Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu sử dụng nước sau biogas để canh tác hoa màu

nhiên, diễn biến hoạt động của vi sinh vật trong đất khác nhau ở các tỷ lệ nước sau biogas khác nhau. Kết quả theo dõi diễn biến hoạt động của vi sinh vật (CO2) trong đất được trình bày trong Hình 4.4. Ở thời điểm ngày 2, hàm lượng CO2 đạt cao nhất ở nghiệm thức bổ sung nước khử khoáng và nghiệm thức bổ sung 50% nước khử khoáng và 50% nước sau biogas. Sự phát triển của vi sinh vật ở hai nghiệm thức này là do đất được bổ sung nước tạo sự thông thoáng cho đất và độ ẩm cho đất. Hàm lượng CO2 ở hai nghiệm thức còn lại bổ sung lượng nước sau biogas cao hơn nhưng có hàm lượng CO2 thấp hơn do giai đoạn này vi sinh vật chưa thích nghi với điều kiện đất, hoặc sự bất động đạm do vi sinh vật trong quá trình ủ yếm khí gây ra (Trịnh Thị Thu Trang và Nguyễn Mỹ Hoa, 2007) khi được cung cấp chất hữu cơ từ nước sau biogas với lượng lớn. 72 Hình 4.4: Diễn biến hoạt động của vi sinh vật đất (CO2) theo thời gian Ghi chú: NKK: nước khử khoáng, NSB: nước sau biogas. Tuy nhiên, kết quả trình bày trong Hình 4.4 cho thấy khi bước sang ngày thứ 5, hàm lượng CO2 ở nghiệm thức bổ sung 100% và 75% nước sau biogas gia tăng đáng kể và luôn đạt được giá trị cao khác biệt có ý nghĩa so với 2 nghiệm thức còn lại. Điều này xảy ra do việc bổ sung nước sau biogas chứa hàm lượng dinh dưỡng hữu cơ cao đã giúp cải tạo một số đặc tính đất như pH, bổ sung dinh dưỡng và đồng thời tăng độ thoáng khí cho đất (Nguyễn Khởi Nghĩa và ctv., 2015b), thêm vào đó là sự bổ sung lượng chất hữu cơ trong nước sau biogas đã làm gia tăng hoạt động của vi sinh vật. Nghiệm thức bổ sung 50% nước sau biogas cũng có sự gia tăng hoạt động vi sinh vật đất theo xu hướng tương tự như nghiệm thức bổ sung 100% và 75% nước sau biogas kể từ ngày thứ 15 và bắt đầu có sự khác biệt có ý nghĩa so với nghiệm thức 100% nước khử khoáng, phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Khởi Nghĩa và ctv. (2015a), mật độ vi sinh vật đất tăng cao từ ngày thứ 10-15. Tuy nhiên, hàm lượng CO2 ở nghiệm thức này vẫn thấp hơn so với 2 nghiệm thức bổ sung 100% và 75% nước sau biogas . Hàm lượng CO2 ở các nghiệm thức tăng liên tục đến cuối quá trình theo dõi, ở giai đoạn ngày 25-30 vẫn duy trì sự khác biệt giữa đất được bổ sung nước sau biogas với đất không bổ sung nước sau biogas, giữa nghiệm thức bổ sung 50% nước sau biogas với 2 nghiệm thức bổ sung 75% và 100% nước sau biogas. Điều này cho thấy khi lượng nước sau biogas được cung cấp ít, lượng dinh dưỡng cung cấp cho đất ít thì làm gia tăng sự sinh trưởng và hoạt động của vi sinh vật đất ở mức thấp và ngược lại, lượng nước sau biogas được tưới 73 càng nhiều càng làm tăng hoạt động của vi sinh vật trong đất, đã chứng minh rằng CO2 được phóng thích ra tỷ lệ với sự hữu dụng vật chất thêm vào. 4.1.1.5 Tƣơng quan giữa hàm lƣợng đạm với hoạt động của vi sinh vật đất Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra đạm hữu dụng trong đất làm tăng hoạt động và sự đa dạng của vi sinh vật đất, làm gia tăng pH đất và sự khoáng hóa đạm trong đất (Trịnh Thị Thu Trang và Nguyễn Mỹ Hoa, 2007, Nguyễn Khởi Nghĩa và ctv., 2015a). Điều này cho thấy sự gia tăng hoạt động của vi sinh vật đất có liên quan đến sự tăng hàm lượng đạm N-NH4 + và N-NO3 - trong đất. Hàm lượng CO2 trong đất được ghi nhận tương ứng với sự biến động hàm lượng đạm ở theo các đợt khảo sát. Theo kết quả được trình bày trong Hình 4.4, hàm lượng CO2 ở các nghiệm thức bổ sung nước sau biogas tăng lên gần gấp 2 lần ở ngày thứ 5 cho thấy đã có một lượng lớn chất hữu cơ đã được phân hủy trong đất nhờ một số vi sinh vật trong đất và trong quá trình hoạt động các vi sinh đất này đã hô hấp và sinh ra lượng khí CO2 lớn vì mật số vi sinh vật cao thúc đẩy quá trình phân hủy chất hữu cơ (Nguyễn Ngọc Thanh và ctv., 2018), sau quá trình phân hủy có sự khoáng hóa các chất dinh dưỡng, cụ thể là sinh ra N-NH4 + và N-NO3 - . Khi tăng thể tích nước sau biogas trong đất đã làm tăng hoạt động của vi sinh vật trong đất đồng thời đạm hữu dụng trong đất cũng gia tăng tương ứng với thể tích nước sau biogas. Hàm lượng đạm hữu dụng trong đất gia tăng theo lượng nước sau biogas bổ sung cho đất và gia tăng tương ứng với hàm lượng CO2 trong đất. Hàm lượng N-NH4 + và N-NO3 - gia tăng ở nghiệm thức tưới 100% nước sau biogas đạt cao nhất (lần lượt là 158 mg/kg và 66,2 mg/kg), khác biệt có ý nghĩa với nghiệm thức tưới 75% (127 mg/kg và 61,4 mg/kg) và nghiệm thức tưới 50% (90,8 mg/kg và 51,0 mg/kg). Hàm lượng CO2 trong đất thấp nhất là nghiệm thức không tưới nước sau biogas (649 mgCO2/kg), tăng dần ở các nghiệm thức còn lại có thể tích nước sau biogas được tưới lần lượt là 50% (723 mgCO2/kg), 75% (825 mgCO2/kg) và 100% (855 mgCO2/kg). Sự gia tăng hàm lượng CO2 tương ứng với sự gia tăng hàm lượng đạm hữu dụng (N-NH4 + + N-NO3 - ) trong đất (Hình 4.5). Các hệ số tương quan ở các nghiệm thức không bổ sung nước sau biogas, bổ sung 50%, 75% và 100% nước sau biogas lần lượt là r: 0,5333, r: 0,9395; r: 0,9593, r: 0,9578 cho thấy hàm lượng CO2 trong đất có bổ sung nước sau biogas có mối tương quan thuận với hàm lượng đạm hữu dụng trong đất và ngược lại nghiệm thức không bổ sung nước sau biogas có tương quan nghịch. 74 Hình 4.5: Mối tương quan giữa hàm lượng đạm hữu dụng và hoạt động của vi sinh vật đất (CO2) ở các nghiệm thức Ghi chú: NKK: nước khử khoáng, NSB: nước sau biogas. Kết quả trình bày ở Hình 4.5 cho thấy tốc độ phát sinh CO2 (mg CO2 sinh ra/mg đạm hữu dụng) trong đất bổ sung nước sau biogas ở các tỷ lệ khác nhau (50%, 75% và 100%) có sự khác nhau thông qua sự chênh lệch giữa hệ số góc của các đường hồi quy. Tốc độ phát sinh CO2 của đất được bổ sung 75%NSB và 100%NSB nhanh hơn so với đất được bổ sung 50%NSB. Điều này chứng minh khi đất được bổ sung nước sau biogas hàm lượng đạm gia tăng tương ứng với sự gia tăng hoạt động của vi sinh vật, do nước sau biogas với hàm lượng chất hữu cơ giàu đạm đã thúc đẩy hoạt động của hệ vi sinh vật đất đồng thời làm gia tăng sự khoáng hóa đạm trong đất (Nguyễn Khởi Nghĩa và ctv., 2015a). Trong khi đó, đất không bổ sung nước sau biogas, sự gia tăng của hàm lượng đạm trong đất không tương ứng với sự phát triển của vi sinh vật đất. Hàm lượng đạm trong đất không bổ sung nước sau biogas rất thấp và giảm theo thời gian, trong khi sự phát triển của vi sinh vật đất thấp nhưng vẫn diễn biến tăng theo thời gian theo dõi. Kết quả thí nghiệm 1 cho thấy việc bổ sung nước sau biogas cung cấp 75 đạm hữu dụng cho đất và thúc đẩy sự phát triển của vi sinh vật đất. Lượng đạm cung cấp cho đất tăng theo sự gia tăng lượng nước sau biogas bổ sung vào đất. Hoạt động của vi sinh vật đất tăng theo lượng nước sau biogas bổ sung cho đất và tương quan với lượng đạm cung cấp cho đất, cao nhất ở tỷ lệ nước sau biogas 100%, tiếp theo là 75% và thấp nhất là 50%. Thí nghiệm 2 được thực hiện dựa trên các tỷ lệ nước sau biogas 100%, 75% và 50% để tưới cho đất trồng trong điều kiện chậu thí nghiệm nhằm theo dõi sự sinh trưởng và phát triển của cây bắp và cây đậu bắp có gia tăng theo các tỷ lệ nước sau biogas khác nhau. 4.1.2 Tăng trƣởng của cây bắp, cây đậu bắp đƣợc trồng trong chậu điều kiện ngoài đồng 4.1.2.1 Tăng trƣởng của cây bắp trồng trong chậu điều kiện ngoài đồng Tăng trưởng của cây bắp phụ thuộc vào lượng dinh dưỡng được cung cấp cho cây, bên cạnh các điều kiện về ánh sáng, nhiệt độ, điều này thể hiện rõ khi bắp đóng trái đến khi thu hoạch (Dương Thị Loan và ctv., 2016). Sự tăng trưởng của cây bắp trồng trong chậu điều kiện ngoài đồng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu chiều cao cây, số hạt trên trái, số hàng trên trái, khối lượng hạt tươi, khối lượng hạt khô và năng suất. a) Chiều cao cây bắp Chiều cao cây được ghi nhận từ 10 NSKG (thời điểm cây bắp được bón phân đợt đầu tiên). Kết quả theo dõi sự tăng trưởng của bắp từ 10 đến 30 NSKG cho thấy giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) (Hình 4.6). Giai đoạn 10 NSKG, cây chuyển từ trạng thái sống nhờ chất dinh dưỡng dự trữ trong hạt sang trạng thái hút dinh dưỡng từ đất và quang hợp của bộ lá, sang giai đoạn 20-30 NSKG, cây sinh trưởng mạnh, lóng thân bắt đầu phân hóa và chuyển sang giai đoạn xoáy noãn chuẩn bị trổ cờ. Cây bắp ở nghiệm thức bón phân hóa học có lá to và màu xanh đậm, thân cây mập mạp nhưng giòn, dễ gãy và dễ bị sâu đục thân tấn công, bệnh thối thân do vi khuẩn cũng xuất hiện ở nghiệm thức này. Các nghiệm thức tưới nước sau biogas cây có lá nhỏ hơn, mỏng và có màu xanh nhạt, thân cây cứng cáp và ít bị sâu hại tấn công, không xuất hiện bệnh thối thân do vi khuẩn. Điều này có thể giải thích là do nước sau biogas đóng vai trò của một hợp chất hữu cơ nên khi sử dụng cho đất có tác dụng cải thiện khả năng canh tác của đất, tăng hoạt động của hệ vi sinh vật đất (nhất là vi sinh vật hiếu khí) thúc đẩy quá trình phân giải chất hữu cơ, tăng cường và duy trì độ phì nhiêu của đất (Châu Minh Khôi và ctv., 2014, Trần Huỳnh Khanh và ctv., 2019). Sự phát triển và hoạt động của vi sinh vật 76 đất ảnh hưởng lớn đến chất lượng đất và sự phát triển của cây trồng, mật số vi sinh vật trong đất cao, dẫn đến sự đa dạng vi sinh vật, tăng cạnh tranh, đối kháng, giúp giảm bệnh hại trong đất (Nguyễn Ngọc Thanh và ctv., 2018). Hình 4.6: Chiều cao cây bắp trồng trong chậu qua các giai đoạn sinh trưởng Ghi chú: Số liệu được trình bày dạng trung bình ± độ lệch chuẩn, n=4. PHH: Sử dụng phân hóa học, NSB: nước sau biogas, NK: nước kênh. Kết quả trình bày ở Hình 4.6 cho thấy giai đoạn từ 40 đến 60 NSKG cây bắp phát triển đạt chiều cao tối đa, chiều cao cây không khác biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức tưới nước sau biogas; bắp bón phân hóa học có chiều cao cây thấp nhất và có sự khác biệt so với tưới 75% nước sau biogas cho thấy chế độ dinh dưỡng đã ảnh hưởng đến chiều cao cây, điều này thể hiện rõ ở giai đoạn khi bắp đóng trái đến khi thu hoạch. Cây bắp tưới 100% và 50% nước sau biogas có chiều cao thấp hơn nghiệm thức tưới 75% nước sau biogas, mặc dù sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê. Từ đó cho thấy lượng nước sau biogas được tưới quá nhiều hoặc quá ít đều có thể làm cho cây bị ức chế sinh trưởng (Phạm Việt Nữ và ctv., 2015). Nhìn chung, việc tưới nước sau biogas giúp cho cây bắp phát triển vượt trội về chiều cao so với bón phân hóa học. b) Số hạt, số hàng, khối lƣợng hạt và năng suất bắp Số hạt/trái giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05), các nghiệm thức tưới nước sau biogas cho phẩm chất trái tương đương bón phân hóa học, các tỷ lệ tưới nước sau biogas không ảnh hưởng đến số lượng hạt/trái (Bảng 4.3). Điều này có thể giải thích là do tưới nước sau biogas đã cung cấp dinh dưỡng dạng hữu cơ cho đất, làm gia tăng hàm lượng chất hữu cơ và mùn trong đất mà phân vô cơ không có được, từ đó nâng cao phẩm chất và chất lượng trái thu hoạch (Trần Huỳnh Khanh và ctv., 2019). Theo kết quả thí nghiệm được trình bày ở Bảng 4.3, khối lượng hạt và 77 năng suất khác biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức tưới nước sau biogas, trong đó nghiệm thức tưới 75% nước sau biogas đạt năng suất cao tương đương với nghiệm thức phân hóa học. Điều này cho thấy tưới nước sau biogas đã cung cấp chất hữu cơ cho đất, chất hữu cơ vào trong đất được phân giải và cung cấp đầy đủ dưỡng chất cho cây và cải tạo độ phì của đất, tăng năng suất cây trồng (Châu Minh Khôi và ctv., 2014). Bảng 4.3: Đặc điểm của trái bắp ở các nghiệm thức thí nghiệm trồng trong chậu Chỉ tiêu Nghiệm thức PHH 100%NSB 75%NSB +25%NK 50%NSB +50%NK Số hạt/trái 393±45,4a 386±42,9a 412±28,9a 377±28,5a Số hàng/trái 14,8±0,48a 14,0±0,86a 14,0±0,0a 13,5±0,5a Khối lượng hạt tươi (g/trái) 176±29,0 ab 149±17,3 bc 164±3,10 abc 146±13,9 c Khối lượng hạt khô (g/trái) 89,3±10,8 a 67,6±8,23 b 86,5±3,12 a 66,5±5,75 b Năng suất (g/chậu) 315±39,8a 275±14,9b 322±12,7a 244±23,0b Ghi chú: Số liệu được trình bày dạng trung bình ± độ lệch chuẩn, n=3. Giá trị trung bình trong cùng hàng có kí tự giống nhau (a, b, c) khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. PHH: Sử dụng phân hóa học, NSB: nước sau biogas, NK: nước kênh. Lượng N, P, K bổ sung cho cây bắp cao nhất ở nghiệm thức bón phân hóa học và giảm dần ở các nghiệm thức còn lại theo tỷ lệ nước sau biogas. Tưới 100% và 50% nước sau biogas cho kết quả thấp hơn tỷ lệ tưới 75% cho thấy sự dư thừa đạm và sự thiếu hụt đạm đều làm suy giảm khối lượng trái bắp. Bởi vì nhu cầu đạm của cây luôn có giới hạn, nếu thừa đạm dẫn đến thiếu hụt các chất dinh dưỡng khác, có thể gây ngộ độc cho cây trồng, làm giảm năng suất, bón phân cân đối làm cho chất lượng của ngũ cốc tốt hơn (Phạm Việt Nữ và ctv., 2015, Dương Thị Loan và ctv., 2016). 4.1.2.2 Tăng trƣởng của cây đậu bắp trồng trong chậu điều kiện ngoài đồng Tăng trưởng của cây đậu bắp được đánh giá qua các chỉ tiêu chiều cao cây, số trái và năng suất. a) Chiều cao của cây đậu bắp Kết quả cho thấy chiều cao cây đậu bắp các nghiệm thức tưới nước sau biogas không khác biệt so với bón phân hóa học ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng 15, 30, 45, 60, 75 và 90 ngày sau khi gieo (NSKG) (p>0,05), trừ nghiệm thức tưới 75% nước sau biogas thấp hơn ở 45-60 NSKG (Hình 4.7). Thời điểm 15-30 NSKG, cây đậu bắp bắt đầu hấp thu chất dinh dưỡng từ nước sau biogas và phát triển nên có chiều cao tương đương nghiệm thức phân hóa học (40,3 cm). Lá đậu bắp bón phân hóa học có màu xanh đậm, bản lá to và dày. Ở nghiệm thức tưới nước sau biogas, lá có màu xanh nhạt ngả sang 78 vàng, điều này xảy ra do đạm hữu dụng bị bất động sau khi tưới chất hữu cơ vào trong đất (Nguyễn Khởi Nghĩa và ctv., 2015a). Hình 4.7: Chiều cao cây đậu bắp trồng trong chậu qua các giai đoạn sinh trưởng Ghi chú: Số liệu được trình bày dạng trung bình ± độ lệch chuẩn, n=4. PHH: Sử dụng phân hóa học, NSB: nước sau biogas, NK: nước kênh. Giai đoạn từ 45 đến 60 NSKG, đậu bắp tăng trưởng nhanh và trong giai đoạn cho trái. Thời gian từ 75 đến 90 NSKG, đậu bắp phát triển đạt chiều cao tối đa (125-171 cm). Giai đoạn này, cây đậu bắp được tưới nước sau biogas sinh trưởng mạnh, lá to có màu xanh nhạt và láng bóng, ít bị sâu bệnh tấn công. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Võ Châu Ngân và ctv., 2015, cây rau muống trồng với chất thải biogas đạt năng suất thấp ở đợt 1 và phát triển cao tương đương với phân vô cơ ở đợt 2. Nghiệm thức bón phân hóa học có lá xanh đậm, mặt lá sần sùi và thô có thể là do dư thừa lượng đạm phân hóa học bón cho đậu bắp làm ảnh hưởng bất lợi đến sự sinh trưởng, năng suất và chất lượng cây trồng (Nguyễn Ngọc Thanh và ctv., 2018). Trong khi đó nước sau biogas đóng vai trò của một hợp chất hữu cơ được sử dụng tưới cho đất có tác dụng cải thiện khả năng canh tác của đất, tăng hoạt động của hệ vi sinh vật đất, thúc đẩy quá trình phân giải chất hữu cơ, tăng cường và duy trì độ phì nhiêu của đất, tăng khả năng chống chịu và sâu bệnh hại tấn công (Châu Minh Khôi và ctv., 2014, Nguyễn Ngọc Thanh và ctv., 2018, Trần Huỳnh Khanh và ctv., 2019). b) Số trái và năng suất đậu bắp Kết quả trồng cây đậu bắp tưới nước sau biogas với các tỷ lệ khác nhau trồng trong chậu điều kiện ngoài đồng cho thấy số trái và năng suất đậu bắp biến động theo các tỷ lệ thể tích nước sau biogas tưới cho cây. Cây đậu bắp tưới 100% nước sau biogas có số trái và năng suất tương đương sử dụng phân hóa học và cao hơn so với tưới 75% và 50% nước sau biogas (Bảng 4.4). 79 Bảng 4.4: Số trái và năng suất cây đậu bắp trồng trong chậu Nghiệm thức Số trái (trái/chậu) Năng suất (g/chậu) PHH 27,0±2,16 a 656±66,3 a 100%NSB 28,8±2,06 a 718±47,8 a 75%NSB+25%NK 17,5±1,00 b 423±58,6 b 50%NSB+50%NK 16,8±0,96 b 425±31,3 b Ghi chú: Số liệu được trình bày dạng trung bình ± độ lệch chuẩn, n=4. Giá trị trung bình trong cùng cột có kí tự giống nhau (a, b) khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. PHH: Sử dụng phân hóa học, NSB: nước sau biogas, NK: nước kênh. Kết quả theo dõi chỉ tiêu số trái và năng suất trái đậu bắp được trình bày trong Bảng 4.4 cho thấy với lượng đạm được cung cấp khi tưới 100% nước sau biogas cây đậu bắp có số trái và năng suất tương đương bón phân hóa học. Tưới 75% và 50% nước sau biogas cung cấp cho đất lượng đạm thấp hơn nên đậu bắp có số trái và khối lượng trái thấp hơn khác biệt có ý nghĩa so với bón phân hóa học; điều này cho thấy đạm đóng vai trò quan trọng đối với sinh trưởng và năng suất của cây (Lê Phước Toàn và Ngô Ngọc Hưng, 2018). Kết quả cho thấy tưới nước sau biogas có tác dụng tăng cường sự cung cấp đạm khoáng hóa từ chất hữu cơ cho đất, giúp tăng pH đất, chất hữu cơ, đạm hữu cơ dễ phân hủy, lân dễ tiêu trong đất, từ đó gia tăng năng suất cây trồng (Trịnh Thị Thu Trang và Nguyễn Mỹ Hoa, 2007, Nguyễn Khởi Nghĩa và ctv., 2015b, Nguyễn Ngọc Thanh và ctv., 2018). Từ kết quả của thí nghiệm 1 và thí nghiệm 2 cho thấy bổ sung nước sau biogas cho đất càng nhiều thì cung cấp nhiều đạm cho đất và hoạt động của vi sinh vật đất gia tăng tỉ lệ thuận với hàm lượng đạm hữu dụng trong đất. Kết quả cũng cho thấy hàm lượng đạm cung cấp cho cây đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng và quyết định năng suất của cây trồng. Cây bắp ở nghiệm thức tưới 75% nước sau biogas, cây đậu bắp ở nghiệm thức tưới 100% nước sau biogas có sự tăng trưởng tương đương với bón phân hóa học. Dựa trên kết quả của nội dung này, các thí nghiệm của nội dung 2 đã được thực hiện nhằm đánh giá diễn biến của hàm lượng đạm và vi sinh vật trong đất trồng và năng suất của cây bắp, cây đậu bắp, cây dưa leo. 4.2 Diễn biến đạm hữu dụng, vi sinh vật trong đất và năng suất trồng cây bắp, cây đậu bắp, cây dƣa leo tƣới nƣớc sau biogas trong điều kiện ngoài đồng 4.2.1 Diễn biến hàm lƣợng đạm hữu dụng trong đất và năng suất trồng cây bắp và cây đậu bắp tƣới nƣớc sau biogas trong điều kiện ngoài đồng Trên cơ sở kết quả trồng cây bắp và cây đậu bắp trong chậu, tỷ lệ nước sau biogas 75% và 100% đạt năng suất cao tương đương với nghiệm thức bón phân hóa học và cao hơn các nghiệm thức còn lại được chọn để triển khai thí 80 nghiệm trên đất liếp. 4.2.1.1 Diễn biến hàm lƣợng đạm hữu dụng trong đất và năng suất trồng cây bắp tƣới nƣớc sau biogas trong điều kiện ngoài đồng a) Diễn biến hàm lƣợng đạm amôn trong đất trồng cây bắp Diễn biến hàm lượng đạm amôn trong đất trồng cây bắp trồng trong điều kiện ngoài đồng được thể hiện ở Hình 4.8. Hình 4.8: Hàm lượng đạm amôn trong đất trồng bắp theo thời gian Ghi chú: PHH: Sử dụng phân hóa học, NSB: nước sau biogas, NK: nước kênh. Sự tăng giảm hàm lượng N-NH4 + trong đất ở các giai đoạn tăng trưởng của cây bắp có sự khác nhau giữa sử dụng phân hóa học và nước thải biogas. Kết quả cho thấy từ 15 NSKG, hàm lượng N-NH4 + trong đất ở nghiệm thức trồng bằng phân hóa học cao hơn các nghiệm thức trồng bằng nước sau biogas. Nguyên nhân do lượng đạm được cung cấp từ phân hóa học chủ yếu là dạng hữu dụng dẫn đến hàm lượng NH4 + tích lũy trong đất cao (Trịnh Thị Thu Trang và Nguyễn Mỹ Hoa, 2007). Tuy nhiên, lượng đạm tích lũy này dễ mất đi do sự bất động, sự bay hơi đạm dạng khí, sự rửa trôi hoặc do sự thủy phân chưa hoàn toàn của phân urê thành N-NH4 + (Trịnh Thị Thu Trang và Nguyễn Mỹ Hoa, 2007) nên có sự chênh lệch lớn so với lượng đạm được cung cấp. Trong giai đoạn từ khi gieo đến 15 NSKG, cây hấp thu dinh dưỡng từ đất ít, chủ yếu sử dụng chất dinh dưỡng từ hạt. Hàm lượng N-NH4 + của đất bón phân hóa học theo xu hướng tăng từ 15 NSKG đến 45 NSKG, mặc dù giảm ở 25 NSKG, trong khi việc tưới nước thải biogas với lượng đạm thấp hơn bón phân hóa học nên có hàm lượng N-NH4 + trong đất thấp hơn. Hàm lượng N- NH4 + trong đất tưới nước sau biogas tăng liên tục từ khi gieo và đạt được mức cao nhất ở ngày thứ 25. Điều này cho thấy việc bổ sung thêm chất hữu cơ giàu đạm (nước sau biogas) đã cung c
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_su_dung_nuoc_sau_biogas_de_canh_tac_hoa_m.pdf
Tom tat luan an-Nguyen Phuong Thao -Tieng Viet_nop cap Truong.pdf
Tom tat luan an-Nguyen Phuong Thao-Tieng Anh_nop cap Truong.pdf
TRANG THONG TIN VE LUAN AN_Nguyen Phuong Thao_tieng Anh.doc
TRANG THONG TIN VE LUAN AN_Nguyen Phuong Thao_tieng Viet.doc