Luận án Nghiên cứu sự di truyền các đột biến gây bệnh ở bệnh nhân Beta-thalassemia vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật sinh học phân tử

Luận án Nghiên cứu sự di truyền các đột biến gây bệnh ở bệnh nhân Beta-thalassemia vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật sinh học phân tử trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu sự di truyền các đột biến gây bệnh ở bệnh nhân Beta-thalassemia vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật sinh học phân tử trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu sự di truyền các đột biến gây bệnh ở bệnh nhân Beta-thalassemia vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật sinh học phân tử trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu sự di truyền các đột biến gây bệnh ở bệnh nhân Beta-thalassemia vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật sinh học phân tử trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu sự di truyền các đột biến gây bệnh ở bệnh nhân Beta-thalassemia vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật sinh học phân tử trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu sự di truyền các đột biến gây bệnh ở bệnh nhân Beta-thalassemia vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật sinh học phân tử trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu sự di truyền các đột biến gây bệnh ở bệnh nhân Beta-thalassemia vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật sinh học phân tử trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu sự di truyền các đột biến gây bệnh ở bệnh nhân Beta-thalassemia vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật sinh học phân tử trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu sự di truyền các đột biến gây bệnh ở bệnh nhân Beta-thalassemia vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật sinh học phân tử trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu sự di truyền các đột biến gây bệnh ở bệnh nhân Beta-thalassemia vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật sinh học phân tử trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 200 trang nguyenduy 12/06/2025 390
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu sự di truyền các đột biến gây bệnh ở bệnh nhân Beta-thalassemia vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật sinh học phân tử", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu sự di truyền các đột biến gây bệnh ở bệnh nhân Beta-thalassemia vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật sinh học phân tử

Luận án Nghiên cứu sự di truyền các đột biến gây bệnh ở bệnh nhân Beta-thalassemia vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật sinh học phân tử
341 bệnh nhân β-Thal 
khu vực ĐBSCL. Trong đó, 8 kiểu ĐB phổ biến của Việt Nam: Cd26G>A, 
Cd41/42 delTTCT, Cd17A>T, -28A>G, IVS1.1G>T, IVS2.654C>T, 
Cd71/72+A và Cd95+A chiếm đến 97,2% trên tổng số. Tỷ lệ mỗi kiểu ĐB 
không giống nhau, nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy ĐB ở vùng ĐBSCL 
cũng tập trung các vào các kiểu phổ biến như ở các vùng miền khác và các 
nghiên cứu của các tác giả khác khi tìm ĐB ở khu vực phía nam. 
Ngoại trừ, đột biến Cd26 G>A gây HbE chiếm tỷ lệ cao, thì hai ĐB hay 
gặp nhất là βCd41/42 và βCd17. Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu của 
Trần Minh Hiếu, 2001 trên bệnh nhân β-Thal tại bệnh viện Truyền máu Huyết 
học thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ đột biến βHbE (31%), βCd41/42 (25%) và βCd17 
(17% . Nghiên cứu năm 2003 của Trương Đình Kiệt và ctv phát hiện được 8 
loại ĐB trong đó đột biến βCd41/42 (23,18%) và βCd17 (20% vẫn chiếm tỷ lệ cao 
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT 
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 98 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH 
nhất và còn nhiều nghiên cứu khác như Lê Thị Hảo, Filon et al, Svasti kết hợp 
với các cộng sự người Việt (Bảng 5.2 . 
Bảng 5.2. Tỷ lệ 8 kiểu đột biến của nghiên cứu so sánh với nghiên cứu khác 
Kiểu 
đột 
biến 
Tỷ lệ 
Filon 
(2000) 
n = 23 
Lê 
Thị 
Hảo 
(2001) 
n = 44 
Svasti 
(2002) 
n = 50 
Trương 
Đình 
Kiệt 
(2003) 
n = 206 
Nguyễn 
Khắc 
Hân 
Hoan 
(2007) 
n = 26 
Phạm 
Thanh 
Loan 
(2014) 
n = 28 
Nghiên 
cứu này 
(2017) 
n = 341 
βCd41/42 34,5 27 35,3 23,18 33,3 30,4 23,3 
βCd17 48,3 20 25 20 12,1 21,4 21 
βHbE - 29 - 40 21,2 17,8 33,8 
β-28 0 4,5 7,3 4,5 0 5,4 4,6 
βIVS1.1 0 1 6 1 9,1 8,9 3,6 
βIVS2.654 0 6 7,3 4 12,1 1,8 4,2 
βCd71/72 3,4 4,5 7,3 4 12,1 8,9 4,6 
βCd95 13,8 6 10,3 2,5 0 1,8 2,1 
Khác 0 2 1,5 0,92 0 3,6 2,8 
Như vậy, kết quả nghiên cứu của đề tài một lần nữa khẳng định tại Việt 
Nam các ĐB tìm gặp trên bệnh nhân β-Thal phần lớn đều rơi vào 8 loại ĐB 
phổ biến tương tự như nhiều tác giả đã nghiên cứu trước đây (Bảng 5.2). 
 - Đột biến gây HbE: 
Hemoglobin E là đột biến phổ biến nhất ở châu Á đặc biệt là Đông Nam 
Á. ĐB này được ước tính đã xuất hiện từ 5.000 năm trước (Ohashi et al, 
2004). Một số nước như: Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào, nơi tỷ lệ hiện 
nhiễm có thể lên đến 50-60% (Fucharoen, S., Winichagoon, P., 1992). Vùng 
Đông Bắc Thái Lan, ĐB từ 50-70%. Tại Sri Lanka có 40% đột biến gây β-
Thal là βHbE và ĐB này cũng thường thấy ở Bangladesh và Indonesia ở người 
gốc Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc và Philipine. Trong nghiên cứu này có 203/609 
alen (33,8%) mang đột biến HbE, như vậy HbE ở khu vực ĐBSCL thấp hơn 
các quốc gia trong khu vực. Nhưng HbE vẫn là ĐB chiếm tỷ lệ cao hơn so với 
các ĐB còn lại gây bệnh β-Thal. 
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT 
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 99 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH 
- Đột biến phổ biến khác HbE 
Theo Loukopoulos, D. và Kollia, P., 2001, ngoài sự lưu hành của HbE là 
ĐB phổ biến nhất ở Đông Nam Á. So với các nước trong khu vực như Thái 
Lan, Singapore và Nam Trung Quốc thì các đột biến: -28 A>G, Cd17 A>T, 
Cd41/42 -TTCT,
 IVS.1.1 G>A, IVS.2.654 C>T cũng là những ĐB hay gặp mà 
nghiên cứu ghi nhận bên cạnh các ĐB khác mang tính chất đặc trưng cho từng 
quốc gia (Bảng 5.3 . Trong các ĐB trên, bên cạnh ĐB gây HbE, -28 A>G và 
Cd41/42 -TTCT là ĐB đặc trưng ở khu vực châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á 
so với các khu vực khác trên thế giới, do tần số xuất hiện 2 loại ĐB này khá 
cao (Kohne, E., 2011). 
Bảng 5.3. Phân bố các kiểu đột biến của nghiên cứu so với một số nước tại 
khu vực Đông Nam Á 
Kiểu ĐB 
Thái 
Lan 
Singapore Nam Trung 
Quốc 
Nghiên 
cứu này Trung Quốc Malaysia 
-28 A>G 56 8 3 48 28 
+ 1 A>G 1 10 4 
Mã mở đầu 1 
IVS.1.1 G>A, T 25 1 10 8 22 
IVS.1.5 G>C, T 71 27 56 3 
IVS.2.654 C>T 42 47 5 22 26 
Cd17 A>T 152 14 7 71 128 
Cd19 A>G 54 3 11 
Cd35 C>A 30 
Cd 41 –C 7 
Cd41/42 -TTCT 305 83 12 136 142 
Cd 71/72 +A 16 2 11 28 
Mất đoạn 3,4 Kb 17 
Đột biến khác 18 3 13 16 26 
Chưa r 45 12 2 
Tổng alen mang ĐB 839 199 133 314 403 
Tỷ lệ đột biến Cd41/42 -TTCT xuất hiện với tần suất khá cao ở các nước 
trong khu vực châu Á: Trung quốc 41,84%, Indonesia 1,69%, Nhật 5,99%, 
Hàn Quốc 4,17%, Malaysia 26,32%, Pakistan 6,7%, Punjabi 13,22%, 
Singapore 37,59%, Đài Loan 30,63% và Thái Lan 37,24% và trong nghiên 
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT 
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 100 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH 
cứu này là 23,3%. Không cao như Cd41/42 nhưng đột biến -28 A>G cũng 
xuất hiện với tỷ lệ khá phổ biến: Trung Quốc 12,31%, Malaysia 6,43%, Đài 
Loan 9,38%, Thái Lan 6,83%. Nghiên cứu này ghi nhận tỷ lệ kiểu đột biến -28 
A>G chỉ có 4,6% thấp hơn các quốc gia trên nhưng lại cao hơn Nhật 0,32%. 
- Đột biến đặc trưng của Việt Nam Cd95+A 
Đột biến do sự chèn A vào trong codon 95 AAG của gen β-globin, làm 
thay đổi khung đọc với sự chấm dứt của bản dịch tại codon 101 là một stop 
codon thay vì stop ở codon 146. Đột biến này được công bố lần đầu tiên trong 
nghiên cứu của Cai, S. và Chehab, F.F., 1996 trên 2 gia đình người Việt sống 
tại M . Đột biến cũng được ghi nhận xuất hiện ở 1 ph nữ 26 tuổi ở Pháp và 1 
gia đình tại Thái Lan với một tần số hiếm 0,12% (Winichagoon, P. et 
al, 1992). 
Ở nước ta, đột biến βCd95 được gặp với tần số cao hơn từ 1,8-13,8% tùy 
nghiên cứu (Bảng 5.2 . Do vậy, ĐB đã được ghi nhận là một ĐB khá đặc trưng 
của Việt Nam. Trong nghiên cứu này βCd95 có tần số là 2,1% và 100% các ĐB 
được tìm trên dân tộc Kinh, không ghi nhận ĐB có ở dân tộc Hoa, Chăm hay 
Khmer sống trong khu vực. Nên có thể nói ở khu vực ĐBSCL, βCd95 là ĐB đặc 
trưng của người Kinh. 
* Các đột biến không phổ biến 
Có 6 kiểu ĐB hiếm đã được công bố bởi vài nghiên cứu trong hoặc ngoài 
nước và 3 đột biến: βIVS2.499; βIVS2.636 và βCd38-39 là biến đổi mới chưa được ghi 
nhận trong dữ liệu ĐB gây bệnh β-Thal trên thế giới được phát hiện tại khu 
vực ĐBSCL bởi nghiên cứu (Bảng 4.8 . 
- Kiểu βIVS1.5 (IVS1.5 G>C): tạo kiểu hình β+, ĐB xảy ra ở vị trí c.92+5 
G>C của vùng Intron 1, ngay vị trí bám của enzyme cắt đoạn intron ở đầu 5’. 
Chính ĐB đã làm giảm hiệu quả cắt intron 1 để gắn exon 1 và 2 trong quá 
trình tạo mRNA thuần th c, nên chỉ làm giảm số lượng mRNA, tạo ra kiểu 
hình thiếu máu nhẹ. 
Đột biến ghi nhận xuất hiện trong nghiên cứu này với tỷ lệ 0,5%. Trong 
nghiên cứu của Phạm Thanh Loan, 2014 ở bệnh nhân khu vực miền Bắc, ĐB 
xuất hiện với tần số cao hơn 3,6%. Nên ở khu vực phía Bắc nước ta, đột biến 
βIVS1.5 cũng được liệt vào ĐB phổ biến trong quá trình sàng lọc, chẩn đoán 
bệnh β-Thal. Ở Việt Nam, βIVS1.5 là ĐB tìm gặp với tần số thấp <10%, nhưng ở 
các quốc gia trong khu vực châu Á, ĐB này lại rất phổ biến: Bangladesh 60%, 
Vương quốc Oman của Ả rập 61,6%, Pakistan 37,3%, và Đông Nam Á: 
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT 
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 101 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH 
Indonesia 54,24%, Malaysia 26,9%, vùng Maharastra của Ấn Độ 6,55%, 
( 
- βCd26 (Cd26 G>T): đột biến xảy ra ở vị trí codon 26. Tại vị trí này 
nucleotide loại G thường được thay thế thành A để tạo ra một ĐB phổ biến 
HbE, quy định kiểu hình β+ (thiếu máu nhẹ, hoặc không có biểu hiện lâm 
sàng . Tuy nhiên, nếu nucleotide loại G được thay bằng T thì GAG (Glu 
>TAG (Stop codon , sẽ tạo ra kiểu hình β0. 
Trong nghiên cứu này, kiểu đột biến βCd26 được ghi nhận với tỷ lệ rất 
thấp 0,3% trên một bệnh nhân thể phối hợp HbE/β-Thal dân tộc Kinh, ở Bến 
Tre và một người nữ cũng dân tộc Kinh ở Kiên Giang. Năm 2013, khi tìm ĐB 
cho 498 sản ph và chồng đến khám tại bệnh viện Từ Dũ, Nguyễn Khắc Hân 
Hoan cũng tìm được ĐB này với tỷ lệ 0,1%. Hiện tại, theo cơ sở dữ liệu ĐB 
gen β-globin của Ithanet, đột biến βCd26 lần đầu tiên được tìm gặp trong một 
gia đình sống ở Bắc Thái Lan, trong nghiên cứu của Goonnapa 
Fucharoen,1990. Tác giả này cũng ghi nhận đột biến Cd26 G>T xuất hiện 
trong cộng đồng Thái với tỷ lệ 0,12%. 
- βCd15 (Cd15 G>A hay c48.G>A): đột biến thay acid amin Trytophan 
thành stop codon ở vị trí c.48, gây ra kiểu hình β0 do tạo mRNA không thực 
hiện được chức năng. Có 0,8% đột biến βCd15 được ghi nhận trong nghiên cứu, 
ĐB xuất hiện trên các bệnh nhân dân tộc Kinh, không ghi nhận dân tộc khác 
và cũng chưa tìm thấy nghiên cứu khác trong nước có ĐB này. 
Trên thế giới, ĐB này chỉ tìm gặp ở Nhật 0,95%, Bồ Đào Nha 11,79% và 
Nga 6,45%. Trong khi ĐB khác cũng xảy ra codon 15 và cùng một biến đổi 
G>A nhưng xảy ra ở vị trí c.47 lại là một ĐB vô cùng phổ biến ở khu vực 
Đông nam Á. Kết quả của nghiên cứu cho thấy đột biến Cd15 G>A phát hiện 
được trong khu vực ĐBSCL là một ĐB hiếm, không thuộc ĐB phổ biến ở 
Đông Nam Á. Do vậy, việc sử d ng các k thuật dò tìm ĐB phổ biến ở Đông 
Nam Á sẽ bỏ sót ĐB này. 
 - βCd11 (Cd11G>A), đột biến thay acid amin Valin thành Isoleucin hay 
còn gọi là Hb Hamilton. Đột biến được nghiên cứu ghi nhận với tỷ lệ rất thấp 
0,2% trên một bệnh nhân người mang gen bệnh dân tộc Kinh, ở Tiền Giang. 
Đột biến chưa tìm thấy ở các nghiên cứu khác trong nước. Đây cũng là ĐB 
hiếm gặp trên thế giới và cả khu vực Đông Nam Á. Đột biến này được tìm 
thấy đầu tiên trong một gia đình Úc sống ở Canada và trong một gia đình 
Trung Quốc. Ở Sardinia, một vương quốc ở khu vực Địa Trung Hải Hb 
Hamilton xuất hiện với tần số là 1/400 (0,25% ( 
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT 
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 102 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH 
- Tương tự βCd11 2 kiểu đột biến (-pro)del, ()del được tìm thấy trong 
nghiên cứu với tỷ lệ mỗi kiểu là 0,2% và cũng chưa tìm thấy trong kết quả 
nghiên cứu khác trong nước. Nguyễn Khắc Hân Hoan, 2013 cũng tìm thấy 
được 2 kiểu mất đoạn ngoài gen β-globin: dell 1393bp và dell 9,6kb, đột biến 
này có vị trí và lượng nucleotide mất cũng khác biệt với nghiên cứu. 
* Các đột biến mới trong nghiên cứu 
Có 3 bệnh nhân mang 3 đột biến mới được phát hiện bằng k thuật giải 
trình tự. 100% các bệnh nhân là dân tộc Kinh. Trong đó, có 2 bệnh nhân ở thể 
dị hợp tử kép do sự phối hợp ĐB mới với ĐB đã biết khác: βCd17/βCd38/39, -
pro)
del
/βIVS2.499 và một bệnh nhân thể dị hợp tử: βIVS2.636 (Bảng 4.8 . 
Theo nghiên cứu của TIF và nhiều tác giả trong, ngoài nước nếu bệnh 
nhân chỉ mang mỗi đột biến βCd17 hay đột biến -pro)del sẽ ở dạng thể nhẹ, 
không có triệu chứng thiếu máu. Với chỉ số Hb ghi nhận trong nghiên cứu 
thấp: bệnh nhân βCd17/βCd38/39 là 6,1g/dL; -pro)del/βIVS2.499 là 6,8g/dL (Bảng 
4.10 . Kết hợp với lâm sàng cần truyền máu ph thuộc hàng tháng, ứ sắt nặng, 
gan, lách to, biến dạng xương,... Nghiên cứu kết luận: hai ĐB mới là βCd38/39 và 
βIVS2.499 cũng góp phần gây thiếu máu ở bệnh nhân với mức độ tương tự như 
các bệnh nhân β-Thal thể nặng do hai ĐB khác nhau trên gen β-globin gây ra. 
Tuy vậy, khi dựa trên chỉ số MCV, MCH và điện di Hb, nghiên cứu ghi 
nhận tình trạng thiếu máu hồng cầu nhỏ, nhược sắc do MCV=71,8fL, 
MCH=22,3pg và điện di bất thường với HbF tăng cao (HbA: 65,5%; HbA2: 
2,7%; HbF: 32% ở bệnh nhân βCd17/βCd38/39. Các chỉ số ghi nhận tương tự như 
β-Thal thể trung gian theo phân loại của Kohne, 2011 (Bảng 2.5 . 
Tương tự, theo bảng phân loại này, dựa vào chỉ số Hb=10g/dL, 
MCV=69,2fL, MCH=21pg và kết quả điện di: HbA: 89,8%; HbA2: 6%; HbF: 
4,2%. Kết hợp với lâm sàng thiếu máu nhẹ và không cần truyền máu. Nghiên 
cứu kết luận: bệnh nhân dị hợp tử với kiểu đột biến βIVS2.636 (c.316-179 A>C) 
hoàn toàn phù hợp với β-Thal thể nhẹ. Đột biến này tuy chưa được ghi nhận 
trong dữ liệu ĐB gây bệnh β-Thal, nhưng năm 2013, Eun Sil Park et al, 2013 
cũng đã tìm thấy một bệnh nhân dị hợp tử mang kiểu ĐB này với 
MCV=74,3fL, MCH=24pg, khi thực hiện nghiên cứu trên 20 bệnh nhân β-
Thal tại Hàn Quốc. 
Kiểu phối hợp đột biến -pro)del/βIVS2.499 được tìm thấy trên bệnh nhân 
Nguyễn Thị Mộng N, 13 tuổi với lâm sàng thiếu máu nặng. Theo y văn, sự 
thay đổi của chỉ số MCV, MCH là dấu hiệu quan trọng cho sàng lọc bệnh 
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT 
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 103 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH 
thalassemia vì mức độ giảm của MCV liên quan trực tiếp đến mức độ giảm 
sản xuất chuỗi globin và MCH thể hiện tình trạng nhược sắt của hồng cầu. Tuy 
nhiên, kết quả công thức máu của bệnh nhân được phân tích trước khi truyền 
máu, 2 chỉ số MCV=85,8fL, MCH=29,5pg được ghi nhận là hoàn toàn bình 
thường. 
Kết quả nghiên cứu của đề tài và nhiều nghiên cứu khác một lần nữa cho 
thấy nếu chỉ dựa vào giá trị MCV và MCH vẫn có kết quả âm tính giả nhất 
định. Như theo nghiên cứu của Nguyễn Hồng Thị Nga là 6%. Và cũng theo tác 
giả này nếu sử d ng công thức Shine và Lal (MCV2 x MCH để sàng lọc bệnh 
tỷ lệ âm tính giả là 9%. 
Về các chỉ số điện di Hb, nghiên cứu ghi nhận bệnh nhân có kết quả điện 
di gần như bình thường: HbA: 95,2%; HbA2: 2,2%; HbF: 2,2%. Nghi ngờ có 
thể xuất hiện ĐB trên gen α-globin, nghiên cứu cũng đã gửi mẫu máu của đối 
tượng đến bệnh viện Từ Dũ để làm MLPA, kiểm tra các ĐB gây bệnh α-Thal. 
Kết quả, không tìm thấy ĐB nào trên 4 gen α-globin (Ph l c 5 . Vậy Nguyễn 
Thị Mộng N là bệnh nhân β-Thal truyền máu ph thuộc hồng cầu bình thường 
đầu tiên ở bệnh nhân khu vực ĐBSCL được nghiên cứu ghi nhận với chỉ số 
điện di HbA giảm rất nhẹ và HbF tăng rất ít. 
Khi kiểm tra kiểu ĐB của cha và mẹ bệnh nhân bằng k thuật giải trình 
tự tìm βIVS2.499; MLPA tìm ĐB trên gen α-globin và ĐB -pro)del. Kết quả: 
cả 2 ĐB của bệnh nhân đều được di truyền từ mẹ. Mẹ bệnh nhân có lâm sàng 
biểu hiện mức độ thiếu máu trung bình, truyền máu không thường xuyên 
khoảng 2-3 tháng 1 lần, có khi chỉ truyền máu 2 đợt/1 năm, mức độ ứ sắt 
1.800ng/mL, lách to độ 3, có biểu hiện da xanh, niêm nhạt và biến dạng xương 
nhẹ. Chỉ số huyết học: Hb 8,3g/dL, MCV=83,5fL, MCH= 29,9pg. Chỉ số Hb: 
HbA: 96,4%; HbA2: 2,5%; HbF: 1,1% và mẹ bệnh nhân cũng không mang ĐB 
gây α-Thal nào khi thực hiện MLPA. 
Như vậy, nếu dựa vào chỉ số Hb của bệnh nhân (6,8g/dL và mẹ 
(8,3g/dL nằm trong khoảng 6-10g/dL trong nghiên cứu của Khone, E., 2011, 
thì kiểu phối hợp đột biến -pro)del/βIVS2.499 phù hợp với β-Thal thể trung 
gian. Tuy nhiên, kiểu gen của mẹ và bệnh nhân hoàn toàn giống nhau nhưng 
lâm sàng của con biểu hiện nặng hơn mẹ điều này có thể giải thích dựa vào cơ 
chế tạo kháng thể bất thường sau mỗi lần truyền máu ở bệnh nhân β-Thal. 
 Mặc dù chẩn đoán β-Thal thể nặng thường là không khó, nhưng điều 
này thường gây khó khăn ở các nước đang phát triển khi đi kèm với một số 
bệnh nhiễm trùng (sẽ làm tăng mức độ tan huyết hoặc sau khi bệnh nhân dùng 
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT 
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 104 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH 
thuốc kéo dài (Khone, E., 2011 . Theo gia đình, bệnh nhân Nguyễn Thị Mộng 
N được phát hiện mắc bệnh β-Thal khi đang nhập viện điều trị viêm hô hấp lúc 
2 tuổi. Từ thời điểm đó, cứ cách 2-3 tháng bệnh nhân được chỉ định đến bệnh 
viện theo d i, truyền máu. Thời gian càng rút ngắn lại, cho đến hiện tại 
khoảng 1lần/1tháng. 
Ngoại trừ ABO và Rh, bệnh nhân không được xét nghiệm các kháng thể 
lạ kháng hồng cầu (xuất hiện sau mỗi lần truyền máu và các kháng nguyên 
nhóm máu khác trước khi truyền máu. Hồng cầu khối không qua quá trình lọc 
rửa, chưa có chương trình thải sắt tại nơi điều trị. Tất cả có thể là nguyên nhân 
đã chuyển bệnh nhân từ thiếu máu thể trung gian thành thể nặng như hiện nay 
sau 11 năm truyền máu. 
Trong khi mẹ của bệnh nhân lúc còn nhỏ chỉ phát hiện thiếu máu không 
r nguyên nhân ở trạm y tế, do xa bệnh viện và gia đình không có điều kiện 
nên bệnh nhân chỉ được đưa đến bệnh viện truyền máu khi bị ngất. Tính đến 
thời điểm trước kết hôn (20 tuổi , mẹ bệnh nhân chỉ truyền máu được hai lần. 
Mẹ bệnh nhân chỉ được chẩn đoán mắc bệnh β-Thal và được khám định kỳ khi 
điều trị cùng con. 
Như vậy, tất cả các xét nghiệm về thông số huyết học (công thức máu, 
điện di Hb,.là một bước không thể thiếu trong việc chẩn đoán và điều trị 
bệnh nhân β-Thal. Nhưng theo nghiên cứu, chẩn đoán thalassemia thật sự 
được khẳng định khi kết hợp lâm sàng, các thông số huyết học với cả xét 
nghiệm sinh học phân tử tìm ra chính xác kiểu ĐB gây bệnh. Tất cả sẽ là cơ sở 
vững chắc giúp bác sĩ có thể khẳng định chính xác mức độ thiếu máu nặng, 
nhẹ cho mỗi bệnh nhân. Từ đó, một phác đồ điều trị sẽ được thiết lập phù hợp, 
giúp bệnh nhân giảm biến chứng và kéo dài tuổi thọ cũng như tránh những 
trường hợp truyền máu quá nhiều cho những kiểu ĐB gen gây thiếu máu trung 
gian. 
Tóm lại, bên cạnh các kiểu ĐB phổ biến chiếm tỷ lệ cao, nghiên cứu đã 
ghi nhận có đến 9 kiểu ĐB khác. Trong đó có cả ĐB mới, ĐB chưa phát hiện 
trong các nghiên cứu trước tại Việt Nam, hơn nữa các ĐB này còn rất hiếm 
gặp trên thế giới. Điều này cho thấy phổ ĐB của bệnh nhân β-Thal khu vực 
ĐBSCL rất rộng. Kết quả nghiên cứu là một tiền đề quan trọng trong việc gợi 
ý các xét nghiệm tìm kiểu gen cho bệnh nhân hoặc chẩn đoán trước sinh cho 
đối tượng mang gen có ý định có con. Cần phải chú trọng sử d ng k thuật 
phù hợp để tránh bỏ sót và dẫn đến việc chào đời bé thể nặng hoặc đánh giá 
sai về thể bệnh ảnh hưởng điều trị cho bệnh nhân . 
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT 
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 105 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH 
 5.2.2.2. Tỷ lệ các kiểu đột biến theo các nhóm dân tộc khu vực Đồng 
bằng Sông Cửu Long 
Kết quả nghiên cứu ghi nhận: có sự khác nhau về số lượng người mang 2 
đột biến với một ĐB theo từng dân tộc. Điều này là do quá trình chọn thuận 
tiện các đối tượng mắc bệnh β-Thal nhập viện trong thời gian thực hiện nghiên 
cứu tại nơi lấy mẫu (Bảng 4.7 . Ngoài ra, nghiên cứu cũng phát hiện số lượng 
và tỷ lệ các kiểu ĐB không giống nhau ở từng nhóm dân tộc nghiên cứu. 
Trong 4 dân tộc khảo sát ở khu vực ĐBSCL, dân tộc Kinh có số lượng 
các kiểu ĐB nhiều nhất. Có đến 16 kiểu ĐB được xác định, trong đó 97,5% 
ĐB thuộc 8 kiểu phổ biến ở Việt Nam, có 8 kiểu ĐB khác thuộc dạng không 
phổ biến chiếm 2,5%. Như vậy, các ĐB không phổ biến và ĐB mới trong 
nghiên cứu đều tập trung ở dân tộc này. Điều này có thể do 88% số lượng mẫu 
nghiên cứu được chọn là bệnh nhân β-Thal có dân tộc Kinh. Cỡ mẫu khá lớn 
đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện các ĐB hiếm. 
Theo ghi nhận của nghiên cứu có 8/9 kiểu ĐB hiếm gặp được tìm thấy ở 
dân tộc Kinh. Trong khi, ở dân tộc Hoa chỉ có 4 kiểu ĐB xuất hiện: βCd41/42, 
βIVS2.654, β-28và βHbE và 100% là ĐB phổ biến. Đây cũng là các ĐB phổ biến 
của người Trung Quốc (Bảng 5.3 . Người Hoa ở miền nam Việt Nam đều do 
người Trung Quốc di cư sang. Do vậy, có thể lý giải sự xuất hiện các ĐB trong 
dân tộc này một phần là do sự di truyền từ tổ tiên. 
Dân tộc Khmer, ngoại trừ βCd15 là kiểu ĐB không phổ biến duy nhất tìm 
gặp và chiếm 2,6%. Có 4/5 kiểu thuộc dạng ĐB phổ biến: βHbE, βCd41/42, βCd17 
và βIVS2.654 chiếm 97,4%. Trong đó, kiểu βHbE, βCd41/42 chiếm tỷ lệ cao nhất lần 
lượt là 48,7% và 33,3%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu 2011 của chúng 
tôi, tỷ lệ mang gen bệnh HbE trong cộng đồng dân tộc Khmer rất cao (31% . 
Khi thực hiện ARMS-PCR cho các bệnh nhân mang gen β-Thal, đột biến 
βCd41/42 cũng là ĐB duy nhất được phát hiện. 
 Tuy tỷ lệ từng kiểu ĐB khác nhau ở mỗi dân tộc, nhưng nghiên cứu ghi 
nhận được ở cả 3 dân tộc: Kinh, Khmer, Hoa, 2 kiểu đột biến: βHbE, βCd41/42 
luôn chiếm tỷ lệ cao nhất, bên cạnh sự xuất hiện các ĐB phổ biến khác. Ở khu 
vực ĐBSCL, dân tộc Hoa, Khmer sống ở rất nhiều tỉnh và thường co c m ở 
huyện xã riêng. Việc kết hôn cùng tộc vẫn còn xảy ra, thời gian gần đây, với 
sự hòa nhập các cộng đồng dân tộc các cuộc hôn nhân giữa dân tộc Hoa với 
các dân tộc Kinh, Khmer đã xuất hiện nhiều hơn. Điều này đã góp phần lan 
rộng các kiểu ĐB gây bệnh từ cộng đồng dân tộc này sang dân tộc khác. 
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_su_di_truyen_cac_dot_bien_gay_benh_o_benh.pdf
  • pdf02. TOM TAT DE TAI - TIENG VIET -NGA-2013.pdf
  • pdf03. TOM TAT DE TAI -TIENG ANH - NGA -2013.pdf
  • doc04. TRANG THONG TIN - TIENG VIET-NGA-2013.doc
  • doc05. TRANG THONG TIN - TIENG ANH - NGA-2013.doc