Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phân giải xơ trong khẩu phần nuôi bò

an đầu (ml); B: Khí sinh ra khi lên men (ml); (A+B): Tiềm năng sinh khí; c: Tốc độ sinh khí (%/giờ); L: Pha dừng (giờ); OMD: Tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (%); VFA: axit béo bay hơi tổng số (mmol/200mg chất khô); SEM: sai số số trung bình 74 Kết quả bảng 3.3 cho một số nhận xét như sau: Tại thời điểm 24h lượng khí tích lũy ở mẫu đối chứng thấp hơn rõ rệt (P<0,05) các mẫu bổ sung chế phẩm, đạt cao nhất ở mức bổ sung 11‰ (25,5ml) và 13‰ (24,4ml) lần lượt đối với chế phẩm A và chế phẩm C. Lượng khí sinh ra đạt thấp nhất ở mức đối chứng 15,6ml. Hình 3.2. Ảnh hưởng các mức bổ sung chế phẩm đến lượng khí sinh ra khi lên men in vitro cỏ khô Pangola (Ghi chú: (A): BestFRumen ; (C): BestFRumen) Số liệu bảng 3.3 cho thấy tiềm năng sinh khí ở các mẫu bổ sung chế phẩm A có sự khác biệt so với mẫu đối chứng (P<0,05) và tiềm năng sinh khí giữa hai mức bổ sung 9‰ và 13‰ là gần như bằng nhau. Tiềm năng sinh khí đạt cao nhất ở mức 11‰ (32,9ml), thấp nhất ở mức đối chứng 25,7ml. Đối với chế phẩm C, có sự khác biệt về tiềm năng sinh khí khi bổ sung chế phẩm ở mức 11‰ và 13‰ so với đối chứng. Tuy nhiên, không có sự khác biệt rõ rệt khi bổ sung ở mức 15‰ so với đối chứng. Tiềm năng sinh khí đạt cao nhất khi bổ sung chế phẩm C ở mức 13‰ (32,5ml) và thấp nhất ở mức đối chứng 25,7ml (P<0,05). 75 Tốc độ sinh khí c đạt cao nhất ở mức bổ sung 11‰ chế phẩm A và 13‰ chế phẩm C cao hơn hẳn đối chứng (5,2 và 4,8 so với 3,7%/h) trong khi đó các mức bổ sung còn lại gần như không có sự khác biệt so với đối chứng (P>0,05). Pha dừng ở đây dao động từ 4h đến 4,3h, hầu như không có sự khác nhau đáng kể về pha dừng khi ta bổ sung chế phẩm A hoặc C ở các mức khác nhau vào rơm so với đối chứng (P>0,05). Tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (OMD) và axit béo bay hơi tổng số (VFA) của cỏ khô Pangola trong thí nghiệm cũng cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) giữa các mẫu ủ, khi bổ sung chế phẩm enzyme thì giá trị các chỉ số này có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, bổ sung chế phẩm A ở mức 11‰ và chế phẩm B ở mức 13‰ cho các giá trị OMD và VFA tương ứng là (41,1; 40,1% và 0,56; 0,54 mmol) đạt cao nhất so với các liều bổ sung còn lại và đối chứng (P<0,05). 3.1.4. Tốc độ và đặc điểm sinh khí in vitro của cỏ voi Lượng khí sinh ra của cỏ voi khi bổ sung các mức chế phẩm sinh học được trình bày ở bảng 3.4 và minh họa qua hình 3.3. Kết quả ở bảng 3.4 cho thấy, lượng khí tích lũy trong quá trình lên men tăng dần theo thời gian ủ và tăng mạnh tại thời điểm 24h sau ủ. Tại thời điểm này, lượng khí sinh ra có sự khác biệt đáng kể (P<0,05) giữa mẫu đối chứng so với mẫu có bổ sung chế phẩm, trừ công thức bổ sung chế phẩm A ở mức 13‰ là không có sự khác biệt với đối chứng. Khi bổ sung chế phẩm A vào cỏ voi thì tốc độ sinh khí đạt cao nhất ở mức bổ sung 11‰ (31ml) và thấp nhất ở mức 13‰ (23,9ml) nhưng vẫn cao hơn so với đối chứng (23,7ml). Tương tự như vậy khi bổ sung chế phẩm C vào cỏ voi thì lượng khí sinh ra có sự khác biệt đáng kể (P<0,05) giữa mẫu có bổ sung chế phẩm ở tất cả các mức bổ sung so với mẫu đối chứng. Lượng khí sinh ra đạt cao nhất ở mức bổ sung 13‰ (30ml) 76 và thấp nhất là mức bổ sung 15‰ (26ml) nhưng vẫn cao hơn mức đối chứng (23,7ml). Bảng 3.4. Ảnh hưởng các mức bổ sung chế phẩm đến lượng khí sinh ra khi lên men in vitro cỏ voi Thông số 0 (ĐC) Liều bổ sung A Liều bổ sung C SEM 9‰ 11‰ 13‰ 11‰ 13‰ 15‰ Lượng khí sinh ra (mL/200 mg DM) Thời gian ủ (giờ) 3 4,8ab 6,0a 5,8a 5,4ab 5,7ab 5,6ab 5,6ab 0,15 6 6,7b 7,7ab 8,2a 7,3ab 7,7ab 7,9ab 7,5ab 0,18 9 7,2c 8,5b 10,6a 8,2bc 8,6b 9,1b 7,8bc 0,41 12 10,9d 13,6abc 15,0a 13,1bc 13,4abc 14,0ab 12,1cd 0,50 24 23,7e 26,4cd 31,0a 23,9e 28,3bc 30,0ab 26,0d 1,08 48 27,6c 32,3ab 35,7a 30,1bc 32,9 ab 34,7a 29,6bc 1,10 72 31,5c 35,1ab 37,3a 33,4bc 35,3ab 36,6ab 33,9bc 0,75 96 32.0c 36,4ab 38,3a 35,2ab 36,3ab 37,5ab 34,7bc 0,78 Đặc điểm sinh khí A 4,8b 6,0a 5,8a 5,4ab 5,7ab 5,6ab 5,6ab 0,15 B 28,0c 31,1ab 33,0a 30,6abc 31,2ab 32,6ab 29,9bc 0,64 A + B 32,8c 37,2ab 38,9a 36,0abc 36,9ab 38,2ab 35,4bc 0,76 C 4,3bc 4,3bc 5,4a 3,9c 4,8ab 5,1a 4,3bc 0,20 L 4,5a 4,5a 4,3a 4,2a 4,5a 4,5a 4,6a 0,05 OMD 40,8bc 43,2b 47,3a 41,0bc 44,9ab 46,4a 42,8c 0,96 VFA 0.52d 0.58c 0.68a 0.53d 0.62b 0.66a 0.57c 0.02 Ghi chú: a, b, c, d, e,các giá trị trung bình trong cùng một hàng với các chữ cái khác nhau là khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05); Chế phẩm A:BestFRumen ; Chế phẩm C: BestFRumen; A:Khí ban đầu (ml); B: Khí sinh ra khi lên men (ml); (A+B): Tiềm năng sinh khí; c: Tốc độ sinh khí (%/giờ); L: Pha dừng (giờ); OMD: Tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (%); VFA: axit béo bay hơi tổng số (mmol/200ng chất khô); SEM: sai số số trung bình. Động thái sinh khí in vitro của cỏ voi khi bổ sung chế phẩm sinh học ở bảng 3.4 cho thấy, tiềm năng sinh khí ở các mẫu bổ sung chế phẩm BestFRumen có sự khác biệt so với mẫu đối chứng (P<0,05), tiềm năng sinh khí đạt cao nhất ở mức 11‰ (38,9ml), thấp nhất ở mức đối chứng 32,8ml. Đối với chế phẩm C, chúng tôi thấy tiềm năng sinh khí ở các mẫu bổ sung chế phẩm 77 có sự khác biệt so với mẫu đối chứng (P<0,05), tuy nhiên không có sự khác biệt giữa hai mức bổ sung 11‰ và 13‰. Tiềm năng sinh khí đạt cao nhất ở mức 13‰ (38,2ml), thấp nhất ở mức đối chứng 32,8ml (P<0,05). Hình 3.3. Ảnh hưởng các mức bổ sung chế phẩm đến lượng khí sinh ra khi lên men in vitro cỏ voi (Ghi chú: (A): BestFRumen ; (C): BestFRumen) Tốc độ sinh khí c: Khi bổ sung chế phẩm A ở mức 11‰ và 13‰ thì tốc độ lên men sinh khí có sự khác biệt so với đối chứng, còn bổ sung ở mức 9‰ không tạo nên sự khác biệt đáng kể so với đối chứng (P<0,05). Tốc độ sinh khí đạt cao nhất ở mức bổ sung 11‰ (5,4%/h) và cao hơn hẳn đối chứng 4,3%/h (P<0,05). Tương tự như vậy khi bổ sung chế phẩm C ở mức 11‰ và 13‰ thì tốc độ lên men sinh khí có sự khác biệt so với đối chứng, còn bổ sung ở mức 15‰ không tạo nên sự khác biệt đáng kể so với đối chứng. Tốc độ sinh khí đạt cao nhất ở mức bổ sung 13‰ (5,1%/h) và cao hơn hẳn đối chứng 4,3%/h (P<0,05). Pha dừng ở đây dao động từ 4,2h đến 4,6h, hầu như không có sự khác nhau đáng kể về pha dừng khi ta bổ sung chế phẩm vào cỏ voi so với đối chứng. 78 Về các chỉ tiêu tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (OMD) và axit béo bay hơi tổng số (VFA) của cỏ voi cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) giữa các mẫu ủ, khi bổ sung chế phẩm enzyme thì giá trị các chỉ số này có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, cũng như mẫu rơm và cỏ khô Pangola, khi bổ sung chế phẩm A ở mức 11‰ và chế phẩm B ở mức 13‰ thì các giá trị OMD và VFA tương ứng là (47,3; 46,4% và 0,68; 0,66 mmol) đạt cao nhất so với các liều bổ sung còn lại và đối chứng (P<0,05). 3.1.5. Tốc độ và đặc điểm sinh khí in vitro của thân cây ngô Tốc độ và đặc điểm sinh khí của thân cây ngô khi bổ sung chế phẩm sinh học được trình bày ở bảng 3.5 và minh họa qua hình 3.4. Số liệu bảng 3.5 cho thấy, tại thời điểm 24h sau ủ, lượng khí sinh ra có sự khác biệt đáng kể giữa mẫu đối chứng (không bổ sung chế phẩm) và mẫu có bổ sung chế phẩm (P<0,05). Khi bổ sung chế phẩm A vào thân cây ngô thì lượng khí sinh ra đạt cao nhất ở mức bổ sung 11‰ (31ml) và thấp nhất là 13‰ (25,3ml) nhưng vẫn cao hơn mức đối chứng (22,8ml). Tương tự như vậy khi bổ sung chế phẩm C vào thân cây ngô, lượng khí sinh ra có sự khác biệt đáng kể giữa mẫu đối chứng (không bổ sung chế phẩm) và mẫu có bổ sung chế phẩm (P<0,05). Lượng khí sinh ra đạt cao nhất ở mức bổ sung 13‰ (30,1ml) và thấp nhất là 15‰ (25,5ml) nhưng vẫn cao hơn mức đối chứng (22,8ml). Bảng 3.5. Ảnh hưởng các mức bổ sung chế phẩm đến lượng khí sinh ra khi lên men in vitro thân cây ngô Thông số 0 (ĐC) Liều bổ sung A Liều bổ sung C SEM 9‰ 11‰ 13‰ 11‰ 13‰ 15‰ Lượng khí sinh ra (mL/200 mg DM) Thời gian ủ (giờ) 3 3,3a 3,2a 3,3a 3,0a 3,5a 3,7 a 3,4a 0,08 6 4,2d 5,8abc 6,5a 5,3bc 5,6abc 6,2ab 4,9cd 0,30 9 7,6c 10,2ab 11,6a 8,7bc 8,8bc 9,0bc 8,5bc 0,49 12 12,8d 15,0abc 16,9a 13,5cd 14,8bcd 16,0ab 13,9cd 0,54 79 Thông số 0 (ĐC) Liều bổ sung A Liều bổ sung C SEM 9‰ 11‰ 13‰ 11‰ 13‰ 15‰ 24 22,8c 27,9abc 31,0a 25,3bc 27,5abc 30,1ab 25,5bc 1,08 48 28,2c 34,1ab 35,9a 30,3bc 33,9ab 35,2a 32,7ab 1,04 72 32,7b 35,3ab 38,1a 33,4ab 36,4ab 37,4ab 34,8ab 0,76 96 33,5b 36,4ab 39,6a 35,3ab 37,9ab 38,9a 36,0ab 0,81 Đặc điểm sinh khí A 3,3a 3,2a 3,3a 3,0a 3,5a 3,7a 3,4a 0,08 B 30,7b 33,4ab 36,0a 32,0ab 34,6ab 35,3a 33,0ab 0,71 A + B 34,0b 36,7ab 39,3a 35,0ab 38,1ab 39,0a 36,4ab 0,76 C 4,4c 5,7ab 6,0a 4,9bc 5,0bc 5,5ab 4,9bc 0,21 L 4,2a 3,9ab 3,7b 3,9ab 4,1ab 4,1ab 4,2ab 0,07 OMD 40,0d 44,5b 47,3a 42,2c 44,1b 46,5a 42,4c 0,96 VFA 0,50d 0,62b 0,68a 0,56c 0,61b 0,66a 0,56c 0,02 Ghi chú: a, b, c, d, e, các giá trị trung bình trong cùng một hàng với các chữ cái khác nhau là khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05); Chế phẩm A:BestFRumen ; Chế phẩm C: BestFRumen; A:Khí ban đầu (ml); B: Khí sinh ra khi lên men (ml); (A+B): Tiềm năng sinh khí; c: Tốc độ sinh khí (%/giờ); L: Pha dừng (giờ); OMD: Tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (%); VFA: axit béo bay hơi tổng số (mmol/200mg chất khô); SEM: sai số số trung bình Hình 3.4. Ảnh hưởng các mức bổ sung chế phẩm đến lượng khí sinh ra khi lên men in vitro thân cây ngô (Ghi chú: (A): BestFRumen ; (C): BestFRumen) 80 Động thái sinh khí in vitro của thân cây ngô khi bổ sung chế phẩm sinh học ở bảng 3.5 cho thấy, tiềm năng sinh khí ở các mẫu bổ sung chế phẩm A trên thân cây ngô có sự khác biệt so với mẫu đối chứng (P<0,05), tuy nhiên giữa hai mức 9‰ và 13‰ thì tiềm năng sinh khi không có sự khác biệt rõ rệt. Tiềm năng sinh khí đạt cao nhất ở mức bổ sung 11‰ (39,3ml), thấp nhất ở mức đối chứng 34ml. Đối với chế phẩm C, tiềm năng sinh khí ở các mẫu bổ sung chế phẩm trên thân cây ngô có sự khác biệt so với mẫu đối chứng (P<0,05), tuy nhiên, giữa hai mức 11‰ và 15‰ thì tiềm năng sinh khi không có sự khác biệt rõ rệt. Tiềm năng sinh khí đạt cao nhất ở mức bổ sung 13‰ (39ml), thấp nhất ở mức đối chứng 34ml. Tốc độ sinh khí c, ở tất cả các mức bổ sung chế phẩm đều cao hơn đối chứng rõ rệt với P<0,05, đạt cao nhất ở mức bổ sung 11‰ (6,0%/h) ở chế phẩm A và 13‰ (5,5%/h) ở chế phẩm C, thấp nhất ở đối chứng (4,4%/h). Pha dừng phụ thuộc vào chất dễ lên men có trong khẩu phần. Pha dừng ở đây dao động từ 3,7h đến 4,2h. Pha dừng ở các mức bổ sung chế phẩm đều có sự khác biệt rõ rệt so với đối chứng với P<0,05. Pha dừng dài nhất ở mẫu đối chứng (4,2h), có thể là do vi sinh vật mất nhiều thời gian ban đầu để tấn công phá vỡ thức ăn khi ủ thí nghiệm. Pha dừng ngắn nhất là ở mức 11‰ khi bổ sung chế phẩm A (3,7h). Các chỉ tiêu tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (OMD) và axit béo bay hơi tổng số (VFA) của cỏ khô cỏ cây ngô sau thu bắp cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) giữa các mẫu ủ, khi bổ sung chế phẩm enzyme thì giá trị các chỉ số này có xu hướng tăng lên. Khi bổ sung chế phẩm A ở mức 11‰ và chế phẩm B ở mức 13‰ thì các giá trị OMD và VFA tương ứng là (47,3; 46,5% và 0,68; 0,66 mmol) đạt cao nhất so với các liều bổ sung còn lại và đối chứng (P<0,05). 81 Thảo luận chung thí nghiệm 1 Khi nồng độ enzyme tăng, lượng khí sinh ra theo xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, khi nồng độ enzyme đạt đến một ngưỡng nào đó thì nồng độ cơ chất sẽ trở thành yếu tố hạn chế tốc độ phản ứng. Điều này là hoàn toàn hợp lý vì lượng khí sinh ra không những phụ thuộc vào bản chất của thức ăn mà còn phụ thuộc vào nồng độ các enzyme có mặt trong dạ cỏ. Trong ngưỡng giới hạn, nồng độ enzyme càng cao thì tốc độ phản ứng càng cao, lượng khí sinh ra càng cao, Pell và Schofield (1) cho rằng điều cốt lõi của tốc độ sinh khí khi lên men in vitro là thời gian ủ được tính toán trên cơ sở lấy giá trị lượng khí sinh ra trừ đi lượng khí sinh ra ở thời điểm trước đó và giá trị này có thể cho ta những gợi ý sơ bộ về tỷ lệ tiêu hóa khác nhau của thức ăn. Lượng khí sản sinh ra khi lên men in vitro và khả năng tiêu hóa thức ăn in vivo có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, khí sinh ra là kết quả của quá trình lên men các chất dinh dưỡng trong thức ăn. Các nghiên cứu trước đây cho thấy, khả năng tồn tại của vi khuẩn axit lactic trong dạ cỏ làm thay đổi các thông số của quá trình lên men dạ cỏ in vitro và ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật dạ cỏ (Gollop và cộng sự., 2005; Weinberg và cộng sự., 2004). Kết quả thu được từ nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng việc bổ sung probiotic đã nâng cao tốc độ lên men dạ cỏ bằng cách tăng lượng khí sản sinh, các thông số về đặc điểm sinh khí lên men và tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (OMD). Việc đo lượng khí sản sinh trong ống nghiệm đã cung cấp thông tin hữu ích về đặc điểm tiêu hóa của các phần hòa tan và không hòa tan trong thức ăn (Getachew và cộng sự., 1998). Việc khí sinh ra ban đầu (A) có giá trị thấp là do quá trình lên men phần hòa tan bị trì hoãn do có sự chậm trễ trong quá trình xâm nhập của vi sinh vật hoặc thời gian trễ hay pha dừng (L) sau khi phân hủy phần hòa tan trước khi lên men thành tế bào (Blümmel và Becker, 1997). Sự gia tăng lượng khí tích lũy, khối lượng khí sản sinh trong quá trình lên men (B) tạo ra từ phần không hòa tan và tiềm năng sinh khí (A+B) 82 cho thấy khả năng tiêu hóa cơ chất và hoạt động của vi khuẩn phân giải xơ tăng lên. Soriano và cộng sự. (2014) báo cáo rằng không có sự khác biệt đáng kể về tổng lượng khí sản sinh, đặc điểm sinh khí và OMD khi bổ sung 1% Lactobacillus mucosae vào hỗn hợp dung dịch trong xi lanh chạy gas. Các chủng vi khuẩn axit lactic và mức độ khác nhau có thể đã tác động làm biến đổi quá trình lên men dạ cỏ. Vai trò của vi sinh vật dạ cỏ, bao gồm vi khuẩn và động vật nguyên sinh, trong việc tiêu hóa các phần thức ăn hòa tan và không hòa tan của thức ăn đã được biết rõ. Trong nghiên cứu này, sự cải thiện đặc điểm sản xuất khí và OMD có thể được giải thích là do bổ sung chế phẩm enzyme phân giải xơ, theo đó cải thiện hoạt động của quần thể vi sinh vật. Trong nghiên cứu này, việc bổ sung enzyme phân giải xơ làm tăng đáng kể lượng axit béo bay hơi tổng số (VFA) trong dịch dạ cỏ. Các thành phần cấu trúc xơ thành tế bào thực vật là nguồn cung cấp carbohydrate chính cho gia súc nhai lại, chúng được vi sinh vật dạ cỏ lên men để tạo ra VFA, sau đó được hấp thụ qua thành dạ cỏ, đóng góp một nguồn năng lượng chính cho động vật chủ (Candyrine và cộng sự., 2017). Các thành phần dinh dưỡng của cơ chất được lên men in vitro, sản sinh VFA và khí (chủ yếu là CO2 và CH4) và tạo điều kiện cho tế bào vi sinh vật phát triển (Getachew và cộng sự., 1998). Việc cải thiện quá trình tiêu hóa cơ chất thông qua bổ sung probiotic đã góp phần vào việc sản xuất VFA cao hơn. Phát hiện này phù hợp với Soriano và cộng sự. (2014), người đã báo cáo sự cải thiện đáng kể nồng độ VFA riêng lẻ và tổng bằng cách đưa 1% phần nổi của L. mucosae vào ủ trong ống nghiệm trong thời gian 48h. Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy, bổ sung chế phẩm probiotic có thể đã tác động lên quần thể vi sinh vật trong quá trình lên men dạ cỏ in vitro. Theo đó làm tăng tổng số vi khuẩn, vi khuẩn phân giải xơ và tổng số động vật nguyên sinh. Việc cải thiện tổng lượng khí sinh ra trong quá trình lên men cho thấy sự gia tăng hoạt động của vi khuẩn phân giải xenluloza trong dịch dạ cỏ 83 vì hoạt động của vi khuẩn phân giải xenlulo càng cao thì tạo ra VFA và khí càng cao. Theo Krause và cộng sự. (1999) bổ sung enzyme phân giải xơ đã tác động theo chiều hướng có lợi cho hoạt động của Fibrobacter, Ruminococcus và Butyrivibrio là những vi khuẩn trong dạ cỏ chiếm ưu thế trong phân giải chất xơ của thành tế bào thực vật để tạo ra VFA. Tương tự như vậy, khi quần thể vi khuẩn phân giải xenlulo tăng lên có thể giải thích cho việc làm tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (OMD) cao hơn. Một số nghiên cứu cho thấy, tác dụng của probiotic mà không cần sự hiện diện của tế bào sống (Loh và cộng sự., 2010; Thanh và cộng sự., 2010; Thu và cộng sự., 2011b). Trong nghiên cứu hiện tại, việc cải thiện tổng số vi khuẩn và vi khuẩn phân giải xenluloza có thể là do sự tương tác của probiotic enzyme phân giải xơ bổ sung có chứa các chất chuyển hóa của vi khuẩn chủng nấm sợi hữu ích A.oryzae và vi khuẩn Lactobacillus, Bacillus và Saccharomyces với vi khuẩn dạ cỏ. Yoon và Stern (1995) đã báo cáo rằng việc kích thích sự phát triển của vi sinh vật, thay đổi mô hình lên men trong dạ cỏ và cải thiện khả năng tiêu hóa là những phương thức hoạt động của probiotics được bổ sung trong khẩu phần ăn của gia súc nhai lại. Bổ sung probiotic làm tăng cường khả năng thích nghi của vi khuẩn trong dạ cỏ động vật nhai lại với sự hiện diện của axit lactic hoặc ngăn cản sự tích tụ axit lactic trong dạ cỏ bằng cách phân giải axit lactic thành axit axetic (Ghorbani và cộng sự., 2002; Nocek và cộng sự., 2002). Theo Jiao và cộng sự. (2017) bổ sung probiotic đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của nhóm vi khuẩn phân giải xenlulo và tăng khả năng tiêu hóa xơ. Điều này phù hợp với nghiên cứu hiện tại, trong đó sự gia tăng lượng khí sản sinh khi lên men in vitro thức ăn giàu xơ đồng thời cải thiện tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ của thức ăn OMD khi bổ sung probiotic. Kết luận sơ bộ thí nghiệm 1 Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn trong 84 nghiên cứu này có sự biến động do vậy lượng khí sinh ra, các thông số về đặc điểm sinh khí trong quá trình lên men in vitro, giá trị tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ và hàm lượng axit béo bay hơi tổng số có sự khác nhau tùy loại thức ăn. Việc bổ sung chế phẩm emzyme phân giải xơ đã làm tăng lượng khí sản sinh, tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ và hàm lượng axit béo bay hơi Bổ sung chế phẩm A (BestFRumen ) mức 9‰ và 11‰; chế phẩm C (BestFRumen) mức 11‰ và 13‰ cho các kết quả về lượng khí sản sinh, tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ và hàm lượng axit béo bay hơi cao hơn so với mức khác. Tiếp tục nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của bổ sung chế phẩm A (BestFRumen ) mức 9‰ và 11‰ và chế phẩm C (BestFRumen) mức 11‰ và 13‰ đến tốc độ và đặc điểm phân giải in sacco của một số thức ăn giàu xellulose làm thức ăn cho gia súc nhai lại để lựa chọn mức bổ sung thích hợp. 3.2. ẢNH HƯỞNG CỦA BỔ SUNG CHẾ PHẨM SINH HỌC ĐẾN KHẢ NĂNG PHÂN GIẢI MỘT SỐ THỨC ĂN GIÀU XƠ BẰNG PHƯƠNG PHÁP IN SACCO VÀ THAY ĐỔI HỆ VI SINH VẬT DẠ CỎ Trên cơ sở kết quả thu được của nội dung 1, chúng tôi lựa chọn bổ sung chế phẩm A (BestFRumen ) mức 9‰ và 11‰; chế phẩm C (BestFRumen) bổ sung mức 11‰ và 13‰ được sử dụng cho nghiên cứu nội dung này để lựa chọn mức bổ sung thích hợp. 3.2.1. Tỷ lệ và đặc điểm phân giải chất khô in sacco của rơm Tỷ lệ và đặc điểm phân giải vật chất khô in sacco của rơm được trình bày ở bảng 3.6 và minh họa qua hình 3.5a và 3.5b. Kết quả ở bảng 3.6 cho thấy, tỷ lệ phân giải chất khô (DM) của rơm tại các thời điểm là khác nhau giữa các khẩu phần. Tốc độ phân giải tăng mạnh ở khoảng thời gian từ 4 – 48h và từ 72 – 96h có tăng nhưng chậm hơn. Ở tất cả các thời điểm, tốc độ phân giải DM của rơm của các khẩu phần bổ sung chế 85 phẩm đều cao hơn khẩu phần đối chứng (P<0,05). Tại thời điểm 24h ủ mẫu, tỷ lệ phân giải DM của rơm ở các khẩu phần bổ sung 40g chế phẩm (A) và (C) mức 50g đạt tương ứng là 45,80 và 44,36% trong khi đó giá trị này ở khẩu phần đối chứng là 34,04% (P<0,05) đồng thời cao hơn hẳn các mức bổ sung khác. Nhìn chung, tỷ lệ phân giải DM của rơm ở khẩu phần được bổ sung chế phẩm sinh học cao hơn 30% so với khẩu phần đối chứng, đặc biệt ở giai đoạn 24h ủ mẫu. Bảng 3.6. Ảnh hưởng các mức bổ sung chế phẩm đến tỷ lệ và đặc điểm phân giải chất khô in sacco của rơm Thông số ĐC (0) Liều bổ sung A (g) Liều bổ sung C (g) SEM 30 40 40 50 Tỷ lệ phân giải (%/DM) Thời gian ủ (giờ) 4 16,90b 19,04a 19,66a 19,37a 18,73a 1,09 8 18
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_su_dung_che_pham_sinh_hoc_phan_giai_xo_tr.pdf
NCS. Phạm Nọc Thạch - Tom tat luan an TA.pdf
Phạm Ngọc Thạch-Tom tat luan an TV.pdf
Thong tin dong gop moi cua luan an.pdf
Trich yeu luan an.pdf