Luận án Nghiên cứu sử dụng chitosan Việt Nam như chất kháng khuẩn cho vải bông

Luận án Nghiên cứu sử dụng chitosan Việt Nam như chất kháng khuẩn cho vải bông trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu sử dụng chitosan Việt Nam như chất kháng khuẩn cho vải bông trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu sử dụng chitosan Việt Nam như chất kháng khuẩn cho vải bông trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu sử dụng chitosan Việt Nam như chất kháng khuẩn cho vải bông trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu sử dụng chitosan Việt Nam như chất kháng khuẩn cho vải bông trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu sử dụng chitosan Việt Nam như chất kháng khuẩn cho vải bông trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu sử dụng chitosan Việt Nam như chất kháng khuẩn cho vải bông trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu sử dụng chitosan Việt Nam như chất kháng khuẩn cho vải bông trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu sử dụng chitosan Việt Nam như chất kháng khuẩn cho vải bông trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu sử dụng chitosan Việt Nam như chất kháng khuẩn cho vải bông trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 149 trang nguyenduy 11/05/2025 180
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu sử dụng chitosan Việt Nam như chất kháng khuẩn cho vải bông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu sử dụng chitosan Việt Nam như chất kháng khuẩn cho vải bông

Luận án Nghiên cứu sử dụng chitosan Việt Nam như chất kháng khuẩn cho vải bông
osan sử dụng trong nghiên cứu được nêu trong bảng 2.2: 
Bảng 2.2: Chỉ tiêu kỹ thuật của chitosan sử dụng làm chất kháng khuẩn trong nghiên cứu 
Mẫu 
Khối lượng phân tử 
trung bình (MW - kDa) 
Mức độ deacetyl 
(DD - %) 
Hệ số đa phân tán 
(PDI) 
CTS02 187,00 72,20 - 
CTS02-PD1 50,00 75,25 1,73 
CTS02-PD6 2,60
77,03 1,38 
Hình 2.2: Mẫu chitosan thương mại (a) và chitosan sử dụng trong nghiên cứu (b) 
a b 
 51 
2.1.3 Các chất liên kết ngang 
 Chitosan và vải bông không thể liên kết hoá trị với nhau. Để tạo được liên kết hóa trị 
bền vững giữa vải bông và chitosan người ta phải tạo ra các cầu nối giữa vải bông và 
chitosan thông qua các chất liên kết ngang. 
Qua các tài liệu nghiên cứu tổng quan về hoàn tất kháng khuẩn cho vải bông (bảng 1.5) 
cho thấy: vải bông được xử lý với chitosan có khả năng kháng khuẩn. Tuy nhiên khả năng 
kháng khuẩn của vải bông chỉ xử lý với riêng chitosan không bền với quá trình giặt nhiều lần 
trong quá trình sử dụng. Để có được hiệu quả kháng khuẩn bền với nhiều lần giặt, các nghiên 
cứu sử dụng một số chất liên kết ngang như: CA, BTCA, hợp chất N- dimetylol dihydroxy 
ethylene urea (DMDHEU). Kết quả tổng quan cho thấy rằng: 
- CA được sử dụng nhiều nhất trong các nghiên cứu vì giá thành rất rẻ, mặc dù khi sử 
dụng CA thì vải sau xử lý sẽ bị vàng và giảm độ bền. 
- So sánh với DMDHEU thì BTCA cho khả năng kháng khuẩn và độ bền kháng khuẩn 
cao hơn [57]. Tuy nhiên có nhiều lý do giải thích tại sao chất liên kết ngang này chưa được 
ngành xử lý hoàn tất hàng dệt chấp nhận: 
+ BTCA là loại bột có độ hòa tan với nước thấp, tối đa là 130g/l. 
+ BTCA khó khăn được chấp nhận trên thị trường vì giá thành quá cao. 
+ Quá trình tạo liên kết ngang yêu cầu nhiệt độ cao. 
- Vì vậy, nghiên cứu này lựa chọn chất liên kết ngang CA với chất xúc tác SHP cùng 
với chitosan để nghiên cứu ảnh hưởng của khối lượng phân tử của chitosan tới khả năng 
kháng khuẩn cho vải bông. Tiếp theo, nghiên cứu tiếp tục lựa chọn chất liên kết ngang 
Arkofix NET (DMDHEU) đang được sử dụng phổ biến hiện nay trong công nghệ hoàn tất 
chống nhàu cho vải bông để so sánh với CA như vai trò chất liên kết ngang. 
2.1.3.1 Axit Citric (C6H8O7) 
Axit Citric (CA) là một axit hữu cơ yếu và nó được tìm thấy trong các loại trái cây như 
chanh. Trong quá trình hoàn tất kháng khuẩn vải bông, CA vừa có vai trò là chất tạo liên kết 
ngang giữa chitosan và vải bông, đồng thời có tác dụng làm chitosan dễ hòa tan hoàn toàn, 
nhất là với các sản phẩm chitosan có khối lượng phân tử lớn trên 10kDa. Công thức hóa học 
của axit Citric được thể hiện trên hình 2.3: 
Hình 2.3: Công thức hóa học của axit Citric (nguồn:[12]) 
Do trong phân tử có chứa 03 nhóm cacboxyl, axit Citric được dự đoán có thể đồng thời 
phản ứng với nhóm hydroxyl có trong xenlulo và chitosan hay với nhóm amin có trong 
chitosan để tạo liên kết ngang giữa bông và chitosan. Đây chính là lý do luận án lựa chọn CA 
như chất liên kết ngang làm đối tượng nghiên cứu. 
Natri Hypophostphite (SHP) được sử dụng như một chất xúc tác trong quá trình thực 
hiện phản ứng tạo liên kết ngang giữa mạch phân tử của xenlulo và chitosan. 
2.1.3.2 Arkofix NET 
Arkofix NET là tên thương mại của hợp chất N- metylol dihydroxy ethylene urea 
(DMDHEU), thuộc nhóm chất tạo liên kết ngang ít formaldehyt chuyên dùng cho xử lý hoàn 
tất chống nhàu, ổn định kích thước cho vật liệu dệt chứa xơ xenlulo và hỗn hợp của chúng 
với xơ tổng hợp. Một ưu điểm của Arkofix NET là có khả năng hạn chế hiện tượng vàng vải 
 52 
và mức giảm độ bền thấp khi sử dụng làm chất chống nhàu. Sản phẩm hoàn tất với Arkofix 
NET đáp ứng yêu cầu Eco-tex 100 cho sản phẩm may mặc tiếp xúc với da (hàm lượng 
formaldehyt trên mặt hàng thấp hơn 75ppm). Arkofix NET được cung cấp bởi công ty 
TNHH Clariant Việt Nam. 
Hình 2.4: Công thức cấu tạo hóa học của Arkofix NET 
Do trong phân tử của Arkofix NET (hình 2.4) có chứa 02 nhóm hydroxyl metyl. Khi 
xử lý chống nhàu cho các loại vải xenlulo, các nhóm hydroxyl này sẽ tham gia vào phản ứng 
với các nhóm hydroxyl của mạch phân tử xenlulo tạo nên liên kết ngang, làm cho xenlulo có 
cấu trúc mắt lưới và ít nhàu. Còn trong trường hợp này, Arkofix NET được dự đoán có thể 
phản ứng với nhóm hydroxyl có trong xenlulo và chitosanhay với nhóm amin có trong 
chitosan bằng liên kết ete để tạo liên kết ngang giữa các mạch phân tử của xenlulo bông và 
chitosan hoặc liên kết tay ba xenlulo – Arkofix NET – Chitosan – xenlulo theo nhiều phương 
án khác nhau. Đây cũng chính là lý do luận án lựa chọn Arkofix NET như một chất liên kết 
ngang để so sánh với CA. 
Catalyst NKC được sử dụng như là một chất xúc tác trong phản ứng tạo liên kết ngang 
giữa Arkofix NET với các mạch phân tử của xenlulo và chitosan. 
2.2 Nội dung nghiên cứu 
2.2.1 Nghiên cứu đặc tính kỹ thuật và tách các phân đoạn của các mẫu 
chitosan sau chiếu xạ tia gamma 
2.2.1.1 Nghiên cứu đặc tính kỹ thuật của các mẫu chitosan sau chiếu xạ 
Các chế phẩm chitosan sau chiếu xạ được kiểm tra hai đặc tính quan trọng ảnh hưởng 
tới khả năng ứng dụng của chúng: khối lượng phân tử (MW) và mức độ deacetyl hóa (DD). 
2.2.1.2 Nghiên cứu tách các phân đoạn chitosan sau chiếu xạ 
Các chế phẩm chitosan sau chiếu xạ được lọc tách lấy phân đoạn chitosan có khối 
lượng phân tử phân bố đồng đều trong khoảng hẹp theo mục đích sử dụng. 
2.2.1.3 Nghiên cứu đặc tính tan của các phân đoạn chitosan sau chiếu xạ 
Các chế phẩm chitosan sau chiếu xạ được thử tính tan, lựa chọn được chế phẩm 
chitosan phù hợp ứng dụng trong ngành dệt. 
2.2.2 Nghiên cứu sử dụng chitosan công nghiệp Việt Nam và các chế phẩm 
chitosan sau chiếu xạ từ chúng trong xử lý kháng khuẩn cho vải bông 
2.2.2.1 Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của khối lượng phân tử và nồng độ sử 
dụng của chitosan tới khả năng kháng khuẩn của vải bông được xử lý bằng 
chitosan 
Nghiên cứu sử dụng 03 loại chitosan như bảng 2.2 với chất liên kết ngang CA để xử lý 
kháng khuẩn cho vải bông, kết quả: 
 53 
- Đánh giá ảnh hưởng của khối lượng phân tử của chitosan sử dụng đến khả năng diệt 
khuẩn của vải sau xử lý. 
- Đánh giá ảnh hưởng của nồng độ chitosan sử dụng đến khả năng diệt khuẩn của vải 
sau xử lý. 
2.2.2.2 Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của khối lượng phân tử của chitosan tới độ 
bền kháng khuẩn của vải bông được xử lý với chitosan sau các lần giặt 
Nghiên cứu này cũng sử dụng 03 loại chitosan như bảng 2.2 với chất liên kết ngang 
CA để xử lý kháng khuẩn cho vải bông, vải bông sau xử lý được giặt nhiều lần. Đánh giá độ 
bền kháng khuẩn của vải sau xử lý theo 02 quy trình: 
- Ảnh hưởng của khối lượng phân tử của chitosan tới độ bền kháng khuẩn của vải bông 
sau xử lý được giặt 05 chu trình bằng cách kiểm tra trong 1 lần thí nghiệm khả năng kháng 
khuẩn của vải được xử lý kháng khuẩn với 03 loại chitosan khác nhau và sau 05 lần giặt với 
nồng độ chitosan hoặc 0,1 hoặc 0,3 hoặc 1,0%. 
- Ảnh hưởng của khối lượng phân tử của chitosan tới độ bền kháng khuẩn của vải bông 
sau nhiều lần giặt bằng cách kiểm tra trong 1 lần thí nghiệm khả năng kháng khuẩn của vải 
được xử lý kháng khuẩn với 03 loại chitosan khác nhau tại nồng độ 0,1% và sau 10, hoặc 15, 
hoặc 20, hoặc 25 lần giặt. 
- Ảnh hưởng của số lần giặt tới khả năng kháng khuẩn của vải bông xử lý với chitosan 
bằng cách kiểm tra khả năng kháng khuẩn của vải được xử lý với chitosan có MW 50kDa tại 
0,1% nhưng sau 5, 10, 15, 20, 25 lần giặt. 
- Để chứng minh vải sau xử lý có khả năng kháng khuẩn chính là nhờ chitosan, nghiên 
cứu đã tìm cách xác định định tính và định lượng lượng chitosan có trên vải bông sau xử lý 
bằng 02 phương pháp khác nhau: 
+ Phương pháp nhuộm màu sử dụng thuốc nhuộm axit. 
+ Phương pháp đo lượng nitơ có trên vải. 
2.2.2.3 Nghiên cứu ảnh hưởng của chất liên kết ngang và khối lượng phân tử tới 
khả năng kháng khuẩn, độ bền kháng khuẩn và tính chất cơ lý của vải bông xử lý 
bằng chitosan 
Nghiên cứu này đã xử lý kháng khuẩn cho vải bông bằng 02 loại chitosan CTS02 
(MW=187kDa) và CTS02-PD6 (MW=2,6kDa) và 02 loại chất liên kết ngang (CA và 
Arkofix NET), 04 loại vải sau xử lý được giặt 20 lần. 
- Kiểm tra khả năng diệt khuẩn của vải sau xử lý để đánh giá ảnh hưởng của chất liên 
kết ngang và MW tới khả năng kháng khuẩn của vải sau xử lý. 
- Kiểm tra khả năng diệt khuẩn của 04 loại vải trên trong cùng 1 thí nghiệm sau 5, hoặc 
10, hoặc 15, hoặc 20 lần giặt để đánh giá ảnh hưởng của chất liên kết ngang và MW tới độ 
bền kháng khuẩn của vải theo các lần giặt. 
- Xác định lượng chitosan có trên 04 loại vải sau xử lý vải và sau 5, 10, 15, 20 lần giặt 
bằng các phương pháp: 
+ Xác định hàm lượng nhóm amin có trên vải bông sau xử lý bằng phương pháp 
nhuộm màu. 
+ Phương pháp đo lượng Nitơ có trên vải. 
+ Sử dụng máy hiển vi điện tử quét FE-SEM để xác định hàm lượng nguyên tố Nitơ có 
trên vải để kiểm tra kết quả của 02 phương pháp trên. 
 54 
- Để có thể lựa chọn được quy trình công nghệ phù hợp khi xử lý kháng khuẩn cho vải 
bông bằng chitosan theo mục đích sử dụng vải. Nghiên cứu đã thực hiện kiểm tra các tính 
chất cơ lý của 04 loại vải sau xử lý kháng khuẩn, đánh giá ảnh hưởng của chất liên kết ngang 
và MW tới tính chất cơ lý của vải sau xử lý, từ kết quả này và các kết quả về khả năng kháng 
khuẩn và độ bền kháng khuẩn của vải, đề xuất lựa chọn loại chitosan và chất liên kết ngang 
phù hợp để có được loại vải kháng khuẩn theo với mục đích sử dụng. 
2.3 Phƣơng pháp nghiên cứu 
2.3.1 Phƣơng pháp kiểm tra đặc tính kỹ thuật và tách phân đoạn của chế 
phẩm chitosan sau chiếu xạ tia gamma 
2.3.1.1 Phương pháp kiểm tra đặc tính kỹ thuật của các mẫu chitosan sau chiếu xạ 
a) Khối lượng phân tử của chitosan được xác định bằng phương pháp đo độ nhớt 
Trong nghiên cứu này, phương pháp đo độ nhớt được sử dụng để xác định khối lượng 
phân tử trung bình của mỗi loại chế phẩm chitosan thu được. 
Các mẫu chitosan được hòa tan trong hỗn hợp dung môi gồm sodium axetat 
(CH3COONa 0,2 M) và axit axetic (CH3COOH 0,5 M) thành các dung dịch có nồng độ từ 
thấp đến cao (0,05; 0,1; 0,2; 0,5%). 
Dung môi (to) trong mao quản của nhớt kế Ubbelodhe (Canon, Nhật Bản) và thời gian 
chảy của các dung dịch chitosan (t) vừa đạt được, được ghi lại ở nhiệt độ 25C ± 0,2oC và độ 
chính xác đến 1% giây. 
Tất cả các thí nghiệm phép đo đều được lặp lại tối thiểu 03 lần và kết quả là giá trị 
trung bình cộng của các lần thực nghiệm đo. 
 Độ nhớt giới hạn của các dung dịch chitosan được vẽ theo nồng độ dung dịch và ngoại 
suy đến giá trị nồng độ bằng không để xác định độ nhớt thực [] của mẫu chitosan. Từ đó, 
khối lượng phân tử trung bình nhớt của nó được tính toán theo phương trình Mark - Howink 
[5, 66]: 
 [η] = k.M
α
 (2.1) 
Trong đó: 
M: Khối lượng phân tử trung bình 
η: Độ nhớt thực 
Các hệ số k và α là hằng số phụ thuộc bản chất của polyme, hệ dung môi và điều kiện 
thực nghiệm. Trong trường hợp này k và α tương ứng bằng 3.5 10-4 và 0,76. 
b) Mức độ deacetyl hóa của chitosanđược xác định bằng phương pháp phân tích phổ FTIR 
Phương pháp phân tích phổ FTIR được sử dụng để chụp phổ hồng ngoại của các mẫu 
chitosan trước và sau xử lý chiếu xạ. Dựa trên các biểu đồ nhận được của các mẫu chitosan 
để đánh giá sự có mặt của nhóm chức từ đó có thể tính toán được mức độ DD của các mẫu 
chitosan. Trong nghiên cứu này, các mẫu chitosan khác nhau được sấy khô, nghiền nhỏ và 
được trộn đều cùng với KBr ép thành viên mỏng rồi được đo quang phổ FTIR. Phương pháp 
này được thực hiện trên thiết bị Thyrmo Nicolet 6700 - Mỹ (hình 2.5) tại phòng thí nghiệm 
công nghệ lọc hóa dầu và vật liệu xúc tác - Phòng nghiên cứu công nghệ hóa dầu C4-312 
trường Đại học Bách khoa Hà Nội và thiết bị Impact 410 – Nicolet (Đức) - Viện hóa học - 
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. 
 55 
Hình 2.5: Thiết bị chụp phổ hồng ngoại Nicolet 6700 
Mức độ deacetyl hóa của mẫu được tính theo công thức 2.2 [4, 93, 98]: 
a
S
S
DD 
3450
1650100
 (2.2)
Trong đó: 
S1650 và S3450 là diện tích các đỉnh phổ tại bước sóng 1655 và 3450cm
-1 đặc trưng cho 
các nhóm chức –OH và –COCH3 trong phân tử chitosan, và a là hệ số thực nghiệm. Hệ số 
thực nghiệm này phụ thuộc vào loại thiết bị phân tích và phương pháp áp dụng. 
Trong nghiên cứu này, hệ số thực nghiệm được tính bằng 115.
2.3.1.2 Phương pháp tách phân đoạn của chế phẩm chitosan sau chiếu xạ 
Như đã chỉ ra trong phần trước, khả năng ứng dụng của chitosan phụ thuộc nhiều vào 
nguồn gốc, khối lượng phân tử và mức độ DD của nó. Các chế phẩm chitoan sau chiếu xạ tia 
gamma 
60
Co có khối lượng phân tử khác nhau, với sự phân bố khối lượng phân tử tương đối 
rộng, do sự cắt mạch của bức xạ là không đặc hiệu và có thể xảy ra tại bất kỳ liên kết 1-4 
glucozit nào trong phân tử. Vì vậy, cần phải áp dụng kỹ thuật tách phân đoạn nhằm thu được 
các phân đoạn chitosan có khối lượng phân tử đồng đều trong khoảng hẹp đáp ứng yêu cầu 
Hình 2.6: Phổ FTIR của mẫu chitosan điển hình và cách tính diện tích phổ (nguồn:[4]) 
 56 
ứng dụng. Phương pháp này được thực hiện tại phòng thí nghiệm nghiên cứu Công nghệ 
Bức xạ tại Trung tâm chiếu xạ Hà nội. 
Để tách các phân đoạn chitosan có khối lượng phân tử khác nhau, có thể áp dụng một 
số phương pháp như: kỹ thuật tách bằng sắc ký, kỹ thuật tách các phân đoạn polyme theo 
tính tan, sử dụng màng siêu lọc, kỹ thuật điện di, màng thẩm tách, hoặc các phương pháp kết 
hợp lọc-ly tâm, điện thẩm tách với màng siêu lọc... Phương pháp lọc - ly tâm để tách các 
phân đoạn là một trong các kỹ thuật hiện đại có thể áp dụng để tách các phân đoạn chitosan 
có phân bố khối lượng phân tử khá đồng đều (chỉ số đa phân tán Mw/Mn ~2, trong khi các 
nghiên cứu khác cho thấy chitosan chiếu xạ có phân bố khối lượng phân tử rất rộng Mw/Mn 
có thể lên đến 4-5 [56]). Tuy nhiên phương pháp này đòi hỏi tiêu tốn thời gian và nhân công 
nên chưa được phát triển ở Việt Nam. 
Chitosan là một polyme chỉ hòa tan trong môi trường axit, do đó kết tủa và siêu lọc là 
phương pháp mang lại hiệu quả nhất. Tuy nhiên, phương pháp kết tủa yêu cầu phải sử dụng 
một số hệ dung môi khác nhau cho từng phân đoạn và khó có thể tách biệt chính xác theo 
khối lượng phân tử yêu cầu. Trong khi, kỹ thuật siêu lọc lại đòi hỏi phải sử dụng các loại 
màng lọc có kích thước nhất định. Trên quy mô phòng thí nghiệm hiện có, nghiên cứu đã sử 
dụng kỹ thuật siêu lọc với các dụng cụ lọc ly tâm Centrprep để tách các phân đoạn chitosan 
có khối lượng phân tử phân bố trong các khoảng hẹp, sử dụng màng có kích thước lỗ tương 
ứng với giới hạn khối lượng phân tử trung bình số (NMWL) 3, 5, 10, 30 và 50kDa. Đây là 
một trong những nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam áp dụng phương pháp lọc – ly tâm để tách 
các phân đoạn polyme có khối lượng phân tử khác nhau bằng màng siêu lọc. 
a) Vật liệu và phương pháp 
Vật liệu: Luận án đã kế thừa các chế phẩm chitosan sau chiếu xạ có khối lượng phân 
tử thích hợp từ đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước [11], sử dụng làm nguyên liệu để 
tách các phân đoạn chitosan có khối lượng phân tử khác nhau được thể hiện trên bảng 2.3. 
Bảng 2.3: Các phân đoạn chitosan tách từ mẫu chitosan chiếu xạ tương ứng 
STT Nguồn gốc MW sau chiếu xạ 
1 CTS01-200 kGy (MW ≈ 6kDa) 
2 CTS02-100 kGy (MW≈ 26kDa) 
3 CTS02-200 kGy (MW≈ 16kDa) 
4 CTS03-100 kGy (MW≈ 52kDa) 
Hóa chất sử dụng: Ethanol (99,5%), axit Axetic (glacial)được cung cấp bởi công ty 
hóa chất DeaJung (Gyonggi, Hàn Quốc) vàsodium acetate potassium bromide, amonium 
acetate được cung gấp bởi hãng Merck (Đức). 
b) Dụng cụ và thiết bị 
- Dụng cụ: Các dụng cụ lọc ly tâm Centrprep được cung cấp bởi công ty Nihon 
Milipore Ltd, (Nhật Bản). Các loại dụng cụ lọc ly tâm được ký hiệu tương ứng với giới hạn 
khối lượng phân tử trung bình: YM 3, YM 10, YM 30, YM 50. Ống ly tâm có nắp khóa, 
màng siêu lọc có kích thước xác định có thể được dùng làm giàu, làm sạch, và khử muối cho 
các mẫu sinh học có thể tích từ 2 đến 15ml. Mặt khác, các dụng cụ này còn được sử dụng để 
 57 
lọc và tách các polyme, đặc biệt là các polyme sinh học mà không làm ảnh hưởng đến hoạt 
tính của chúng. Ống ly tâm siêu lọc này có tốc độ lọc cao tương đối dễ sử dụng và được thiết 
kế phù hợp với hầu hết các máy ly tâm có thể sử dụng ống ly tâm dung tích 50ml. 
Hình 2.7 cho thấy dụng cụ siêu lọc Centriprep bao gồm: một ống chứa phần lọc có gắn 
màng xenlulo tái sinh Ultracel YM hút bám,phần chứa mẫu với nắp xoắn để khóa không cho 
mẫu dung dịch tràn ra, một nắp đậy kín khí để tách mẫu. Dụng cụ siêu lọc này cho phép quá 
trình lọc xảy ra đồng thời với việc lắng đọng các hạt mịn và không làm tắc màng lọc. Để hạn 
chế các mẫu được lọc đến khô hoàn toàn gây ảnh hưởng đến hoạt tính của chất tan, có một 
vòng chặn cỡ cố định gắn liền cung cấp thể tích mẫu làm giàu cuối cũng khoảng 0,6-0,7 ml. 
Hình 2.7: Dụng cụ siêu lọc Centrprep 
- Thiết bị sử dụng: 
+ Máy ly tâm Centrifuge (Hoa kỳ) với tốc độ quay tối đa 100.000 vòng / phút, gồm có 
hai hệ ống ly tâm với dung tích 15ml và 50ml. 
+ Hệ sắc ký thẩm thấu GPC Agilent với phần mềm xử lý ASTRA và detector tán xạ 
ánh sáng, các detector độ nhớt và detector khúc xạ với chỉ số khúc xạ 1.331. Pha động là hỗn 
hợp dung môi gồm axit acetic 0,2M / sodium axetate 0,1M, với tốc độ dòng 1 ml/phút. 
+ Máy sấy chân không Shellab (Anh quốc) gồm có bơm chân không với dải nhiệt độ 
hoạt động từ 30C đến 250C. 
+ Thiết bị phổ hồng ngoại chuyển hóa Furrier (FTIR, Perkin Elmer Spectrum 2000, 
Anh quốc) với phần mềm xử lý phổ IR Spectrum 2.0. 
*Phương pháp tách các phân đoạnchitosan sau chiếu xạ tia gamma 
Nắp kín khí 
Nắp xoắn khóa 
Vai thu gom chất lọc 
Rãnh thông 
Phần gom chất lọc 
Giá đỡ màng lọc 
Phần chứa mẫu 
Đường định cỡ 
 58 
Các mẫu chế phẩm chitosan sau chiếu 
xạ tia gamma trên bảng 2.3 với nồng độ 
chitosan sử dụng 5% được hòa tan hoàn toàn 
trong axit axetic 0,2M trên máy khuấy từ 
thành dung dịch. Các dung dịch chitosan được 
cho vào ống ly tâm Centriprep gắn kèm màng 
siêu lọc có giới hạn khối lượng phân tử trung 
bình khác nhau. Trước tiên, 15ml dung dịch 
chitosan được đưa vào phần chứa mẫu của 
ống lọc YM-50 và đóng kín bằng nắp khóa. 
Bốn ống lọc giống nhau được đặt vào máy ly 
tâm, được ly tâm với tốc độ 20.000 vòng/ 
phút trong 20 phút. Tiếp theo, phần chất lọc 
chứa các phân đoạn có khối lượng phân tử 
trung bình dưới 50kDa được gạn ra để riêng 
cho mục đích tách tiếp theo. Phần mẫu còn lại được làm giàu như trên hình 2.8. Các dung 
dịch mẫu chitosan được đưa vào lọc với các ống lọc có giới hạn khối lượng phân tử giảm 
dần, nhằm thu được dung dịch có các phân đoạn chitosan khác nhau. 
Các dung dịch phân đoạn chitosan sau ly tâm tách ra được tiếp tục làm giàu, sau đó 
được kết tủa trong ethanol, rửa sạch bằng nước cất, sấy khô trong tủ sấy chân không ở 60C 
trong 24 giờ, cuối cùng thu được các mẫu chitosan phân đoạn. Các phân đoạn thu được từ 
các mẫu chitosan khác nhau được xác định, đánh giá hiệu quả của phương pháp tách siêu lọc 
dựa trên lượng mẫu bị thất thoát trong quá trình tách phân đoạn. Các phân đoạn chitosan 
được phân tích trên phổ hồng ngoại và sắc ký thẩm thấu GPC để xác định đặc tính phân tử 
của mẫu chitosan phân đoạn. 
* Đặc trưng của các phân đoạn chitosan sau chiếu xạ 
Các đặc tính phân tử của các mẫu chitosan phân đoạn được xác định bằng hệ sắc ký 
thẩm thấu (GPC-SEC, Agilent, Hoa Kỳ) trang bị các detector độ nhớt, tán xạ ánh sáng, tử 
ngoại và khúc xạ với chỉ số khúc xạ 1.331. Mẫu chitosan phân đoạn được hòa tan trong dung 
môi hỗn hợp gồm natri axetat 0,1M và axit acetic 0,2M thành dung dịch có nồng độ 2mg/ml, 
lọc qua màng lọc kích thước 0,22m trước khi bơm vào sắc ký. Hỗn hợp dung môi này cũng 
được sử dụng làm pha động trong quá trình chạy sắc ký, tốc độ dòng được đặt là 1ml/phút 
cho tất cả các mẫu phân tích. Phân bố khối lượng phân tử của chitosan được ghi lại trên sắc 
đồ, và được xử lý bằng phần mềm phân tích phổ ASTRA để xác định khối lượng phân tử 
trung bình và chỉ số đa phân tán của nó. Sắc đồ cũng chỉ rõ phân b

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_su_dung_chitosan_viet_nam_nhu_chat_khang.pdf
  • pdfBIA LUAN AN.pdf
  • pdfBIA TOM TAT LUAN AN.pdf
  • pdfInformation.pdf
  • pdfThong tin Wed.pdf
  • pdfTOM TAT LUAN AN.pdf