Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu

Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 184 trang nguyenduy 24/05/2025 120
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu

Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu
 nhiên, diễn biến hoạt động của vi sinh vật trong đất khác nhau ở 
các tỷ lệ nước sau biogas khác nhau. Kết quả theo dõi diễn biến hoạt động của 
vi sinh vật (CO2) trong đất được trình bày trong Hình 4.4. 
Ở thời điểm ngày 2, hàm lượng CO2 đạt cao nhất ở nghiệm thức bổ sung 
nước khử khoáng và nghiệm thức bổ sung 50% nước khử khoáng và 50% 
nước sau biogas. Sự phát triển của vi sinh vật ở hai nghiệm thức này là do đất 
được bổ sung nước tạo sự thông thoáng cho đất và độ ẩm cho đất. Hàm lượng 
CO2 ở hai nghiệm thức còn lại bổ sung lượng nước sau biogas cao hơn nhưng 
có hàm lượng CO2 thấp hơn do giai đoạn này vi sinh vật chưa thích nghi với 
điều kiện đất, hoặc sự bất động đạm do vi sinh vật trong quá trình ủ yếm khí 
gây ra (Trịnh Thị Thu Trang và Nguyễn Mỹ Hoa, 2007) khi được cung cấp 
chất hữu cơ từ nước sau biogas với lượng lớn. 
72 
Hình 4.4: Diễn biến hoạt động của vi sinh vật đất (CO2) theo thời gian 
Ghi chú: NKK: nước khử khoáng, NSB: nước sau biogas. 
Tuy nhiên, kết quả trình bày trong Hình 4.4 cho thấy khi bước sang ngày 
thứ 5, hàm lượng CO2 ở nghiệm thức bổ sung 100% và 75% nước sau biogas 
gia tăng đáng kể và luôn đạt được giá trị cao khác biệt có ý nghĩa so với 2 
nghiệm thức còn lại. Điều này xảy ra do việc bổ sung nước sau biogas chứa 
hàm lượng dinh dưỡng hữu cơ cao đã giúp cải tạo một số đặc tính đất như pH, 
bổ sung dinh dưỡng và đồng thời tăng độ thoáng khí cho đất (Nguyễn Khởi 
Nghĩa và ctv., 2015b), thêm vào đó là sự bổ sung lượng chất hữu cơ trong 
nước sau biogas đã làm gia tăng hoạt động của vi sinh vật. 
Nghiệm thức bổ sung 50% nước sau biogas cũng có sự gia tăng hoạt 
động vi sinh vật đất theo xu hướng tương tự như nghiệm thức bổ sung 100% 
và 75% nước sau biogas kể từ ngày thứ 15 và bắt đầu có sự khác biệt có ý 
nghĩa so với nghiệm thức 100% nước khử khoáng, phù hợp với kết quả nghiên 
cứu của Nguyễn Khởi Nghĩa và ctv. (2015a), mật độ vi sinh vật đất tăng cao từ 
ngày thứ 10-15. Tuy nhiên, hàm lượng CO2
 ở nghiệm thức này vẫn thấp hơn 
so với 2 nghiệm thức bổ sung 100% và 75% nước sau biogas . 
Hàm lượng CO2 ở các nghiệm thức tăng liên tục đến cuối quá trình theo 
dõi, ở giai đoạn ngày 25-30 vẫn duy trì sự khác biệt giữa đất được bổ sung 
nước sau biogas với đất không bổ sung nước sau biogas, giữa nghiệm thức bổ 
sung 50% nước sau biogas với 2 nghiệm thức bổ sung 75% và 100% nước sau 
biogas. Điều này cho thấy khi lượng nước sau biogas được cung cấp ít, lượng 
dinh dưỡng cung cấp cho đất ít thì làm gia tăng sự sinh trưởng và hoạt động 
của vi sinh vật đất ở mức thấp và ngược lại, lượng nước sau biogas được tưới 
73 
càng nhiều càng làm tăng hoạt động của vi sinh vật trong đất, đã chứng minh 
rằng CO2 được phóng thích ra tỷ lệ với sự hữu dụng vật chất thêm vào. 
4.1.1.5 Tƣơng quan giữa hàm lƣợng đạm với hoạt động của vi sinh 
vật đất 
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra đạm hữu dụng trong đất làm tăng hoạt động 
và sự đa dạng của vi sinh vật đất, làm gia tăng pH đất và sự khoáng hóa đạm 
trong đất (Trịnh Thị Thu Trang và Nguyễn Mỹ Hoa, 2007, Nguyễn Khởi 
Nghĩa và ctv., 2015a). Điều này cho thấy sự gia tăng hoạt động của vi sinh vật 
đất có liên quan đến sự tăng hàm lượng đạm N-NH4
+
 và N-NO3
-
 trong đất. 
Hàm lượng CO2
 trong đất được ghi nhận tương ứng với sự biến động 
hàm lượng đạm ở theo các đợt khảo sát. Theo kết quả được trình bày trong 
Hình 4.4, hàm lượng CO2 ở các nghiệm thức bổ sung nước sau biogas tăng lên 
gần gấp 2 lần ở ngày thứ 5 cho thấy đã có một lượng lớn chất hữu cơ đã được 
phân hủy trong đất nhờ một số vi sinh vật trong đất và trong quá trình hoạt 
động các vi sinh đất này đã hô hấp và sinh ra lượng khí CO2 lớn vì mật số vi 
sinh vật cao thúc đẩy quá trình phân hủy chất hữu cơ (Nguyễn Ngọc Thanh và 
ctv., 2018), sau quá trình phân hủy có sự khoáng hóa các chất dinh dưỡng, cụ 
thể là sinh ra N-NH4
+
 và N-NO3
-
. 
Khi tăng thể tích nước sau biogas trong đất đã làm tăng hoạt động của vi 
sinh vật trong đất đồng thời đạm hữu dụng trong đất cũng gia tăng tương ứng 
với thể tích nước sau biogas. Hàm lượng đạm hữu dụng trong đất gia tăng theo 
lượng nước sau biogas bổ sung cho đất và gia tăng tương ứng với hàm lượng 
CO2 trong đất. Hàm lượng N-NH4
+ 
và N-NO3
-
 gia tăng ở nghiệm thức tưới 
100% nước sau biogas đạt cao nhất (lần lượt là 158 mg/kg và 66,2 mg/kg), 
khác biệt có ý nghĩa với nghiệm thức tưới 75% (127 mg/kg và 61,4 mg/kg) và 
nghiệm thức tưới 50% (90,8 mg/kg và 51,0 mg/kg). Hàm lượng CO2 trong đất 
thấp nhất là nghiệm thức không tưới nước sau biogas (649 mgCO2/kg), tăng 
dần ở các nghiệm thức còn lại có thể tích nước sau biogas được tưới lần lượt là 
50% (723 mgCO2/kg), 75% (825 mgCO2/kg) và 100% (855 mgCO2/kg). 
Sự gia tăng hàm lượng CO2 tương ứng với sự gia tăng hàm lượng đạm 
hữu dụng (N-NH4
+
 + N-NO3
-
) trong đất (Hình 4.5). Các hệ số tương quan ở 
các nghiệm thức không bổ sung nước sau biogas, bổ sung 50%, 75% và 100% 
nước sau biogas lần lượt là r: 0,5333, r: 0,9395; r: 0,9593, r: 0,9578 cho thấy 
hàm lượng CO2 trong đất có bổ sung nước sau biogas có mối tương quan 
thuận với hàm lượng đạm hữu dụng trong đất và ngược lại nghiệm thức không 
bổ sung nước sau biogas có tương quan nghịch. 
74 
Hình 4.5: Mối tương quan giữa hàm lượng đạm hữu dụng và hoạt động của vi sinh 
vật đất (CO2) ở các nghiệm thức 
Ghi chú: NKK: nước khử khoáng, NSB: nước sau biogas. 
Kết quả trình bày ở Hình 4.5 cho thấy tốc độ phát sinh CO2 (mg CO2 
sinh ra/mg đạm hữu dụng) trong đất bổ sung nước sau biogas ở các tỷ lệ khác 
nhau (50%, 75% và 100%) có sự khác nhau thông qua sự chênh lệch giữa hệ 
số góc của các đường hồi quy. Tốc độ phát sinh CO2 của đất được bổ sung 
75%NSB và 100%NSB nhanh hơn so với đất được bổ sung 50%NSB. 
Điều này chứng minh khi đất được bổ sung nước sau biogas hàm lượng 
đạm gia tăng tương ứng với sự gia tăng hoạt động của vi sinh vật, do nước sau 
biogas với hàm lượng chất hữu cơ giàu đạm đã thúc đẩy hoạt động của hệ vi 
sinh vật đất đồng thời làm gia tăng sự khoáng hóa đạm trong đất (Nguyễn 
Khởi Nghĩa và ctv., 2015a). Trong khi đó, đất không bổ sung nước sau biogas, 
sự gia tăng của hàm lượng đạm trong đất không tương ứng với sự phát triển 
của vi sinh vật đất. Hàm lượng đạm trong đất không bổ sung nước sau biogas 
rất thấp và giảm theo thời gian, trong khi sự phát triển của vi sinh vật đất thấp 
nhưng vẫn diễn biến tăng theo thời gian theo dõi. 
Kết quả thí nghiệm 1 cho thấy việc bổ sung nước sau biogas cung cấp 
75 
đạm hữu dụng cho đất và thúc đẩy sự phát triển của vi sinh vật đất. Lượng 
đạm cung cấp cho đất tăng theo sự gia tăng lượng nước sau biogas bổ sung 
vào đất. Hoạt động của vi sinh vật đất tăng theo lượng nước sau biogas bổ 
sung cho đất và tương quan với lượng đạm cung cấp cho đất, cao nhất ở tỷ lệ 
nước sau biogas 100%, tiếp theo là 75% và thấp nhất là 50%. Thí nghiệm 2 
được thực hiện dựa trên các tỷ lệ nước sau biogas 100%, 75% và 50% để tưới 
cho đất trồng trong điều kiện chậu thí nghiệm nhằm theo dõi sự sinh trưởng và 
phát triển của cây bắp và cây đậu bắp có gia tăng theo các tỷ lệ nước sau 
biogas khác nhau. 
4.1.2 Tăng trƣởng của cây bắp, cây đậu bắp đƣợc trồng trong chậu 
điều kiện ngoài đồng 
4.1.2.1 Tăng trƣởng của cây bắp trồng trong chậu điều kiện ngoài 
đồng 
Tăng trưởng của cây bắp phụ thuộc vào lượng dinh dưỡng được cung cấp 
cho cây, bên cạnh các điều kiện về ánh sáng, nhiệt độ, điều này thể hiện rõ khi 
bắp đóng trái đến khi thu hoạch (Dương Thị Loan và ctv., 2016). Sự tăng 
trưởng của cây bắp trồng trong chậu điều kiện ngoài đồng được đánh giá 
thông qua các chỉ tiêu chiều cao cây, số hạt trên trái, số hàng trên trái, khối 
lượng hạt tươi, khối lượng hạt khô và năng suất. 
a) Chiều cao cây bắp 
Chiều cao cây được ghi nhận từ 10 NSKG (thời điểm cây bắp được bón 
phân đợt đầu tiên). Kết quả theo dõi sự tăng trưởng của bắp từ 10 đến 30 
NSKG cho thấy giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) 
(Hình 4.6). 
Giai đoạn 10 NSKG, cây chuyển từ trạng thái sống nhờ chất dinh dưỡng 
dự trữ trong hạt sang trạng thái hút dinh dưỡng từ đất và quang hợp của bộ lá, 
sang giai đoạn 20-30 NSKG, cây sinh trưởng mạnh, lóng thân bắt đầu phân 
hóa và chuyển sang giai đoạn xoáy noãn chuẩn bị trổ cờ. Cây bắp ở nghiệm 
thức bón phân hóa học có lá to và màu xanh đậm, thân cây mập mạp nhưng 
giòn, dễ gãy và dễ bị sâu đục thân tấn công, bệnh thối thân do vi khuẩn cũng 
xuất hiện ở nghiệm thức này. Các nghiệm thức tưới nước sau biogas cây có lá 
nhỏ hơn, mỏng và có màu xanh nhạt, thân cây cứng cáp và ít bị sâu hại tấn 
công, không xuất hiện bệnh thối thân do vi khuẩn. Điều này có thể giải thích là 
do nước sau biogas đóng vai trò của một hợp chất hữu cơ nên khi sử dụng cho 
đất có tác dụng cải thiện khả năng canh tác của đất, tăng hoạt động của hệ vi 
sinh vật đất (nhất là vi sinh vật hiếu khí) thúc đẩy quá trình phân giải chất hữu 
cơ, tăng cường và duy trì độ phì nhiêu của đất (Châu Minh Khôi và ctv., 2014, 
Trần Huỳnh Khanh và ctv., 2019). Sự phát triển và hoạt động của vi sinh vật 
76 
đất ảnh hưởng lớn đến chất lượng đất và sự phát triển của cây trồng, mật số vi 
sinh vật trong đất cao, dẫn đến sự đa dạng vi sinh vật, tăng cạnh tranh, đối 
kháng, giúp giảm bệnh hại trong đất (Nguyễn Ngọc Thanh và ctv., 2018). 
Hình 4.6: Chiều cao cây bắp trồng trong chậu qua các giai đoạn sinh trưởng 
Ghi chú: Số liệu được trình bày dạng trung bình ± độ lệch chuẩn, n=4. PHH: Sử dụng phân 
hóa học, NSB: nước sau biogas, NK: nước kênh. 
Kết quả trình bày ở Hình 4.6 cho thấy giai đoạn từ 40 đến 60 NSKG cây 
bắp phát triển đạt chiều cao tối đa, chiều cao cây không khác biệt có ý nghĩa 
giữa các nghiệm thức tưới nước sau biogas; bắp bón phân hóa học có chiều cao 
cây thấp nhất và có sự khác biệt so với tưới 75% nước sau biogas cho thấy chế 
độ dinh dưỡng đã ảnh hưởng đến chiều cao cây, điều này thể hiện rõ ở giai đoạn 
khi bắp đóng trái đến khi thu hoạch. Cây bắp tưới 100% và 50% nước sau 
biogas có chiều cao thấp hơn nghiệm thức tưới 75% nước sau biogas, mặc dù 
sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê. Từ đó cho thấy lượng nước sau biogas 
được tưới quá nhiều hoặc quá ít đều có thể làm cho cây bị ức chế sinh trưởng 
(Phạm Việt Nữ và ctv., 2015). Nhìn chung, việc tưới nước sau biogas giúp cho 
cây bắp phát triển vượt trội về chiều cao so với bón phân hóa học. 
b) Số hạt, số hàng, khối lƣợng hạt và năng suất bắp 
Số hạt/trái giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05), các 
nghiệm thức tưới nước sau biogas cho phẩm chất trái tương đương bón phân 
hóa học, các tỷ lệ tưới nước sau biogas không ảnh hưởng đến số lượng hạt/trái 
(Bảng 4.3). Điều này có thể giải thích là do tưới nước sau biogas đã cung cấp 
dinh dưỡng dạng hữu cơ cho đất, làm gia tăng hàm lượng chất hữu cơ và mùn 
trong đất mà phân vô cơ không có được, từ đó nâng cao phẩm chất và chất 
lượng trái thu hoạch (Trần Huỳnh Khanh và ctv., 2019). 
Theo kết quả thí nghiệm được trình bày ở Bảng 4.3, khối lượng hạt và 
77 
năng suất khác biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức tưới nước sau biogas, 
trong đó nghiệm thức tưới 75% nước sau biogas đạt năng suất cao tương đương 
với nghiệm thức phân hóa học. Điều này cho thấy tưới nước sau biogas đã cung 
cấp chất hữu cơ cho đất, chất hữu cơ vào trong đất được phân giải và cung cấp 
đầy đủ dưỡng chất cho cây và cải tạo độ phì của đất, tăng năng suất cây trồng 
(Châu Minh Khôi và ctv., 2014). 
Bảng 4.3: Đặc điểm của trái bắp ở các nghiệm thức thí nghiệm trồng trong chậu 
Chỉ tiêu Nghiệm thức 
PHH 100%NSB 75%NSB 
+25%NK 
50%NSB 
+50%NK 
Số hạt/trái 393±45,4a 386±42,9a 412±28,9a 377±28,5a 
Số hàng/trái 14,8±0,48a 14,0±0,86a 14,0±0,0a 13,5±0,5a 
Khối lượng hạt 
tươi (g/trái) 
176±29,0
ab
 149±17,3
bc
 164±3,10
abc
 146±13,9
c
Khối lượng hạt 
khô (g/trái) 
89,3±10,8
a
 67,6±8,23
b
 86,5±3,12
a
 66,5±5,75
b
Năng suất (g/chậu) 315±39,8a 275±14,9b 322±12,7a 244±23,0b 
Ghi chú: Số liệu được trình bày dạng trung bình ± độ lệch chuẩn, n=3. Giá trị trung bình 
trong cùng hàng có kí tự giống nhau (a, b, c) khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. PHH: 
Sử dụng phân hóa học, NSB: nước sau biogas, NK: nước kênh. 
Lượng N, P, K bổ sung cho cây bắp cao nhất ở nghiệm thức bón phân hóa 
học và giảm dần ở các nghiệm thức còn lại theo tỷ lệ nước sau biogas. Tưới 
100% và 50% nước sau biogas cho kết quả thấp hơn tỷ lệ tưới 75% cho thấy sự 
dư thừa đạm và sự thiếu hụt đạm đều làm suy giảm khối lượng trái bắp. Bởi vì 
nhu cầu đạm của cây luôn có giới hạn, nếu thừa đạm dẫn đến thiếu hụt các chất 
dinh dưỡng khác, có thể gây ngộ độc cho cây trồng, làm giảm năng suất, bón 
phân cân đối làm cho chất lượng của ngũ cốc tốt hơn (Phạm Việt Nữ và ctv., 
2015, Dương Thị Loan và ctv., 2016). 
4.1.2.2 Tăng trƣởng của cây đậu bắp trồng trong chậu điều kiện 
ngoài đồng 
Tăng trưởng của cây đậu bắp được đánh giá qua các chỉ tiêu chiều cao 
cây, số trái và năng suất. 
a) Chiều cao của cây đậu bắp 
Kết quả cho thấy chiều cao cây đậu bắp các nghiệm thức tưới nước sau 
biogas không khác biệt so với bón phân hóa học ở tất cả các giai đoạn sinh 
trưởng 15, 30, 45, 60, 75 và 90 ngày sau khi gieo (NSKG) (p>0,05), trừ 
nghiệm thức tưới 75% nước sau biogas thấp hơn ở 45-60 NSKG (Hình 4.7). 
Thời điểm 15-30 NSKG, cây đậu bắp bắt đầu hấp thu chất dinh dưỡng từ 
nước sau biogas và phát triển nên có chiều cao tương đương nghiệm thức phân 
hóa học (40,3 cm). Lá đậu bắp bón phân hóa học có màu xanh đậm, bản lá to 
và dày. Ở nghiệm thức tưới nước sau biogas, lá có màu xanh nhạt ngả sang 
78 
vàng, điều này xảy ra do đạm hữu dụng bị bất động sau khi tưới chất hữu cơ 
vào trong đất (Nguyễn Khởi Nghĩa và ctv., 2015a). 
Hình 4.7: Chiều cao cây đậu bắp trồng trong chậu qua các giai đoạn sinh trưởng 
Ghi chú: Số liệu được trình bày dạng trung bình ± độ lệch chuẩn, n=4. PHH: Sử dụng phân 
hóa học, NSB: nước sau biogas, NK: nước kênh. 
Giai đoạn từ 45 đến 60 NSKG, đậu bắp tăng trưởng nhanh và trong giai 
đoạn cho trái. Thời gian từ 75 đến 90 NSKG, đậu bắp phát triển đạt chiều cao 
tối đa (125-171 cm). Giai đoạn này, cây đậu bắp được tưới nước sau biogas 
sinh trưởng mạnh, lá to có màu xanh nhạt và láng bóng, ít bị sâu bệnh tấn 
công. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Võ Châu Ngân 
và ctv., 2015, cây rau muống trồng với chất thải biogas đạt năng suất thấp ở 
đợt 1 và phát triển cao tương đương với phân vô cơ ở đợt 2. Nghiệm thức bón 
phân hóa học có lá xanh đậm, mặt lá sần sùi và thô có thể là do dư thừa lượng 
đạm phân hóa học bón cho đậu bắp làm ảnh hưởng bất lợi đến sự sinh trưởng, 
năng suất và chất lượng cây trồng (Nguyễn Ngọc Thanh và ctv., 2018). Trong 
khi đó nước sau biogas đóng vai trò của một hợp chất hữu cơ được sử dụng 
tưới cho đất có tác dụng cải thiện khả năng canh tác của đất, tăng hoạt động 
của hệ vi sinh vật đất, thúc đẩy quá trình phân giải chất hữu cơ, tăng cường và 
duy trì độ phì nhiêu của đất, tăng khả năng chống chịu và sâu bệnh hại tấn 
công (Châu Minh Khôi và ctv., 2014, Nguyễn Ngọc Thanh và ctv., 2018, Trần 
Huỳnh Khanh và ctv., 2019). 
b) Số trái và năng suất đậu bắp 
Kết quả trồng cây đậu bắp tưới nước sau biogas với các tỷ lệ khác nhau 
trồng trong chậu điều kiện ngoài đồng cho thấy số trái và năng suất đậu bắp 
biến động theo các tỷ lệ thể tích nước sau biogas tưới cho cây. Cây đậu bắp 
tưới 100% nước sau biogas có số trái và năng suất tương đương sử dụng phân 
hóa học và cao hơn so với tưới 75% và 50% nước sau biogas (Bảng 4.4). 
79 
Bảng 4.4: Số trái và năng suất cây đậu bắp trồng trong chậu 
Nghiệm thức Số trái (trái/chậu) Năng suất (g/chậu) 
PHH 27,0±2,16
a
 656±66,3
a
100%NSB 28,8±2,06
a
 718±47,8
a
75%NSB+25%NK 17,5±1,00
b
 423±58,6
b
50%NSB+50%NK 16,8±0,96
b
 425±31,3
b
Ghi chú: Số liệu được trình bày dạng trung bình ± độ lệch chuẩn, n=4. Giá trị trung bình 
trong cùng cột có kí tự giống nhau (a, b) khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. PHH: Sử 
dụng phân hóa học, NSB: nước sau biogas, NK: nước kênh. 
Kết quả theo dõi chỉ tiêu số trái và năng suất trái đậu bắp được trình bày 
trong Bảng 4.4 cho thấy với lượng đạm được cung cấp khi tưới 100% nước 
sau biogas cây đậu bắp có số trái và năng suất tương đương bón phân hóa học. 
Tưới 75% và 50% nước sau biogas cung cấp cho đất lượng đạm thấp hơn nên 
đậu bắp có số trái và khối lượng trái thấp hơn khác biệt có ý nghĩa so với bón 
phân hóa học; điều này cho thấy đạm đóng vai trò quan trọng đối với sinh 
trưởng và năng suất của cây (Lê Phước Toàn và Ngô Ngọc Hưng, 2018). Kết 
quả cho thấy tưới nước sau biogas có tác dụng tăng cường sự cung cấp đạm 
khoáng hóa từ chất hữu cơ cho đất, giúp tăng pH đất, chất hữu cơ, đạm hữu cơ 
dễ phân hủy, lân dễ tiêu trong đất, từ đó gia tăng năng suất cây trồng (Trịnh 
Thị Thu Trang và Nguyễn Mỹ Hoa, 2007, Nguyễn Khởi Nghĩa và ctv., 2015b, 
Nguyễn Ngọc Thanh và ctv., 2018). 
Từ kết quả của thí nghiệm 1 và thí nghiệm 2 cho thấy bổ sung nước sau 
biogas cho đất càng nhiều thì cung cấp nhiều đạm cho đất và hoạt động của vi 
sinh vật đất gia tăng tỉ lệ thuận với hàm lượng đạm hữu dụng trong đất. Kết 
quả cũng cho thấy hàm lượng đạm cung cấp cho cây đóng vai trò quan trọng 
trong tăng trưởng và quyết định năng suất của cây trồng. Cây bắp ở nghiệm 
thức tưới 75% nước sau biogas, cây đậu bắp ở nghiệm thức tưới 100% nước 
sau biogas có sự tăng trưởng tương đương với bón phân hóa học. Dựa trên kết 
quả của nội dung này, các thí nghiệm của nội dung 2 đã được thực hiện nhằm 
đánh giá diễn biến của hàm lượng đạm và vi sinh vật trong đất trồng và năng 
suất của cây bắp, cây đậu bắp, cây dưa leo. 
4.2 Diễn biến đạm hữu dụng, vi sinh vật trong đất và năng suất 
trồng cây bắp, cây đậu bắp, cây dƣa leo tƣới nƣớc sau biogas trong điều 
kiện ngoài đồng 
4.2.1 Diễn biến hàm lƣợng đạm hữu dụng trong đất và năng suất 
trồng cây bắp và cây đậu bắp tƣới nƣớc sau biogas trong điều kiện ngoài 
đồng 
Trên cơ sở kết quả trồng cây bắp và cây đậu bắp trong chậu, tỷ lệ nước 
sau biogas 75% và 100% đạt năng suất cao tương đương với nghiệm thức bón 
phân hóa học và cao hơn các nghiệm thức còn lại được chọn để triển khai thí 
80 
nghiệm trên đất liếp. 
4.2.1.1 Diễn biến hàm lƣợng đạm hữu dụng trong đất và năng suất 
trồng cây bắp tƣới nƣớc sau biogas trong điều kiện ngoài đồng 
a) Diễn biến hàm lƣợng đạm amôn trong đất trồng cây bắp 
Diễn biến hàm lượng đạm amôn trong đất trồng cây bắp trồng trong điều 
kiện ngoài đồng được thể hiện ở Hình 4.8. 
Hình 4.8: Hàm lượng đạm amôn trong đất trồng bắp theo thời gian 
Ghi chú: PHH: Sử dụng phân hóa học, NSB: nước sau biogas, NK: nước kênh. 
Sự tăng giảm hàm lượng N-NH4
+
 trong đất ở các giai đoạn tăng trưởng 
của cây bắp có sự khác nhau giữa sử dụng phân hóa học và nước thải biogas. 
Kết quả cho thấy từ 15 NSKG, hàm lượng N-NH4
+
 trong đất ở nghiệm thức 
trồng bằng phân hóa học cao hơn các nghiệm thức trồng bằng nước sau 
biogas. Nguyên nhân do lượng đạm được cung cấp từ phân hóa học chủ yếu là 
dạng hữu dụng dẫn đến hàm lượng NH4
+
 tích lũy trong đất cao (Trịnh Thị Thu 
Trang và Nguyễn Mỹ Hoa, 2007). Tuy nhiên, lượng đạm tích lũy này dễ mất 
đi do sự bất động, sự bay hơi đạm dạng khí, sự rửa trôi hoặc do sự thủy phân 
chưa hoàn toàn của phân urê thành N-NH4
+
 (Trịnh Thị Thu Trang và Nguyễn 
Mỹ Hoa, 2007) nên có sự chênh lệch lớn so với lượng đạm được cung cấp. 
Trong giai đoạn từ khi gieo đến 15 NSKG, cây hấp thu dinh dưỡng từ đất 
ít, chủ yếu sử dụng chất dinh dưỡng từ hạt. Hàm lượng N-NH4
+
 của đất bón 
phân hóa học theo xu hướng tăng từ 15 NSKG đến 45 NSKG, mặc dù giảm ở 
25 NSKG, trong khi việc tưới nước thải biogas với lượng đạm thấp hơn bón 
phân hóa học nên có hàm lượng N-NH4
+
 trong đất thấp hơn. Hàm lượng N-
NH4
+
 trong đất tưới nước sau biogas tăng liên tục từ khi gieo và đạt được mức 
cao nhất ở ngày thứ 25. Điều này cho thấy việc bổ sung thêm chất hữu cơ giàu 
đạm (nước sau biogas) đã cung c

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_su_dung_nuoc_sau_biogas_de_canh_tac_hoa_m.pdf
  • pdfTom tat luan an-Nguyen Phuong Thao -Tieng Viet_nop cap Truong.pdf
  • pdfTom tat luan an-Nguyen Phuong Thao-Tieng Anh_nop cap Truong.pdf
  • docTRANG THONG TIN VE LUAN AN_Nguyen Phuong Thao_tieng Anh.doc
  • docTRANG THONG TIN VE LUAN AN_Nguyen Phuong Thao_tieng Viet.doc