cầu trong máu lợn bình thường 
nằm trong khoảng dao động sinh lý của lợn nái ở tuần đẻ thứ nhất. Kết quả này 
phù hợp với kết quả nghiên cứu của Ognean et al. (2010) khi nghiên cứu số 
lượng và công thức bạch cầu của lợn nái. Tuy nhiên, số lượng bạch cầu và tỷ lệ 
bạch cầu của lợn mắc hội chứng MMA đã có sự biến động và khác biệt rõ rệt so 
với chỉ số này ở lợn nái bình thường. 
3.8. Kết quả kiểm tra hàm lượng protein tổng số, các tiểu phần protein 
huyết thanh của lợn nái mắc hội chứng MMA và của lợn nái bình thường 
Bình thường, các thành phần hóa học trong máu động vật luôn ổn định. 
Trong trạng thái bệnh lý, nhất là những trường hợp rối loạn chức năng các cơ quan 
như gan, thận dẫn đến sự thay đổi thành phần hóa học của máu. Do đó những 
xét nghiệm sinh hóa máu giúp cho việc chẩn đoán và theo dõi diễn biến của bệnh. 
Cùng với việc theo dõi các biểu hiện lâm sàng và các chỉ tiêu sinh lý máu, chúng 
tôi kiểm tra các chỉ tiêu sinh hóa máu ở lợn nái. Kết quả định lượng protein tổng 
số, Albumin huyết thanh và các tiểu phần protein huyết thanh của 50 lợn nái mắc 
hội chứng MMA và 50 lợn nái bình thường (bảng 3.8). 
Bảng 3.8. Kết quả kiểm tra hàm lượng protein huyết thanh 
của lợn mắc hội chứng MMA và lợn bình thường 
Đối tượng 
nghiên cứu 
Chỉ tiêu nghiên cứu (g%) 
Protein 
tổng số 
Albumin 
huyết thanh 
α- 
Globulin 
β- 
Globulin 
γ- 
Globulin 
Lợn nái bình thường 
(n = 50) 7,48±0,47 3,47±0,33 
2,41± 0,23 1,62±0,29 0,68±0,15 
Lợn nái mắc MMA 
(n = 50) 
5,87±0,42 1,21±0,49 3,04±0,12 0,81±0,23 1,12±0,13 
Xác xuất (P) P < 0,05 
Hàm lượng protein tổng số, β - Globulin và albumin trong huyết thanh 
của lợn nái bình thường cao hơn so với các thành phần này trong huyết thanh 
của lợn nái mắc hội chứng MMA (P < 0,05). Cụ thể, hàm lượng protein tổng 
 64 
số, β - Globulin và albumin trong huyết thanh lợn nái bình thường lần lượt là 
7,48 ± 0,47 g%, 1,62 ± 0,29 g% và 3,47 ± 0,33 g%, thì trong huyết thanh lợn 
mắc hội chứng MMA lần lượt chỉ là 5,87 ± 0,42 g%, 0,81 ± 0,23 g% và 1,21 ± 
0,49 g% (bảng 3.8). Theo Hồ Văn Nam và cs. (1997), protein của lợn bình 
thường trung bình là 7,35 g% thì kết quả kiểm tra protein tổng số của lợn nái 
bình thường trong nghiên cứu của chúng tôi nằm trong khoảng sinh lý. Theo 
chúng tôi, sở dĩ hàm lượng protein tổng số, β - Globulin và albumin trong huyết 
thanh của lợn mắc hội chứng MMA thấp hơn so với các thành phần này trong 
huyết thanh của lợn bình thường có thể là do lợn mắc hội chứng MMA có những 
phản ứng viêm, sốt kèm theo giảm ăn, giảm hiệu quả tiêu hoá, giảm khả năng 
hấp thu và ảnh hưởng gián tiếp đến chức năng gan nên khả năng tổng hợp 
albumin kém hơn so với lợn bình thường (Sjaastad et al., 2010). Như vậy, ở lợn 
mắc hội chứng MMA, cùng với các triệu chứng mệt mỏi, kém ăn, sốt, tăng tiết 
dịch rỉ viêm, các vi khuẩn và độc tố của chúng tác động làm tổn thương tế bào 
gan làm cho lượng protein tổng số và albumin huyết thanh giảm. 
Hàm lượng các tiểu phần protein như α - Globulin và γ - Globulin trong 
huyết thanh của lợn nái mắc hội chứng MMA đều tăng so với các tiểu phần 
này của lợn nái bình thường. Cụ thể, ở lợn mắc hội chứng MMA hàm lượng α 
- Globulin và γ - Globulin lần lượt là 3,04 ± 0,12 g%, 1,12 ± 0,13 g% còn hàm 
lượng các tiểu phần này trong huyết thanh của lợn nái bình thường lần lượt là 
2,41 ± 0,23 g% và 0,68 ± 0,15 g%. Các tiểu phần globulin trong huyết thanh 
đảm nhận những chức năng khác nhau, trong khi α và β - Globulin đảm nhận 
chức năng vận chuyển cholesteron, hormone nhóm steroid thì γ - Globulin 
ngoài việc đảm nhận chức năng miễn dịch, tạo đề kháng cho cơ thể còn tham 
gia vào quá trình đông máu (Nguyễn Xuân Tịnh và cs., 1996). Theo Tạ Thị 
Vịnh (1991), khi bị nhiễm khuẩn, quá trình viêm diễn ra thì γ - Globulin tăng 
lên nhằm tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể. Như vậy, theo chúng tôi 
khi lợn mắc hội chứng MMA, quá trình viêm diễn ra làm tăng γ - Globulin 
nhằm tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể là phù hợp với dẫn liệu trên. 
 65 
3.9. Hàm lượng đường huyết và hoạt độ của enzyme GOT, GPT trong máu 
lợn mắc hội chứng MMA 
Hàm lượng đường huyết phản ánh tình trạng sức khỏe của động vật. 
Nhờ một loạt các điều tiết sinh lý, sinh hóa của tuyến tụy qua Insulin, của 
tuyến thượng thận qua Adrenalin và hoạt động của gan mà nồng độ glucose 
trong máu được ổn định. Vì vậy, khi gan bị tổn thương thì nồng độ glucose 
trong máu cũng thay đổi. Trong các quá trình trao đổi chất, đặc biệt trao đổi 
đường trong cơ thể được diễn ra khi có sự tham gia của các enzym, trong đó 
enzym transaminase (có trong tế bào gan, thận, cơ vân...) đóng vai trò rất quan 
trọng. Phổ biến và quan trọng nhất là enzym Glutamate Oxalat Transaminase 
(GOT) và Glutamate Pyruvat Transaminase (GPT) (Hồ Văn Nam và cs., 1997; 
Sjaastad et al., 2010). Với mục đích đánh giá ảnh hưởng của hội chứng MMA 
đến hàm lượng đường, hoạt độ men GOT và GPT, nghiên cứu này đã tiến 
hành định lượng hàm lượng đường, hoạt độ enzym GOT và GPT trong máu 
của lợn mắc hội chứng MM

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_su_bien_doi_mot_so_chi_tieu_lam_sang_phi.pdf
  • pdfSS&BSSGS - TTLA - Nguyen Thi Hong Minh.pdf
  • pdfTTT - Nguyen Thi Hong Minh.pdf