Luận án Nghiên cứu sự chuyển hóa vật chất hữu cơ trong ao nuôi tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei (boone, 1931) thâm canh

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu sự chuyển hóa vật chất hữu cơ trong ao nuôi tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei (boone, 1931) thâm canh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu sự chuyển hóa vật chất hữu cơ trong ao nuôi tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei (boone, 1931) thâm canh

̀m lượng protein cao (42%), sau đó giảm dần từ tháng thứ 2 là 40% và ở tháng thứ 3 là khoảng 38%. Tôm nuôi được cho ăn từ 2-5 lần/ngày, nhưng tập trung nhiều nhất là 4 lần/ngày (72%), 3 lần/ngày (9%) và 2 lần/ngày chiếm 13%. Nhìn chung các biện pháp kỹ thuật phục vụ cho nuôi tôm đều được cán bộ kỹ thuật truyền đạt với bằng nhiều phương thức khác nhau. Từ đó giúp cho nhiều nông dân tiếp thu được nhiều thông tin hữu ích, chủ động trong sản xuất, xử lý có hiệu quả các rủi ro trong quá trình nuôi tôm. 3.1.5.2. Vấn đề sử dụng thuốc bảo vệ thực vật Kết quả khảo sát cho thấy có 49 hộ (chiếm 72%) là sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để xử lý nước trước khi thả nuôi và có đến 19 hộ (chiếm 28%) là không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Các hộ nuôi cho rằng, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật được biết là giúp tiết kiệm chi phí, hoạt tính thuốc bảo vệ thực vật mạnh cho tác dụng diệt cua còng tốt hơn. 3.1.5.3. Vấn đề sử dụng kháng sinh, hóa chất, chế phẩm vi sinh Ngoài ra, kết quả điều tra cho thấy, có đến 51 hộ (chiếm 75%) biết về tác dụng của những sản phẩm thuốc, hóa chất, chế phẩm sinh học nằm trong danh mục cho phép hoặc bị cấm sử dụng của Bộ NN & PTNT, ngoài ra 17 hộ (chiếm 25%) không biết về các thông tin này. Tuy nhiên, khi điều tra, có đến 53 hộ (chiếm 78%) là có 56 sử dụng kháng sinh để phòng bệnh cho tôm nuôi và 15 hộ (chiếm 22%) là không sử dụng kháng sinh trong quá trình nuôi. Nguyên nhân là do hoạt động nuôi tôm hiện nay đang đối mặt với nhiều khó khăn về dịch bệnh, biến động môi trường. Để ứng phó với diễn biến bất lợi đó, nhiều hộ nông dân nuôi tôm đã chọn phương pháp trộn kháng sinh định kỳ để phòng bệnh cho tôm. Mặt trái của phương pháp này là tồn lưu kháng sinh trong sản phẩm thủy sản, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người sử dụng và ảnh hưởng bất lợi đến uy tín sản phẩm thủy sản của Việt Nam nói chung các hộ nuôi trực tiếp nói riêng. Kết quả khảo sát công việc trước và trong quá trình nuôi tôm ở Bạc Liêu như sau (Bảng 3.4) Bảng 3.4. Kết quả điều tra hiện trạng nuôi tôm thẻ chân trắng ở Bạc Liêu TT Nội dung Số hộ Tỷ lệ (%) 1 Chất lượng nguồn nước cấp 1.1 Trung bình 37 54,4 1.2 Tốt 21 31,0 1.3 Xấu 10 14,7 2 Cấp và thoát nước riêng 2.1 Không 44 64,7 2.1 Có 24 35,3 3 Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật 3.1 Có 49 72 3.2 Không 19 28 4 Sản phẩm thuốc, hóa chất, chế phẩm vi sinh 4.1 Trong danh mục 51 75 4.2 Không biết 17 25 5 Sử dụng kháng sinh 5.1 Có 53 78 5.2 Không 15 22 6 Kiểm tra chất lượng nước trước khi thả 6.1 Kiểm tra là pH, độ mặn, độ kiềm và vi khuẩn 66 97,1 6.2 Không kiểm tra 02 2,95 57 3.1.5.6. Hệ số thức ăn, năng suất và tỷ lệ sống của tôm nuôi Nhìn chung năng suất tôm nuôi phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân như mật độ thả, thức ăn, biện pháp quản lý và chăm sóc hàng ngày,...Theo kết quả điều tra cho thấy: năng suất tôm nuôi cao nhất thuộc về các hộ thả với mật độ cao hơn 80 con/m2 và khác biệt ( p<0,05) so với năng suất tôm của hai nhóm mật độ còn lại. Riêng tỷ lệ sống của tôm giữa các nhóm mật độ nuôi không có sự khác biệt (p>0,05). Một điều dễ nhận thấy là tỷ lệ sống của tôm giảm dần khi mật độ nuôi tăng, trong đó tỷ lệ sống cao nhất (90,8%) thuộc về các hộ thả dưới 60 con/m2, và tỷ lệ sống của tôm ở các hộ thả cao hơn 60 con/m2 tôm nuôi cho tỷ lệ sống khá cao đạt hơn 80% (bảng 3.5, hình 3.3) Bảng 3.5. Năng suất và tỷ lệ sống tôm thu hoạch theo 3 nhóm mật độ Nội dung Nhóm mật độ (con/m2) Trung bình <60 n=12 60 – 80 n=39 >80 n=17 (n=68) Thức ăn (tấn/ha/vụ) 9,48±3,41 a 12,0±2,98 b 15,9±4,19 c 12,46 ±3,52 Tỷ lệ sống (%) 90,8±8,47 a 82,1±10,7 a 82,4±10,3 a 85,10 ±9,82 Năng suất (tấn/ha/vụ) 7,68±2,80 a 9,65±2,30 b 13,3±3,74 c 10,21 ±2,94 FCR 1,22 ± 0,45 1,24 ± 0,36 1,32 ± 0,55 1,27±0,45 Các giá trị trong cùng một hàng mang chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) Hình 3.3. Tỷ lệ sống của tôm nuôi theo các nhóm mật độ 58 Hệ số thức ăn (FCR) của tôm thẻ chân trắng trong điều tra trung bình là 1,27± 0,09 với hàm lượng protein của thức ăn 36-44%. Theo Tạ Văn Phương (2016) cho biết, tôm thẻ chân trắng có nhu về Protein thấp hơn so với các loài tôm nuôi khác, do vậy khi tăng hàm lượng Protein trong thức ăn trong phạm vi nhất định thì có thể giảm lượng tiêu tốn thức ăn trong quá trình nuôi. Nếu so sánh hệ số tiêu tốn thức ăn với một số nghiên cứu khác thì nhận thấy hệ số tiêu tốn thức ăn trong nghiên cứu này thấp hơn (Bảng 3.6). Bảng 3.6. So sánh hệ số thức ăn trung bình của tôm thẻ chân trắng với nghiên cứu khác Số TT Tên tác giả FCR 1 Lê Kim Long và ctv, 2014 1,41 2 Phùng Thị Hồng Gấm và ctv, 2014 1,32 ± 0,08 3 Võ Nam Sơn và ctv, 2014 1,32±0,08 4 Kết quả trung bình của nghiên cứu 1,27±0,09 Qua kết quả điều tra tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng ở Bạc Liêu có thể nhận định: Đa số hộ nuôi tôm đều được tập huấn về kỹ thuật và tuân theo sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng về công tác chuẩn bị trước, trong quá trình nuôi tôm. Do đó tỷ lệ sống năng suất tôm nuôi khá cao, trong khi hệ số thức ăn thấp hơn so với một số nơi khác. 3.1.6. Kết quả nghiên cứu chuyển hóa C, N, P trong ao nuôi tôm Hiện nay vùng nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm canh ở Việt Nam ít nhiều đang bị ô nhiễm, năng suất nuôi giảm và nhiều vùng nuôi tôm đã bỏ hoang hoặc chuyển sang nuôi đối tượng khác như tỉnh Bạc Liêu chuyển dần đối tượng tôm thẻ chân trắng thay cho tôm sú. Có nhiều nguyên nhân gây ra ô nhiễm vùng nuôi, nhưng có thể nguyên nhân chính là do lượng chất thải từ thức ăn, vì khi nuôi tôm mật độ cao, thức ăn là một yếu tố quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí nuôi tôm. Nhưng có thể trở ngại rõ nhất ở các khu vực nuôi tôm thẻ chân trắng ở Bạc Liêu là thiếu hệ thống cấp tiêu nước riêng cho các ao nuôi cũng như vấn đề sử dụng thuốc, hóa chất kháng sinh trong trong quá trình nuôi tôm khá phổ biến. 59 Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này là người nuôi chưa tuân thủ nghiêm ngặt theo hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn. Thực tế cần ghi nhận là lượng thức ăn của tôm dư thừa cùng với chất thải của tôm tăng dần theo thời gian sẽ lắng đọng xuống nền đáy tạo thành một lớp bùn hữu cơ giàu dinh dưỡng. Lớp bùn đáy này là môi trường ẩn chứa nhiều rủi ro cho tôm nuôi nếu không có biện pháp xử lý kịp thời. Kết quả khảo sát về mức độ tích lũy và chuyển hóa C, N, P trong các ao nuôi tôm thẻ chân trắng tại Bạc Liêu được thể hiện ở (Bảng 3.7). Bảng 3.7. Tổng lượng và tỷ lệ C, N, P tích lũy trong ao và tôm qua vụ nuôi Nội dung Mật độ nuôi (con/m2) TB 80 (n=17) Kg/ha/vụ % Kg/ha/vụ % Kg/ha/vụ % % C. từ thức ăn 3.847±1.368 100 4.888±1.224 100 6.410±1.693 100 C. tích lũy vào tôm 699±254 18.17 879±210 17.98 1.208±340 18.84 18.33 C. tồn trong ao 3.148±1.124 81,82 3.989±1.022 82,01 5.177±1.367 80,76 N. từ thức ăn 706±251 100 897±225 100 1.177±311 100 N.tích lũy vào tôm 220±79,90 31.16 276±66,00 30.76 360±107 32.28 31.40 N. tồn trong ao nuôi 484±175 68,98 619±162 69,23 796±209 67,71 P . từ thức ăn 166±59,00 100 211±52,90 100 277±73,00 100 P. tích lũy vào tôm 21,2±7,65 12.77 26,5±6,35 12.55 36,6±10,20 13.21 12.84 P .tồn trong ao nuôi 143±51,50 87,34 184±46,70 87,20 237±63,30 86,64 Ghi chú: Các giá trị trình bày trong (Bảng 4.7) là giá trị trung bình và độ lệch chuẩn Các giá trị trình bày trong bảng cho thấy lượng C, N, P tích lũy trong ao và lượng C, N, P được tôm tích lũy tăng theo mật độ nuôi, cụ thể như sau: 3.1.6.1. Chuyển hóa Cacbon (TOC) trong ao nuôi tôm Có nhiều nguồn cung cấp TOC đầu vào cho ao nuôi tôm như: thức ăn, nguồn nước và con giống. Vật chất hữu cơ cũng có thể thâm nhập vào ao qua sự xói lở thành ao hay mưa chảy tràn, ngoài ra còn có nguồn nội tại là đất đáy ao nuôi. Một số kết quả nghiên cứu khả năng tích lũy TOC vào trong tôm rất thấp so với tổng lượng TOC đầu vào và khả năng tích lũy cũng thay đổi theo mùa. 60 Kết quả qua phân tích sự chuyển đổi Cacbon trong các ao nuôi tôm thẻ chân trắng - Bảng 3.7 đã cho thấy, mức độ tích lũy Cacbon từ thức ăn vào tôm nuôi ở 3 nhóm mật độ nuôi tương đương nhau và dao động từ 17,98 -18,84%. Lượng còn lại tích lũy trong môi trường ao nuôi khoảng 86,64-87,34%. Lượng Cacbon này có thể được chuyển hóa trong nhiều thành phần khác nhau trong môi trường nước, như dạng Cacbon vô cơ hòa tan (CO2, HCO3-, CO32-), Cacbon hữu cơ được vi sinh vật hấp thụ và chuyển hóa, phần khác lắng đọng vào nền đáy. Theo Tạ Văn Phương (2006) tôm sú chỉ có thể tích lũy vào cơ thể từ nguồn Cacbon của thức ăn khoảng 10,1% ở mùa nắng và 16,1% ở mùa mưa, như vậy sẽ có khoảng 89,9% và 83,9% vật chất hữu cơ tồn tại trong môi trường ao nuôi. Tác giả Shukri và ctv (2011); Sareban và ctv (2012) cũng nhận thấy khả năng chuyển đổi nguồn Cacbon từ thức ăn vào cơ thể của tôm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kích cỡ tôm nuôi, chất lượng môi trường nuôi và đặc biệt là thành phần thức ăn. Trong trường hợp tốt nhất, thì tôm cũng chỉ có khả năng chuyển hóa khoảng 20-22% nguồn Cacbon thức ăn vào trong cơ thể. Từ sự so sánh như vậy, có thể nhận định rằng mức độ chuyển hóa nguồn Cacbon từ thức ăn của tôm thẻ chân trắng nuôi trong ao đất ở Bạc Liêu cũng tương tự như một số loài tôm nước mặn khác và các loại thức ăn nông hộ sử dụng đã đáp ứng được như cầu dinh dưỡng của tôm nuôi. 3.1.6.2. Chuyển hóa Nitơ trong ao nuôi tôm Qua bảng 4.7 cho thấy, tỷ lệ Nitơ tôm tích lũy được ở 3 nhóm mật độ nuôi lần lượt là: 31,16%, 30,76% và 32,28%, lượng Nitơ còn lại tồn trong môi trường ao nuôi khoảng 68,98%, 69,23% và 67,71%. Lượng Nitơ tồn trong ao có thể được chuyển hóa thành các dạng vật chất khác nhau của môi trường: Nitơ vô cơ hòa tan, Nitơ hữu cơ hoặc được vi sinh vật hấp thụ và chuyển hóa tiếp. Kết quả nghiên cứu của Tạ Văn Phương (2006) cho biết lượng Nitơ của thức ăn được tôm sú chuyển hóa thành Nitơ của tôm vào mùa mưa là 15,6% và mùa nắng là 24,8%. Tương tự như vậy, Usui và ctv (2006) cũng cho rằng chỉ có khoảng 23- 30% Nitơ chuyển hóa từ thức ăn và trong tôm, lượng Nitơ của thức ăn tồn trong môi trường ao khoảng 67,71-69,23%. 61 3.1.6.3. Chuyển hóa Phospho trong nuôi tôm Qua bảng 3.7 cho thấy lượng Phospho tồn (143-237 kg/ha/vụ) trong ao cao hơn nhiều so với lượng Phospho đầu ra (21,2-36,6 kg/ha/vụ). Lượng Phospho tôm hấp thu lần lượt ở 3 nhóm mật độ là: 12,77%, 12,55% và 13,21% phần còn lại tồn lưu vào môi trường: 87,34%, 87,20% và 86,64%. Theo Ryther và ctv (1971) trong ao nuôi tôm, Phospho từ thức ăn chiếm khoảng 70-91% trong tổng Phospho đầu vào, trong khi đó tôm chỉ có thể hấp thụ và chuyển hóa cho cơ thể từ 10-13%. Ngoài ra, theo Kittiwanich và ctv (2012) vào mùa nắng, tôm hấp thụ được khoảng 13% Phospho còn vào mùa mưa khoảng 18- 20%. Theo kết quả nghiên cứu Vương Trọng Quý (2006) cho thấy hàm lượng Phospho tích trữ trong thịt tôm sú từ 15,6% - 22,6%, phần còn lại tồn trong nền đáy hoặc trong nước ao. 3.2. Kết quả nghiên cứu sự chuyển hóa C, N, P trong ao thực nghiệm nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh không lót bạt, không thay nước ở mật độ 50 con/m2 và 100 con/m2 Ngày nay, tôm thẻ chân trắng có thể nuôi với mật độ rất cao (300-500 con/m3) và năng suất tôm nuôi rất cao nhưng kèm theo đó phải ứng dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến để xử lý môi trường và trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến phục vụ cho quá trình nuôi. Như vậy, chi phí đầu vào rất cao vượt quá khả năng đầu tư của đa số hộ nuôi tôm ở Bạc Liêu. Xuất phát từ thực tế khảo sát tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng ở Bạc Liêu, hai mật độ nuôi 50 và 100 con/m2 trong ao đất không lót bạt được luận án thực hiện và kết quả nghiên cứu được trình bày tiếp dưới đây. 3.2.1. Biến động một số yếu tố môi trường trong ao nuôi 3.2.1.1. Biến động nhiệt độ (oC), pH giữa hai mật độ nuôi tôm Nhiệt độ là một trong các yếu tố sinh thái quan trọng cho quá trình trao đổi chất của sinh giơi nói chung, riêng đối với động vật thủy sinh thì nhiệt độ nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng (Kim Văn Vạn, Đoàn Thị Nhinh, 2019; Đỗ Thị Thanh Hương, Nguyễn Văn Tư, 2010). Kết quả xác định nhiệt độ tại các ao nuôi 62 tôm thẻ chân trắng không thay nước tương đối ổn định và dao động từ 27,0-30oC ở cả hai mật độ nuôi (50 con/m2 và 100 con/m2). Bảng 3.8. Sự biến động nhiệt độ và pH giữa 2 mật độ tôm nuôi Thông số Mật độ 50 con/m2 Mật độ 100 con/m2 Sáng Chiều Sáng Chiều Nhiệt độ (oC) 28,0±0,35 29,5±0,34 27,2±0,75 28,9±0,97 pH 8,11±0,15 8,58±0,11 8,43±0,27 8,73±0,22 Theo Nguyễn Khắc Hường (2007) cho rằng tôm thẻ chân trắng có thể chịu được phạm vi nhiệt độ từ 14-35oC, sinh trưởng tốt ở nhiệt từ 23-30oC, nhiệt độ tối ưu là 26-29oC nhưng biên độ biến đổi không quá 5oC trong ngày/đêm (Boyd và ctv, 2002; Kim Văn Vạn và ctv, 2019). pH trong các ao nuôi giữa 2 nghiệm thức trong suốt quá trình nuôi không có sự khác biệt (p>0,05) và dao động từ 8,0-9,0 thể hiện tính kiềm mạnh. pH ở nghiệm thức thả nuôi 100 con/m2 có tăng vào buổi chiều (pH: 8,73), nhưng cũng chưa vượt quá giới hạn pH cao nhất (pH: 11) có thể gây chết cho sinh vật, nếu pH tăng sẽ làm tăng tính độc của NH3 (Võ Nam Sơn và ctv, 2014). Nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của pH tới đời sống của tôm biển nói chung đều cho rằng: pH 7,3-7,9 là giá trị thuận lợi nhất cho sự sinh trưởng của tôm (Williams và ctv, 1996; Chanratchakool và ctv, 2002; Đỗ Thị Thanh Hương và ctv, 2010). 3.2.1.2. Biến động độ mặn, độ kiềm giữa hai mật độ nuôi tôm Tôm thẻ chân trắng có thể nuôi trong nước độ mặn từ 0,5-45‰, tôm sinh trưởng và phát triển tốt từ 7-34‰, nhưng tối ưu ở độ mặn khoảng 10-15‰ (từ kết quả khảo sát thực tế tại địa phương). Tôm nuôi có độ mặn cao hơn 30‰ thường bị bệnh đốm trắng, bệnh đầu vàng (Chanratchakool và ctv, 2003). Qua quá trình theo dõi trong khoảng thời gian thực nghiệm nuôi tôm trong các ao cho thấy khi nước ao nuôi có độ mặn thấp hơn sẽ làm tôm bị còi, mềm vỏ và tỷ lệ sống thấp, tôm có thể phát triển tốt ở độ mặn 3‰ khi đạt khối lượng 10-12g. Độ kiềm của nước là tổng hàm lượng Cacbonate và Bicacbonate, chúng có vai trò như hệ đệm trong nước do chúng có khả năng ổn định được pH. 63 Bảng 3.9. Sự biến động các yếu tố độ mặn và độ kiềm giữa 2 mật độ tôm nuôi Thông số Mật độ 50 con/m2 Mật độ 100 con/m2 Độ mặn (‰) 25,1±0,34 a 27,0±0,49 a Độ kiềm (mg CaCO3/L) 194±4,35 a 183±23,5 a Độ kiềm các ao nuôi tôm trong nghiên cứu này dao động từ 183-194 mg CaCO3/L, đây là điểm khá thuận lợi cho việc tạo vỏ mới, tránh hiện tượng bệnh mềm vỏ đồng thời giúp ổn định pH trong ao nuôi. Tuy nhiên, khi độ kiềm quá cao có thể gây nên hiện tượng khó lột xác. Theo một số kết quả nghiên cứu, thì độ kiềm trong ao nuôi tôm thẻ chân trắng nên cao hơn 80mg CaCO3/L (Casillas-Hernández và ctv, 2007; Châu Tài Tảo và ctv, 2016). Theo Boyd và ctv (2002) thì độ kiềm trong ao nuôi có sự biến động nhất định và thường gia tăng vào cuối vụ nuôi. Có thể sử dụng độ kiềm như là một trong các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của vi khuẩn trong nước, khi độ kiềm giảm, thì vi khuẩn tự dưỡng đã tiêu thụ một lượng kiềm như là sử dụng nguồn Cacbon từ đó có thể làm chậm tiến trình ô nhiễm nước. 3.2.1.3. Sự biến động hàm lượng TAN giữa hai mật độ nuôi tôm Trong quá trình nuôi hàm lượng TAN có xu hướng tăng dần ở cả 2 nghiệm thức mật độ. Ở nghiệm thức 100 con/m2 hàm lượng TAN tăng tương đối đều, (từ 0,59-0,89 mg/L) ít biến động và không có sự khác biệt (p>0,05) suốt quá trình nuôi. Nguyên nhân có thể do ao nuôi 100 con/m2 có mật độ tảo cao hơn (lượng Chlorophyl-a: 1.153 µg/L), khả năng hấp thu NH4+ cao từ đó hàm lượng TAN thấp hơn so với mật độ 50 con/m2 (Bảng 3.10). Ở nghiệm thức nuôi 50 con/m2, hàm lượng TAN tăng cao ở thời điểm 60 ngày nuôi (2,12 mg/L) và có sự khác biệt (p<0,05) so với những thời điểm trước đó. Nguyên nhân có thể do tảo tàn (sau 45 ngày nuôi) và sự phân hủy của tảo ở nền đáy là nguyên nhân hàm lượng TAN tăng cao ở ngày 60. Điều này có thể minh chứng bằng hàm lượng Chlorophyl-a ở nghiệm thức có mật độ 50 con/m2 thấp hơn so với hàm lượng Chlorophyl-a ở mật độ 100 con/m2 (116 µg/L so với 1.153 µg/L). Rất có thể do hiện tượng tảo tàn lắng xuống đáy làm cho lượng oxy hòa tan giảm, từ đó 64 ảnh hưởng tới sự hoạt động của vi khuẩn nitrat hóa. Vì một trong các điều kiện cần cho sự hoạt động của vi khuẩn nitrat hóa cần oxy hòa tan cao. Bảng 3.10. Sự biến động hàm lượng TAN giữa 2 mật độ tôm nuôi Thông số Đơn vị tính Mật độ 50 con/m2 Mật độ 100 con/m2 Ngày 1 mg/L 0,35±0,18a 0,23±0,18a Ngày 15 mg/L 0,45±0,10a 0,43±0,16a Ngày 30 mg/L 0,66±0,11a 0,55±0,20a Ngày 45 mg/L 0,87±0,83a 0,83±0,38a Ngày 60 mg/L 2,11±1,08b 0,89± 0,79 a Các giá trị có các ký tự khác nhau trên cùng 1 hàng biểu thị sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Theo Boyd (1990; Jenneman và ctv (1986) cho rằng hàm lượng TAN thấp hơn 2 mg/L không ảnh hưởng đến tôm nuôi. Như vậy hàm lượng TAN ở các nghiệm thức này vẫn nằm trong giới hạn cho phép.và phù hợp cho sự phát triển của tôm. 3.2.1.4. Biến động hàm lượng Nitrite giữa hai nghiệm thức nuôi tôm Hàm lượng Nitrite (NO2-) sinh ra từ quá trình oxy hóa ammonia (TAN) dưới tác động của vi khuẩn Nitrosomonas, vì vậy khi hàm lượng Nitrite tăng thì hàm lượng TAN lại giảm và mật độ vi khuẩn nitritrat hóa trong ao tăng. Ở giai đoạn đầu thả nuôi, do nước ao còn nghèo dinh dưỡng, hoạt động của vi khuẩn Nitrosomonas chưa cao, cộng với các vật chất hữu cơ trong ao còn ít, nên hàm lượng Nitrite tương đối thấp sau đó lượng Nitrite tăng lên và biến động theo sự biến động của TAN (Boyd, 1998, Fourooghifard và ctv. 2018). Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng Nitrite luôn duy trì ở mức thấp và không có sự khác biệt giữa hai mật độ nuôi (50 và 100 con/m2). Tuy nhiên, từ sau 45 đến 60 ngày thả nuôi, hàm lượng Nitrit ở mật độ 100 con/m2 tăng và khác biệt (p <0,05) so các thời điểm trước đó. Nguyên nhân có thể do lượng thức ăn dư thừa, chất thải của tôm ở mật độ 100 con/m2 tăng nhanh. Ngoài ra cũng có thể do mức độ chuyển hóa TAN thành NO2 ở nghiệm thức này cao hơn (Bảng 3.11). 65 Bảng 3.11. Biến động Nitrite giữa 2 mật độ tôm nuôi Thông số Đơn vị tính Mật độ 50 con/m2 Mật độ 100 con/m2 Ngày 1 Mg/L 0,07±0,02a 0,04±0,006 a Ngày 15 Mg/L 0,06±0,23 a 0,05±0,006 a Ngày 30 Mg/L 0,07±0,03 a 0,11±0,03b Ngày 45 Mg/L 0,07±0,006 a 0,20±0,05b Ngày 60 Mg/L 0,08±0,02 a 0,51±0,24 b Các giá trị có các ký tự khác nhau trên cùng 1 hàng biểu thị sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Nitrite (dạng Nitơ có độc tính đối với thủy sinh vật) có trong thủy vực là do quá trình Nitrit hóa và phản Nitrate hóa. Theo Boyd (1998) hàm lượng Nitrite trong ao nu
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_su_chuyen_hoa_vat_chat_huu_co_trong_ao_nu.pdf
TOM TAT LATS - VAN.pdf
TRICH YEU LUAN AN - VAN.pdf