Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò

Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 171 trang nguyenduy 07/10/2025 40
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò

Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò
an đầu (ml); B: Khí sinh ra khi lên men (ml); (A+B): Tiềm năng sinh 
khí; c: Tốc độ sinh khí (%/giờ); L: Pha dừng (giờ); OMD: Tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (%); 
VFA: axit béo bay hơi tổng số (mmol/200mg chất khô); SEM: sai số số trung bình 
74 
Kết quả bảng 3.3 cho một số nhận xét như sau: Tại thời điểm 24h lượng 
khí tích lũy ở mẫu đối chứng thấp hơn rõ rệt (P<0,05) các mẫu bổ sung chế 
phẩm, đạt cao nhất ở mức bổ sung 11‰ (25,5ml) và 13‰ (24,4ml) lần lượt đối 
với chế phẩm A và chế phẩm C. Lượng khí sinh ra đạt thấp nhất ở mức đối 
chứng 15,6ml. 
Hình 3.2. Ảnh hưởng các mức bổ sung chế phẩm đến lượng khí sinh ra khi lên 
men in vitro cỏ khô Pangola (Ghi chú: (A): BestFRumen ; (C): BestFRumen) 
Số liệu bảng 3.3 cho thấy tiềm năng sinh khí ở các mẫu bổ sung chế phẩm 
A có sự khác biệt so với mẫu đối chứng (P<0,05) và tiềm năng sinh khí giữa 
hai mức bổ sung 9‰ và 13‰ là gần như bằng nhau. Tiềm năng sinh khí đạt 
cao nhất ở mức 11‰ (32,9ml), thấp nhất ở mức đối chứng 25,7ml. Đối với chế 
phẩm C, có sự khác biệt về tiềm năng sinh khí khi bổ sung chế phẩm ở mức 
11‰ và 13‰ so với đối chứng. Tuy nhiên, không có sự khác biệt rõ rệt khi bổ 
sung ở mức 15‰ so với đối chứng. Tiềm năng sinh khí đạt cao nhất khi bổ 
sung chế phẩm C ở mức 13‰ (32,5ml) và thấp nhất ở mức đối chứng 25,7ml 
(P<0,05). 
75 
Tốc độ sinh khí c đạt cao nhất ở mức bổ sung 11‰ chế phẩm A và 13‰ 
chế phẩm C cao hơn hẳn đối chứng (5,2 và 4,8 so với 3,7%/h) trong khi đó các 
mức bổ sung còn lại gần như không có sự khác biệt so với đối chứng (P>0,05). 
Pha dừng ở đây dao động từ 4h đến 4,3h, hầu như không có sự khác nhau 
đáng kể về pha dừng khi ta bổ sung chế phẩm A hoặc C ở các mức khác nhau 
vào rơm so với đối chứng (P>0,05). 
Tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (OMD) và axit béo bay hơi tổng số (VFA) của 
cỏ khô Pangola trong thí nghiệm cũng cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê (P<0,05) giữa các mẫu ủ, khi bổ sung chế phẩm enzyme thì giá trị các chỉ số 
này có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, bổ sung chế phẩm A ở mức 11‰ và chế 
phẩm B ở mức 13‰ cho các giá trị OMD và VFA tương ứng là (41,1; 40,1% 
và 0,56; 0,54 mmol) đạt cao nhất so với các liều bổ sung còn lại và đối chứng 
(P<0,05). 
3.1.4. Tốc độ và đặc điểm sinh khí in vitro của cỏ voi 
Lượng khí sinh ra của cỏ voi khi bổ sung các mức chế phẩm sinh học 
được trình bày ở bảng 3.4 và minh họa qua hình 3.3. 
Kết quả ở bảng 3.4 cho thấy, lượng khí tích lũy trong quá trình lên men 
tăng dần theo thời gian ủ và tăng mạnh tại thời điểm 24h sau ủ. Tại thời điểm 
này, lượng khí sinh ra có sự khác biệt đáng kể (P<0,05) giữa mẫu đối chứng so 
với mẫu có bổ sung chế phẩm, trừ công thức bổ sung chế phẩm A ở mức 13‰ 
là không có sự khác biệt với đối chứng. Khi bổ sung chế phẩm A vào cỏ voi thì 
tốc độ sinh khí đạt cao nhất ở mức bổ sung 11‰ (31ml) và thấp nhất ở mức 
13‰ (23,9ml) nhưng vẫn cao hơn so với đối chứng (23,7ml). Tương tự như 
vậy khi bổ sung chế phẩm C vào cỏ voi thì lượng khí sinh ra có sự khác biệt 
đáng kể (P<0,05) giữa mẫu có bổ sung chế phẩm ở tất cả các mức bổ sung so 
với mẫu đối chứng. Lượng khí sinh ra đạt cao nhất ở mức bổ sung 13‰ (30ml) 
76 
và thấp nhất là mức bổ sung 15‰ (26ml) nhưng vẫn cao hơn mức đối chứng 
(23,7ml). 
Bảng 3.4. Ảnh hưởng các mức bổ sung chế phẩm đến lượng khí sinh ra khi 
lên men in vitro cỏ voi 
Thông số 
0 
(ĐC) 
Liều bổ sung A Liều bổ sung C 
SEM 
9‰ 11‰ 13‰ 11‰ 13‰ 15‰ 
Lượng khí sinh ra 
(mL/200 mg DM) 
Thời gian ủ (giờ) 
3 4,8ab 6,0a 5,8a 5,4ab 5,7ab 5,6ab 5,6ab 0,15 
6 6,7b 7,7ab 8,2a 7,3ab 7,7ab 7,9ab 7,5ab 0,18 
9 7,2c 8,5b 10,6a 8,2bc 8,6b 9,1b 7,8bc 0,41 
12 10,9d 13,6abc 15,0a 13,1bc 13,4abc 14,0ab 12,1cd 0,50 
24 23,7e 26,4cd 31,0a 23,9e 28,3bc 30,0ab 26,0d 1,08 
48 27,6c 32,3ab 35,7a 30,1bc 32,9 ab 34,7a 29,6bc 1,10 
72 31,5c 35,1ab 37,3a 33,4bc 35,3ab 36,6ab 33,9bc 0,75 
96 32.0c 36,4ab 38,3a 35,2ab 36,3ab 37,5ab 34,7bc 0,78 
Đặc điểm sinh khí 
A 4,8b 6,0a 5,8a 5,4ab 5,7ab 5,6ab 5,6ab 0,15 
B 28,0c 31,1ab 33,0a 30,6abc 31,2ab 32,6ab 29,9bc 0,64 
A + B 32,8c 37,2ab 38,9a 36,0abc 36,9ab 38,2ab 35,4bc 0,76 
C 4,3bc 4,3bc 5,4a 3,9c 4,8ab 5,1a 4,3bc 0,20 
L 4,5a 4,5a 4,3a 4,2a 4,5a 4,5a 4,6a 0,05 
OMD 40,8bc 43,2b 47,3a 41,0bc 44,9ab 46,4a 42,8c 0,96 
VFA 0.52d 0.58c 0.68a 0.53d 0.62b 0.66a 0.57c 0.02 
Ghi chú: a, b, c, d, e,các giá trị trung bình trong cùng một hàng với các chữ cái khác nhau là 
khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05); Chế phẩm A:BestFRumen ; Chế phẩm C: 
BestFRumen; A:Khí ban đầu (ml); B: Khí sinh ra khi lên men (ml); (A+B): Tiềm năng sinh 
khí; c: Tốc độ sinh khí (%/giờ); L: Pha dừng (giờ); OMD: Tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (%); 
VFA: axit béo bay hơi tổng số (mmol/200ng chất khô); SEM: sai số số trung bình. 
Động thái sinh khí in vitro của cỏ voi khi bổ sung chế phẩm sinh học ở 
bảng 3.4 cho thấy, tiềm năng sinh khí ở các mẫu bổ sung chế phẩm 
BestFRumen có sự khác biệt so với mẫu đối chứng (P<0,05), tiềm năng sinh 
khí đạt cao nhất ở mức 11‰ (38,9ml), thấp nhất ở mức đối chứng 32,8ml. Đối 
với chế phẩm C, chúng tôi thấy tiềm năng sinh khí ở các mẫu bổ sung chế phẩm 
77 
có sự khác biệt so với mẫu đối chứng (P<0,05), tuy nhiên không có sự khác biệt 
giữa hai mức bổ sung 11‰ và 13‰. Tiềm năng sinh khí đạt cao nhất ở mức 
13‰ (38,2ml), thấp nhất ở mức đối chứng 32,8ml (P<0,05). 
Hình 3.3. Ảnh hưởng các mức bổ sung chế phẩm đến lượng khí sinh ra khi lên 
men in vitro cỏ voi (Ghi chú: (A): BestFRumen ; (C): BestFRumen) 
Tốc độ sinh khí c: Khi bổ sung chế phẩm A ở mức 11‰ và 13‰ thì tốc 
độ lên men sinh khí có sự khác biệt so với đối chứng, còn bổ sung ở mức 9‰ 
không tạo nên sự khác biệt đáng kể so với đối chứng (P<0,05). Tốc độ sinh khí 
đạt cao nhất ở mức bổ sung 11‰ (5,4%/h) và cao hơn hẳn đối chứng 4,3%/h 
(P<0,05). Tương tự như vậy khi bổ sung chế phẩm C ở mức 11‰ và 13‰ thì 
tốc độ lên men sinh khí có sự khác biệt so với đối chứng, còn bổ sung ở mức 
15‰ không tạo nên sự khác biệt đáng kể so với đối chứng. Tốc độ sinh khí đạt 
cao nhất ở mức bổ sung 13‰ (5,1%/h) và cao hơn hẳn đối chứng 4,3%/h 
(P<0,05). 
Pha dừng ở đây dao động từ 4,2h đến 4,6h, hầu như không có sự khác 
nhau đáng kể về pha dừng khi ta bổ sung chế phẩm vào cỏ voi so với đối chứng. 
78 
Về các chỉ tiêu tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (OMD) và axit béo bay hơi tổng 
số (VFA) của cỏ voi cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) giữa 
các mẫu ủ, khi bổ sung chế phẩm enzyme thì giá trị các chỉ số này có xu hướng 
tăng lên. Tuy nhiên, cũng như mẫu rơm và cỏ khô Pangola, khi bổ sung chế 
phẩm A ở mức 11‰ và chế phẩm B ở mức 13‰ thì các giá trị OMD và VFA 
tương ứng là (47,3; 46,4% và 0,68; 0,66 mmol) đạt cao nhất so với các liều bổ 
sung còn lại và đối chứng (P<0,05). 
3.1.5. Tốc độ và đặc điểm sinh khí in vitro của thân cây ngô 
Tốc độ và đặc điểm sinh khí của thân cây ngô khi bổ sung chế phẩm sinh 
học được trình bày ở bảng 3.5 và minh họa qua hình 3.4. 
Số liệu bảng 3.5 cho thấy, tại thời điểm 24h sau ủ, lượng khí sinh ra có 
sự khác biệt đáng kể giữa mẫu đối chứng (không bổ sung chế phẩm) và mẫu có 
bổ sung chế phẩm (P<0,05). Khi bổ sung chế phẩm A vào thân cây ngô thì 
lượng khí sinh ra đạt cao nhất ở mức bổ sung 11‰ (31ml) và thấp nhất là 13‰ 
(25,3ml) nhưng vẫn cao hơn mức đối chứng (22,8ml). Tương tự như vậy khi 
bổ sung chế phẩm C vào thân cây ngô, lượng khí sinh ra có sự khác biệt đáng 
kể giữa mẫu đối chứng (không bổ sung chế phẩm) và mẫu có bổ sung chế phẩm 
(P<0,05). Lượng khí sinh ra đạt cao nhất ở mức bổ sung 13‰ (30,1ml) và thấp 
nhất là 15‰ (25,5ml) nhưng vẫn cao hơn mức đối chứng (22,8ml). 
Bảng 3.5. Ảnh hưởng các mức bổ sung chế phẩm đến lượng khí sinh ra khi 
lên men in vitro thân cây ngô 
Thông số 
0 
(ĐC) 
Liều bổ sung A Liều bổ sung C 
SEM 
9‰ 11‰ 13‰ 11‰ 13‰ 15‰ 
Lượng khí sinh ra 
(mL/200 mg DM) 
Thời gian ủ (giờ) 
3 3,3a 3,2a 3,3a 3,0a 3,5a 3,7 a 3,4a 0,08 
6 4,2d 5,8abc 6,5a 5,3bc 5,6abc 6,2ab 4,9cd 0,30 
9 7,6c 10,2ab 11,6a 8,7bc 8,8bc 9,0bc 8,5bc 0,49 
12 12,8d 15,0abc 16,9a 13,5cd 14,8bcd 16,0ab 13,9cd 0,54 
79 
Thông số 
0 
(ĐC) 
Liều bổ sung A Liều bổ sung C 
SEM 
9‰ 11‰ 13‰ 11‰ 13‰ 15‰ 
24 22,8c 27,9abc 31,0a 25,3bc 27,5abc 30,1ab 25,5bc 1,08 
48 28,2c 34,1ab 35,9a 30,3bc 33,9ab 35,2a 32,7ab 1,04 
72 32,7b 35,3ab 38,1a 33,4ab 36,4ab 37,4ab 34,8ab 0,76 
96 33,5b 36,4ab 39,6a 35,3ab 37,9ab 38,9a 36,0ab 0,81 
Đặc điểm sinh khí 
A 3,3a 3,2a 3,3a 3,0a 3,5a 3,7a 3,4a 0,08 
B 30,7b 33,4ab 36,0a 32,0ab 34,6ab 35,3a 33,0ab 0,71 
A + B 34,0b 36,7ab 39,3a 35,0ab 38,1ab 39,0a 36,4ab 0,76 
C 4,4c 5,7ab 6,0a 4,9bc 5,0bc 5,5ab 4,9bc 0,21 
L 4,2a 3,9ab 3,7b 3,9ab 4,1ab 4,1ab 4,2ab 0,07 
OMD 40,0d 44,5b 47,3a 42,2c 44,1b 46,5a 42,4c 0,96 
VFA 0,50d 0,62b 0,68a 0,56c 0,61b 0,66a 0,56c 0,02 
Ghi chú: a, b, c, d, e, các giá trị trung bình trong cùng một hàng với các chữ cái khác nhau là 
khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05); Chế phẩm A:BestFRumen ; Chế phẩm C: 
BestFRumen; A:Khí ban đầu (ml); B: Khí sinh ra khi lên men (ml); (A+B): Tiềm năng sinh 
khí; c: Tốc độ sinh khí (%/giờ); L: Pha dừng (giờ); OMD: Tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (%); 
VFA: axit béo bay hơi tổng số (mmol/200mg chất khô); SEM: sai số số trung bình 
Hình 3.4. Ảnh hưởng các mức bổ sung chế phẩm đến lượng khí sinh ra khi lên 
men in vitro thân cây ngô (Ghi chú: (A): BestFRumen ; (C): BestFRumen) 
80 
Động thái sinh khí in vitro của thân cây ngô khi bổ sung chế phẩm sinh 
học ở bảng 3.5 cho thấy, tiềm năng sinh khí ở các mẫu bổ sung chế phẩm A 
trên thân cây ngô có sự khác biệt so với mẫu đối chứng (P<0,05), tuy nhiên 
giữa hai mức 9‰ và 13‰ thì tiềm năng sinh khi không có sự khác biệt rõ rệt. 
Tiềm năng sinh khí đạt cao nhất ở mức bổ sung 11‰ (39,3ml), thấp nhất ở mức 
đối chứng 34ml. Đối với chế phẩm C, tiềm năng sinh khí ở các mẫu bổ sung 
chế phẩm trên thân cây ngô có sự khác biệt so với mẫu đối chứng (P<0,05), tuy 
nhiên, giữa hai mức 11‰ và 15‰ thì tiềm năng sinh khi không có sự khác biệt 
rõ rệt. Tiềm năng sinh khí đạt cao nhất ở mức bổ sung 13‰ (39ml), thấp nhất 
ở mức đối chứng 34ml. 
Tốc độ sinh khí c, ở tất cả các mức bổ sung chế phẩm đều cao hơn đối 
chứng rõ rệt với P<0,05, đạt cao nhất ở mức bổ sung 11‰ (6,0%/h) ở chế phẩm 
A và 13‰ (5,5%/h) ở chế phẩm C, thấp nhất ở đối chứng (4,4%/h). 
Pha dừng phụ thuộc vào chất dễ lên men có trong khẩu phần. Pha dừng 
ở đây dao động từ 3,7h đến 4,2h. Pha dừng ở các mức bổ sung chế phẩm đều có 
sự khác biệt rõ rệt so với đối chứng với P<0,05. Pha dừng dài nhất ở mẫu đối 
chứng (4,2h), có thể là do vi sinh vật mất nhiều thời gian ban đầu để tấn công 
phá vỡ thức ăn khi ủ thí nghiệm. Pha dừng ngắn nhất là ở mức 11‰ khi bổ 
sung chế phẩm A (3,7h). 
Các chỉ tiêu tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (OMD) và axit béo bay hơi tổng số 
(VFA) của cỏ khô cỏ cây ngô sau thu bắp cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (P<0,05) giữa các mẫu ủ, khi bổ sung chế phẩm enzyme thì giá trị các 
chỉ số này có xu hướng tăng lên. Khi bổ sung chế phẩm A ở mức 11‰ và chế 
phẩm B ở mức 13‰ thì các giá trị OMD và VFA tương ứng là (47,3; 46,5% và 
0,68; 0,66 mmol) đạt cao nhất so với các liều bổ sung còn lại và đối chứng 
(P<0,05). 
81 
Thảo luận chung thí nghiệm 1 
Khi nồng độ enzyme tăng, lượng khí sinh ra theo xu hướng tăng lên. Tuy 
nhiên, khi nồng độ enzyme đạt đến một ngưỡng nào đó thì nồng độ cơ chất sẽ 
trở thành yếu tố hạn chế tốc độ phản ứng. Điều này là hoàn toàn hợp lý vì lượng 
khí sinh ra không những phụ thuộc vào bản chất của thức ăn mà còn phụ thuộc 
vào nồng độ các enzyme có mặt trong dạ cỏ. Trong ngưỡng giới hạn, nồng độ 
enzyme càng cao thì tốc độ phản ứng càng cao, lượng khí sinh ra càng cao, Pell 
và Schofield (1) cho rằng điều cốt lõi của tốc độ sinh khí khi lên men in vitro 
là thời gian ủ được tính toán trên cơ sở lấy giá trị lượng khí sinh ra trừ đi lượng 
khí sinh ra ở thời điểm trước đó và giá trị này có thể cho ta những gợi ý sơ bộ 
về tỷ lệ tiêu hóa khác nhau của thức ăn. 
Lượng khí sản sinh ra khi lên men in vitro và khả năng tiêu hóa thức ăn in 
vivo có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, khí sinh ra là kết quả của quá trình lên 
men các chất dinh dưỡng trong thức ăn. Các nghiên cứu trước đây cho thấy, khả 
năng tồn tại của vi khuẩn axit lactic trong dạ cỏ làm thay đổi các thông số của 
quá trình lên men dạ cỏ in vitro và ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật dạ cỏ (Gollop 
và cộng sự., 2005; Weinberg và cộng sự., 2004). Kết quả thu được từ nghiên cứu 
của chúng tôi chỉ ra rằng việc bổ sung probiotic đã nâng cao tốc độ lên men dạ 
cỏ bằng cách tăng lượng khí sản sinh, các thông số về đặc điểm sinh khí lên men 
và tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (OMD). Việc đo lượng khí sản sinh trong ống 
nghiệm đã cung cấp thông tin hữu ích về đặc điểm tiêu hóa của các phần hòa tan 
và không hòa tan trong thức ăn (Getachew và cộng sự., 1998). Việc khí sinh ra 
ban đầu (A) có giá trị thấp là do quá trình lên men phần hòa tan bị trì hoãn do có 
sự chậm trễ trong quá trình xâm nhập của vi sinh vật hoặc thời gian trễ hay pha 
dừng (L) sau khi phân hủy phần hòa tan trước khi lên men thành tế bào (Blümmel 
và Becker, 1997). Sự gia tăng lượng khí tích lũy, khối lượng khí sản sinh trong 
quá trình lên men (B) tạo ra từ phần không hòa tan và tiềm năng sinh khí (A+B) 
82 
cho thấy khả năng tiêu hóa cơ chất và hoạt động của vi khuẩn phân giải xơ tăng 
lên. Soriano và cộng sự. (2014) báo cáo rằng không có sự khác biệt đáng kể về 
tổng lượng khí sản sinh, đặc điểm sinh khí và OMD khi bổ sung 1% 
Lactobacillus mucosae vào hỗn hợp dung dịch trong xi lanh chạy gas. Các chủng 
vi khuẩn axit lactic và mức độ khác nhau có thể đã tác động làm biến đổi quá 
trình lên men dạ cỏ. Vai trò của vi sinh vật dạ cỏ, bao gồm vi khuẩn và động vật 
nguyên sinh, trong việc tiêu hóa các phần thức ăn hòa tan và không hòa tan của 
thức ăn đã được biết rõ. Trong nghiên cứu này, sự cải thiện đặc điểm sản xuất 
khí và OMD có thể được giải thích là do bổ sung chế phẩm enzyme phân giải 
xơ, theo đó cải thiện hoạt động của quần thể vi sinh vật. 
Trong nghiên cứu này, việc bổ sung enzyme phân giải xơ làm tăng đáng 
kể lượng axit béo bay hơi tổng số (VFA) trong dịch dạ cỏ. Các thành phần cấu 
trúc xơ thành tế bào thực vật là nguồn cung cấp carbohydrate chính cho gia súc 
nhai lại, chúng được vi sinh vật dạ cỏ lên men để tạo ra VFA, sau đó được hấp 
thụ qua thành dạ cỏ, đóng góp một nguồn năng lượng chính cho động vật chủ 
(Candyrine và cộng sự., 2017). Các thành phần dinh dưỡng của cơ chất được lên 
men in vitro, sản sinh VFA và khí (chủ yếu là CO2 và CH4) và tạo điều kiện cho 
tế bào vi sinh vật phát triển (Getachew và cộng sự., 1998). Việc cải thiện quá 
trình tiêu hóa cơ chất thông qua bổ sung probiotic đã góp phần vào việc sản xuất 
VFA cao hơn. Phát hiện này phù hợp với Soriano và cộng sự. (2014), người đã 
báo cáo sự cải thiện đáng kể nồng độ VFA riêng lẻ và tổng bằng cách đưa 1% 
phần nổi của L. mucosae vào ủ trong ống nghiệm trong thời gian 48h. 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy, bổ sung chế phẩm probiotic có 
thể đã tác động lên quần thể vi sinh vật trong quá trình lên men dạ cỏ in vitro. 
Theo đó làm tăng tổng số vi khuẩn, vi khuẩn phân giải xơ và tổng số động vật 
nguyên sinh. Việc cải thiện tổng lượng khí sinh ra trong quá trình lên men cho 
thấy sự gia tăng hoạt động của vi khuẩn phân giải xenluloza trong dịch dạ cỏ 
83 
vì hoạt động của vi khuẩn phân giải xenlulo càng cao thì tạo ra VFA và khí 
càng cao. Theo Krause và cộng sự. (1999) bổ sung enzyme phân giải xơ đã tác 
động theo chiều hướng có lợi cho hoạt động của Fibrobacter, Ruminococcus 
và Butyrivibrio là những vi khuẩn trong dạ cỏ chiếm ưu thế trong phân giải chất 
xơ của thành tế bào thực vật để tạo ra VFA. Tương tự như vậy, khi quần thể vi 
khuẩn phân giải xenlulo tăng lên có thể giải thích cho việc làm tỷ lệ tiêu hóa 
chất hữu cơ (OMD) cao hơn. Một số nghiên cứu cho thấy, tác dụng của 
probiotic mà không cần sự hiện diện của tế bào sống (Loh và cộng sự., 2010; 
Thanh và cộng sự., 2010; Thu và cộng sự., 2011b). 
Trong nghiên cứu hiện tại, việc cải thiện tổng số vi khuẩn và vi khuẩn 
phân giải xenluloza có thể là do sự tương tác của probiotic enzyme phân giải 
xơ bổ sung có chứa các chất chuyển hóa của vi khuẩn chủng nấm sợi hữu ích 
A.oryzae và vi khuẩn Lactobacillus, Bacillus và Saccharomyces với vi khuẩn 
dạ cỏ. Yoon và Stern (1995) đã báo cáo rằng việc kích thích sự phát triển của 
vi sinh vật, thay đổi mô hình lên men trong dạ cỏ và cải thiện khả năng tiêu hóa 
là những phương thức hoạt động của probiotics được bổ sung trong khẩu phần 
ăn của gia súc nhai lại. Bổ sung probiotic làm tăng cường khả năng thích nghi 
của vi khuẩn trong dạ cỏ động vật nhai lại với sự hiện diện của axit lactic hoặc 
ngăn cản sự tích tụ axit lactic trong dạ cỏ bằng cách phân giải axit lactic thành 
axit axetic (Ghorbani và cộng sự., 2002; Nocek và cộng sự., 2002). Theo Jiao 
và cộng sự. (2017) bổ sung probiotic đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho 
các hoạt động của nhóm vi khuẩn phân giải xenlulo và tăng khả năng tiêu hóa 
xơ. Điều này phù hợp với nghiên cứu hiện tại, trong đó sự gia tăng lượng khí 
sản sinh khi lên men in vitro thức ăn giàu xơ đồng thời cải thiện tỷ lệ tiêu hóa 
chất hữu cơ của thức ăn OMD khi bổ sung probiotic. 
Kết luận sơ bộ thí nghiệm 1 
 Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn trong 
84 
nghiên cứu này có sự biến động do vậy lượng khí sinh ra, các thông số về đặc 
điểm sinh khí trong quá trình lên men in vitro, giá trị tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ 
và hàm lượng axit béo bay hơi tổng số có sự khác nhau tùy loại thức ăn. 
 Việc bổ sung chế phẩm emzyme phân giải xơ đã làm tăng lượng khí sản 
sinh, tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ và hàm lượng axit béo bay hơi 
 Bổ sung chế phẩm A (BestFRumen ) mức 9‰ và 11‰; chế phẩm C 
(BestFRumen) mức 11‰ và 13‰ cho các kết quả về lượng khí sản sinh, tỷ 
lệ tiêu hóa chất hữu cơ và hàm lượng axit béo bay hơi cao hơn so với mức khác. 
 Tiếp tục nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của bổ sung chế phẩm A 
(BestFRumen ) mức 9‰ và 11‰ và chế phẩm C (BestFRumen) mức 11‰ 
và 13‰ đến tốc độ và đặc điểm phân giải in sacco của một số thức ăn giàu 
xellulose làm thức ăn cho gia súc nhai lại để lựa chọn mức bổ sung thích hợp. 
3.2. ẢNH HƯỞNG CỦA BỔ SUNG CHẾ PHẨM SINH HỌC ĐẾN KHẢ 
NĂNG PHÂN GIẢI MỘT SỐ THỨC ĂN GIÀU XƠ BẰNG PHƯƠNG PHÁP 
IN SACCO VÀ THAY ĐỔI HỆ VI SINH VẬT DẠ CỎ 
Trên cơ sở kết quả thu được của nội dung 1, chúng tôi lựa chọn bổ sung 
chế phẩm A (BestFRumen ) mức 9‰ và 11‰; chế phẩm C (BestFRumen) 
bổ sung mức 11‰ và 13‰ được sử dụng cho nghiên cứu nội dung này để lựa 
chọn mức bổ sung thích hợp. 
3.2.1. Tỷ lệ và đặc điểm phân giải chất khô in sacco của rơm 
Tỷ lệ và đặc điểm phân giải vật chất khô in sacco của rơm được trình 
bày ở bảng 3.6 và minh họa qua hình 3.5a và 3.5b. 
Kết quả ở bảng 3.6 cho thấy, tỷ lệ phân giải chất khô (DM) của rơm tại 
các thời điểm là khác nhau giữa các khẩu phần. Tốc độ phân giải tăng mạnh ở 
khoảng thời gian từ 4 – 48h và từ 72 – 96h có tăng nhưng chậm hơn. Ở tất cả 
các thời điểm, tốc độ phân giải DM của rơm của các khẩu phần bổ sung chế 
85 
phẩm đều cao hơn khẩu phần đối chứng (P<0,05). Tại thời điểm 24h ủ mẫu, tỷ 
lệ phân giải DM của rơm ở các khẩu phần bổ sung 40g chế phẩm (A) và (C) 
mức 50g đạt tương ứng là 45,80 và 44,36% trong khi đó giá trị này ở khẩu phần 
đối chứng là 34,04% (P<0,05) đồng thời cao hơn hẳn các mức bổ sung khác. 
Nhìn chung, tỷ lệ phân giải DM của rơm ở khẩu phần được bổ sung chế phẩm sinh 
học cao hơn 30% so với khẩu phần đối chứng, đặc biệt ở giai đoạn 24h ủ mẫu. 
Bảng 3.6. Ảnh hưởng các mức bổ sung chế phẩm đến tỷ lệ và đặc điểm 
phân giải chất khô in sacco của rơm 
Thông số ĐC (0) 
Liều bổ sung A (g) Liều bổ sung C (g) 
SEM 
30 40 40 50 
Tỷ lệ phân giải (%/DM) 
Thời gian ủ (giờ) 
4 16,90b 19,04a 19,66a 19,37a 18,73a 1,09 
8 18

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_su_dung_che_pham_sinh_hoc_phan_giai_xo_tr.pdf
  • pdfNCS. Phạm Nọc Thạch - Tom tat luan an TA.pdf
  • pdfPhạm Ngọc Thạch-Tom tat luan an TV.pdf
  • pdfThong tin dong gop moi cua luan an.pdf
  • pdfTrich yeu luan an.pdf