Luận án Nghiên cứu sử dụng Ozon trong sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949)

Luận án Nghiên cứu sử dụng Ozon trong sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949) trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu sử dụng Ozon trong sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949) trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu sử dụng Ozon trong sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949) trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu sử dụng Ozon trong sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949) trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu sử dụng Ozon trong sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949) trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu sử dụng Ozon trong sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949) trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu sử dụng Ozon trong sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949) trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu sử dụng Ozon trong sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949) trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu sử dụng Ozon trong sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949) trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu sử dụng Ozon trong sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949) trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 217 trang nguyenduy 06/10/2025 60
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu sử dụng Ozon trong sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu sử dụng Ozon trong sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949)

Luận án Nghiên cứu sử dụng Ozon trong sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949)
 sáng 
và dao động từ 8,14 – 8,15 vào buổi chiều (Bảng 4.3). Theo Boyd (1998), 
khoảng pH thích hợp cho sự phát triển của động vật thủy sản là 6,5 – 9,0. 
Theo Dat (1999) thì pH thích hợp cho nuôi cua trong điều kiện sản xuất giống 
nằm trong khoảng 7,5 – 8,0. 
Hàm lượng oxy hòa tan ở các nghiệm thức dao động trong khoảng 5,07 
– 5,34 mg/L vào buổi sáng và 5,37 – 5,46 mg/L vào buổi chiều. Theo Naylor 
et al (1999), nhu cầu oxy của trứng sẽ tăng theo quá trình phát triển. Hàm 
lượng oxy trong nước thấp sẽ ảnh hưởng đến thời gian ấp, khả năng phát triển 
và nở đồng loạt của trứng, do đó trong suốt quá trình ấp trứng hàm lượng oxy 
hòa tan nên duy trì trên 5 mg/L (Dat, 1999; Samuel and Soundarapandian, 
2010). Nhìn chung biến động các yếu tố môi trường giữa các nghiệm thức 
trong suốt thời gian thí nghiệm đều nằm trong khoảng thích hợp cho quá trình 
phát triển của trứng. 
Bảng 4.3: Biến động một số các yếu tố môi trường trong hệ thống sau 11 ngày 
thí nghiệm 
Nghiệm thức Thời gian Nhiệt độ (oC) pH DO (mg/L) 
Đối chứng 
Sáng 26,9±0,5 8,13±0,02 5,32±0,06 
Chiều 28,4±0,8 8,15±0,01 5,46±0,11 
Xử lý ozon 1 ngày/lần 
Sáng 26,8±0,5 8,13±0,02 5,34±0,05 
Chiều 28,4±0,9 8,14±0,01 5,38±0,08 
Xử lý ozon 2 ngày/lần 
Sáng 26,6±0,4 8,13±0,02 5,33±0,06 
Chiều 28,0±0,8 8,15±0,02 5,37±0,07 
Xử lý ozon 3 ngày/lần 
Sáng 26,6±0,5 8,13±0,02 5,07±0,10 
Chiều 27,9±0,7 8,15±0,01 5,40±0,08 
 70 
4.2.2.2. Các chỉ tiêu sinh sản 
Kết quả Bảng 4.4 cho thấy, sức sinh sản tương đối của cua khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa các nghiệm thức và dao động trong 
khoảng 7,62 x 103 – 10,50 x 103 trứng/g cua mẹ (Bảng 4.4). Sức sinh sản 
tương đối của cua biển dao động từ 5787 - 6000 trứng/g cua mẹ (Nguyễn Cơ 
Thạch, 1998; Trần Ngọc Hải, 2002). 
Tỷ lệ thụ tinh dao động từ 94,2 – 97,0% (Bảng 4.4) và khác biệt không 
có ý nghĩa (p>0,05) giữa các nghiệm thức. Millamena and Bangcaya (2001) 
cho rằng, cua biển nuôi vỗ và cho sinh sản nhân tạo sẽ cho tỷ lệ thụ tinh cao 
hơn cua biển đẻ ngoài tự nhiên. Theo Phạm Văn Quyết và Trương Trọng 
Nghĩa (2010) thì khi sử dụng nguồn cua biển tự nhiên trong sinh sản nhân tạo 
sẽ cho tỷ lệ thụ tinh cao hơn cua biển được nuôi trong ao, tỷ lệ thụ tinh của cua 
biển ngoài tự nhiên dao động trong khoảng 79 – 95%. Như vậy kết quả tỷ lệ 
thụ tinh của nghiên cứu này cũng không khác biệt với các nghiên cứu trước 
đây. 
Bảng 4.4: Các chỉ tiêu sinh sản của cua mẹ 
Nghiệm thức SSS tương 
đối (103 
trứng/g cua 
mẹ) 
Tỷ lệ thụ 
tinh (%) 
Tỷ lệ 
trứng 
thải (%) 
Tỷ lệ nở 
(%) 
Tổng Zoea1 
(x103 ấu 
trùng/g cua 
mẹ) 
Đối chứng 9,53±1,80a 94,2±6,4a 21,6±3,3a 62,3±6,9b 5,51±0,59b 
Xử lý ozon 1 
ngày/lần 
7,62±1,06a 97,0±2,6a 26,0±2,0ab 57,4±2,6b 4,25±0,66b 
Xử lý ozon 2 
ngày/lần 
10,50±3,22a 95,3±3,2a 27,4±3,4ab 32,2±15,5a 3,44±2,08b 
Xử lý ozon 3 
ngày/lần 
8,23±1,03a 94,0±2,0a 31,7±4,8b 15,5±9,3a 1,20±0,76a 
Các giá trị trên cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) 
Tỷ lệ trứng thải có xu hướng gia tăng khi tần suất xử lý ozon càng thưa, 
nhất là ở tần suất ozon 3 ngày/lần. Tỷ lệ trứng cua thải ít nhất (21,6%) ở 
nghiệm thức không sử dụng ozon và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) so với các 
nghiệm thức có sử dụng ozon. Vào thời điểm kết thúc thí nghiệm, tỷ lệ trứng 
cua biển thải ra cao nhất (31,7%) ở nghiệm thức xử lý ozon với tần suất 3 
ngày/lần khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với các nghiệm thức còn lại. Sự khác 
biệt này là do trứng bị nhiễm ký sinh trùng và nấm, nhất là ở các nghiệm thức 
có tần suất xử lý ozon thưa hơn (Bảng 4.5), nên trứng bị đào thải dần trong 
suốt quá trình ấp (Millamena and Quinitio, 2000; Djunaidah et al., 2003). 
Tỷ lệ nở ở nghiệm thức đối chứng (xử lý iodine) (62,3%) khác biệt 
không có ý nghĩa (p>0,05) so với nghiệm thức xử lý ozon 1 ngày/lần (57,4%) 
nhưng khác biệt có ý nghĩa với nghiệm thức 2 ngày/lần (32,2%) và 3 ngày/lần 
 71 
(15,5%). Kết quả ở Bảng 4.4 cho thấy, tỷ lệ nở của trứng càng thấp khi tần 
suất xử lý ozon càng thưa. Nguyên nhân có thể là do tần suất xử lý ozon càng 
thưa thì số lượng nấm và ký sinh trùng càng tăng dẫn đến tỷ lệ nở của trứng 
thấp (Nakamura et al., 1995; Kvingedal et al., 2006). Tổng số lượng ấu trùng 
Zoea1 ở nghiệm thức xử lý iodine (5,51 x 103 ấu trùng/g cua mẹ) khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức xử lý ozon 1 ngày/lần 
(4,25 x 103 ấu trùng/g cua mẹ) và nghiệm thức xử lý ozon 2 ngày/lần (3,44 x 
103 ấu trùng/g cua mẹ). Số lượng ấu trùng Zoea1 thấp nhất (1,20 x 103 ấu 
trùng/g cua mẹ) ở nghiệm thức xử lý ozon 3 ngày/lần và khác biệt có ý nghĩa 
(p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại khi kết thúc thí nghiệm. Như vậy mặc 
dù xử lý trứng bằng iodine cho tỷ lệ nở và tổng số Zoea1 cao hơn so với xử lý 
ozon 1 ngày/lần nhưng khi xử lý cua ôm trứng bằng iodine thì cua ôm trứng 
phải được ngâm iodine 1 mg/L trong suốt thời gian nuôi. Trong khi đó, thời 
gian xử lý cua trứng bằng ozon nhanh hơn (chỉ tắm cua trứng trong 60 giây). 
Mặt khác, kết quả ở Bảng 4.5 và 4.6 cũng cho thấy, mặc dù được ngâm iodine 
trong suốt thời gian ấp nhưng tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng, nấm và mật độ vi 
khuẩn trên trứng cao hơn so với xử lý bằng ozon. Ngoài ra, theo kết quả khảo 
sát nội bộ thì hiện nay khu vực Cà Mau và Bạc Liêu đang gặp khó khăn trong 
sản xuất cua biển do ấu trùng không thể chuyển sang giai đoạn Zoea2 khi cua 
trứng được xử lý bằng iodine hoặc sử dụng các dòng kháng sinh từ thuốc tây 
như: Ciproloxacine, Cefotaxim, Mycogynax để phòng và trị bệnh trên cua 
mang trứng. 
4.2.2.3. Tỷ lệ nhiễm nấm và ký sinh trùng trên trứng 
Sau 11 ngày ấp, tỷ lệ trứng nhiễm ký sinh trùng thấp nhất ở nghiệm 
thức xử lý ozon với tần suất 1 ngày/lần (8,45%) và khác biệt không có ý nghĩa 
(p>0,05) với nghiệm thức xử lý iodine (9,05%), nhưng khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p<0,05) với nghiệm thức xử lý ozon 2 ngày/lần (15,22%) và 3 
ngày/lần (16,45%). Tỷ lệ trứng nhiễm nấm cũng cao nhất ở nghiệm thức xử lý 
ozon 3 ngày/lần (6,67%) khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với các nghiệm thức 
còn lại. Tỷ lệ trứng nhiễm nấm thấp nhất ở nghiệm thức xử lý ozon 1 ngày/lần 
(2,63%) nhưng khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) với nghiệm thức không 
xử lý ozon (2,79%). Ngoài ra trong quá trình ấp, một số trứng có hiện tượng 
nhiễm đồng thời nấm và ký sinh trùng (Bảng 4.5). Tỷ lệ trứng nhiễm đồng 
thời nấm và ký sinh trùng cũng thấp nhất ở nhóm nghiệm thức xử lý iodine và 
xử lý ozon 1 ngày/lần, lần lượt là 1,41% và 1,72%, khác biệt có ý nghĩa 
(p<0,05) với nhóm xử lý ozon 2 ngày/lần (3,46%) và 3 ngày/lần (3,70%). 
Theo báo cáo của các nghiên cứu trước đây cho thấy, trong suốt quá trình ấp, 
trứng cua biển thường nhiễm nấm Lagenidium sp. (Cholik, 1999), Sirolpidium 
 72 
sp. (Nakamura et al., 1995), Hematonidium sp. (Hudson and Shields, 1994), 
Halipthoros sp. (Leano, 2001) và các loài nguyên sinh động vật như Epistylic 
sp., Acineta sp., Lagenophrys sp. (Hudson and Lester, 1994) và Zoathamnium 
sp. (Dat, 1999; Cholik, 1999) hoặc nhiễm đồng thời Zoothamnium sp. và 
Lagenidium sp. (Kvingedal et al., 2006). 
Bảng 4.5: Tỷ lệ nhiễm nấm và ký sinh trùng trên trứng cua biển 
Nghiệm thức Tỷ lệ nhiễm ký 
sinh trùng (%) 
 Tỷ lệ 
nhiễm nấm 
(%) 
Tỷ lệ nhiễm đồng thời 
nấm và ký sinh trùng 
(%) 
Đối chứng (iodine) 9,05±0,77a 2,79±0,13a 1,41±0,10a 
Xử lý ozon 1 ngày/lần 8,45±0,55a 2,63±0,05a 1,72±0,26a 
Xử lý ozon 2 ngày/lần 15,22±0,31b 5,07±0,41b 3,46±0,21b 
Xử lý ozon 3 ngày/lần 16,45±0,77c 6,67±0,51c 3,70±0,91b 
Chú thích: Cua mang trứng được ngâm Iodine với nồng độ 1 µL/L cho đến khi thay nước mới (thay 
100% nước/ngày) và cua mang trứng được tắm ozon với nồng độ 0,1 mg/L trong 60 giây trước mỗi 
lần thay nước. 
Các giá trị trên cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) 
 Thông thường để loại bỏ mầm bệnh trên trứng và tăng tỷ lệ nở của 
trứng thì người nuôi thường sử dụng các chất như formaline, H2O2 hoặc ozon. 
Tuy nhiên, việc sử dụng ozon để khử trùng bề mặt vỏ trứng thường được sử 
dụng và đã đem lại nhiều hiệu quả tích cực (Schneider et al., 1990; Liltved et 
al., 2006; Sharrer and Summerfelt, 2007; Summerfelt et al., 2009). Theo 
Forneris et al. (2003), sử dụng ozon sẽ làm giảm và chậm thời gian phát triển 
của bệnh, đặc biệt là nấm và protozoa. Nếu sử dụng nồng độ 0,5 mg/L trong 
10 phút thì sẽ loại bỏ hoàn toàn 100% virus, vi khuẩn, nấm và protozoa (FAO, 
2007). Tuy nhiên, trứng thụ tinh của các loài khác nhau thì khả năng chịu 
đựng hàm lượng ozon hòa tan cũng khác nhau. Do đó, cần phải xác định mức 
độ tiếp xúc với ozon của từng loài cho phù hợp (Grotmol et al., 2003). Như 
vậy kết quả của nghiên cứu này cho thấy xử lý trứng cua trong quá trình ấp 
bằng ozon với nồng độ 0,1 mg/L trong thời gian 60 giây và tần suất xử lý mỗi 
ngày (1 ngày/lần) có thể giúp giảm tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng và nấm trên 
trứng đến mức thấp nhất. 
4.2.2.4. Mật độ vi khuẩn trên trứng cua biển 
Mật độ vi khuẩn cao nhất ở nghiệm thức xử lý iodine (1,35 x 104 
CFU/mL) khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với các nghiệm thức xử lý ozon 1 
ngày/lần (0,50 x 104 CFU/mL), 2 ngày/lần (0,55 x 104 CFU/mL) và 3 ngày/lần 
(0,73 x 104 CFU/mL) (Bảng 4.6). Ozon có khả năng tiêu diệt vi khuẩn, nấm và 
nguyên sinh vật gây bệnh trên nhiều đối tượng thủy sản (Schneider et al., 
1990; Liltved et al., 2006; Sharrer and Summerfelt, 2007; Summerfelt et al., 
2009). Kết quả thí nghiệm đã cho thấy, hiệu quả diệt khuẩn của ozon lên đến 
 73 
75,3 – 75,6% sau khi xử lý với nồng độ 0,1 mg/L trong 60 giây (CT = 0,1) và 
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức xử lý bằng iodine 
(64,8%). Tạ Văn Phương (2006) đề nghị sử dụng ozon ở nồng độ 0,045 mg/L 
trong 5 phút (CT = 0,225) cho hiệu quả diệt khuẩn lên đến 91,7%. Điều này 
cho thấy, hiệu quả diệt khuẩn gây bệnh phụ thuộc nhiều vào thời gian tiếp xúc 
hơn là nồng độ ozon. Mặc dù, hiệu quả diệt vi khuẩn tổng trong khoảng 75,3 – 
75,6% giữa ba nghiệm thức xử lý trứng bằng ozon, tuy nhiên, khi tần suất xử 
lý ozon càng thưa thì mật độ vi khuẩn trước mỗi chu kỳ xử lý ozon luôn có xu 
hướng cao hơn là do mật độ vi khuẩn giảm tại thời điểm xử lý ozon nhưng số 
vi khuẩn còn lại vẫn tiếp tục phát triển cho một hoặc hai ngày sau khi xử lý 
ozon. Do đó, Sau 11 ngày nuôi, mật độ vi khuẩn tổng sau khi sục khí ozon cao 
nhất ở nghiệm thức xử lý iodine (0,48 x 104 CFU/mL), tuy nhiên khác biệt 
không có ý nghĩa (p>0,05) so với nghiệm thức xử lý ozon với tần suất 3 
ngày/lần (0,49 x 104 CFU/mL) và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với nghiệm 
thức xử lý ozon 1 ngày/lần (0,12 x 104 CFU/mL) và 2 ngày/lần (0,26 x 104 
CFU/mL) (Bảng 4.6). 
Bảng 4.6: Mật độ vi khuẩn tổng và vi khuẩn Vibrio sp. trên trứng cua biển 
Nghiệm thức Đối chứng Ozon 1 
ngày/lần 
Ozon 2 
ngày/lần 
Ozon 3 
ngày/lần 
Mật độ vi khuẩn tổng (104 CFU/mL) 
Trước xử lý 1,35±0,30b 0,50±0,01a 0,55±0,06a 0,73±0,32a 
Sau xử lý 0,48±0,11b 0,12±0,00a 0,26±0,03ab 0,49±0,21b 
Hiệu quả diệt khuẩn tổng (%) 64,8±0,4a 75,5±0,2b 75,6±0,3b 75,3±0,5b 
Mật độ vi khuẩn Vibrio sp. (103 CFU/mL) 
Trước xử lý 1,42±0,26c 0,41±0,02a 0,47±0,09a 0,90±0,27b 
Sau xử lý 0,57±0,09b 0,09±0,00a 0,23±0,06a 0,60±0,19b 
Hiệu quả diệt khuẩn Vibrio sp. 
(%) 
59,2±0,3a 76,8±0,5b 77,3±0,7b 77,4±0,7b 
Các giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) 
Tương tự, mật độ vi khuẩn Vibrio sp. trước khi sục khí ozon ở các 
nghiệm thức có xử lý ozon thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) với nghiệm thức đối 
chứng. Mật độ vi khuẩn Vibrio sp. sau khi xử lý thấp nhất ở nghiệm thức xử lý 
ozon với tần suất 1 ngày/lần (0,09 x 103 CFU/mL) khác biệt không có ý nghĩa 
(p>0,05) với nghiệm thức xử lý ozon với tần suất 2 ngày/lần (0,23 x 103 
CFU/mL), nhưng khác biệt có ý nghĩa với nghiệm thức đối chứng (0,57 x 103 
CFU/mL) và nghiệm thức xử lý ozon 3 ngày/lần (0,60 x 103 CFU/mL). Kết 
quả ở Bảng 4.6 cũng cho thấy, hiệu quả diệt khuẩn Vibrio sp. của ozon khá 
cao lên đến 76,8 – 77,4% sau khi xử lý ozon với nồng độ 0,1 mg/L trong 60 
giây, cao hơn so với xử lý iodine (59,2%). Liltved et al (1995), cho rằng sử 
 74 
dụng ozon với nồng độ 0,15 – 0,2 mg/L trong thời gian 60 giây sẽ diệt đến 
99% vi khuẩn Vibrio sp. trong nước. 
4.2.2.5. Chất lượng ấu trùng 
Ấu trùng sau khi nở có tỷ lệ dị hình cao nhất ở nghiệm thức xử lý ozon 
với tần suất 1 ngày/lần (2,10%) và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) so với 
nghiệm thức xử lý iodine (0,65%), nghiệm thức xử lý ozon 2 ngày/lần (0,83%) 
và 3 ngày/lần (0,92%) (Bảng 4.7). Theo Beguer et al. (2008), thì hiện tượng dị 
hình của ấu trùng động vật thủy sản có thể được gây ra bởi các tác động của 
hóa chất. Tỷ lệ dị hình của cá bột được ghi nhận tăng khi trứng cá tiếp xúc với 
nồng độ ozon thấp trong thời gian dài hoặc với nồng độ ozon cao trong thời 
gian ngắn (Forneris et al., 2003). 
Bảng 4.7: Chất lượng ấu trùng sau khi nở 
Nghiệm thức Tỷ lệ ấu 
trùng dị hình 
(%) 
 Tỷ lệ sống ấu 
trùng sốc formol 
30 phút (%) 
Tỷ lệ sống ấu 
trùng sốc độ mặn 
120 phút (%) 
Xử lý iodine 0,65±0,50a 68,3±1,70b 73,5±6,18ab 
Xử lý ozon 1 ngày/lần 2,10±0,39b 66,2±3,50b 82,5±5,15b 
Xử lý ozon 2 ngày/lần 0,83±0,33a 60,5±2,14b 77,1±2,01ab 
Xử lý ozon 3 ngày/lần 0,92±0,78a 47,0±10,8a 72,3±4,16a 
Chú thích: Âu trùng được sốc formol 100 µL/L trong 30 phút và ấu trùng được sốc giảm 50% độ mặn 
(từ 30 ‰ xuống 15 ‰) trong 120 phút. 
Các giá trị trên cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) 
 Kết quả sốc formol cho thấy tỷ lệ sống của ấu trùng thấp nhất (47%) ở 
nghiệm thức xử lý ozon 3 ngày/lần, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với 
nghiệm thức đối chứng (68,3%), xử lý ozon 1 ngày/lần (66,2%) và 2 ngày/lần 
(60,5%). Kết quả tương tự cũng ghi nhận được khi gây sốc độ mặn. Tỷ lệ sống 
của ấu trùng trong nghiệm thức xử lý ozon 3 ngày/lần thấp hơn đáng kể 
(p<0,05) với các nghiệm thức còn lại. Tỷ lệ sống của ấu trùng thấp khi trứng 
được xử lý ozon với tần suất thưa hơn rõ ràng là do tỷ lệ nhiễm nấm và ký 
sinh trùng trên trứng ở nghiệm thức này cao, đặc biệt là tỷ lệ trứng nhiễm 
đồng thời nấm và ký sinh trùng (Bảng 4.5). Nấm và ký sinh trùng đã hấp thu 
chất dinh dưỡng bên trong trứng, gây tổn thương trứng dẫn đến ấu trùng mới 
nở suy yếu và dễ chết khi bị tác động (Leano, 2002; Lavilla-Pitogo and de la 
pena, 2004). Tuy nhiên, theo thang đánh giá thì ấu trùng trong thí nghiệm đều 
có chất lượng từ trung bình đến tốt. Mặc dù, tỷ lệ ấu trùng dị hình sau khi xử 
lý ozon 1 ngày/lần trong thí nghiệm này cao nhất 2,10% và khác biệt có ý 
nghĩa (p<0,05) với các nghiệm thức còn lại. Theo Feuillassier et al. (2012) thì 
các dị hình hình thái trên cơ thể ấu trùng giáp xác sẽ không gây ảnh hưởng lớn 
đến tỷ lệ sống, sinh trưởng và biến thái của ấu trùng. Chính vì vậy mà kết quả 
gây sốc ấu trùng với formol và độ mặn ở nghiệm thức ozon vẫn cho tỷ lệ sống 
 75 
khá tốt, đặc biệt là sốc độ mặn trong 120 phút (82,5%). Do đó, cần xem xét lựa 
chọn xử lý ozon với 1 ngày/lần trong xử lý trứng cua biển. 
4.3. Ảnh hưởng của ozon lên giai đoạn ấu trùng cua biển 
4.3.1. Nồng độ ozon thích hợp cho từng giai đoạn ấu trùng cua biển 
4.3.1.1. Giai đoạn Zoea1 
Tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển ở giai đoạn Zoea1 sau 1 giờ xử lý với 
ozon thấp hơn (p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng. Tuy nhiên, sau 24 giờ 
xử lý với ozon thì tỷ lệ sống có sự khác biệt rõ rệt giữa các nghiệm thức, ở 
nghiệm thức đối chứng và nghiệm thức xử lý ozon 0,05 mg/L cho tỷ lệ sống 
cao nhất và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với các nghiệm thức còn lại. Tương 
tự, chỉ số biến thái của ấu trùng ở giai đoạn này cũng cao nhất ở nghiệm thức 
xử lý ozon 0,05 mg/L khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với các nghiệm thức còn 
lại (Bảng 4.8). 
Bảng 4.8: Tỷ lệ sống và biến thái của ấu trùng cua biển ở giai đoạn Zoea1 ở 
các nồng độ ozon khác nhau 
Nghiệm thức Tỷ lệ sống sau 
1 giờ (%) 
Tỷ lệ sống sau 24 
giờ (%) 
Chỉ số biến thái 
sau 24 giờ 
Đối chứng 100±0,0a 84,4±5,09d 1,92±0,01b 
Xử lý ozon 0,05 mg/L 96,7±3,33a 91,0±6,94d 1,95±0,01c 
Xử lý ozon 0,1 mg/L 93,3±3,33a 66,7±6,67c 1,93±0,00b 
Xử lý ozon 0,15 mg/L 92,2±6,94a 41,1±1,92b 1,93±0,01b 
Xử lý ozon 0,2 mg/L 94,4±3,85a 25,6±3,85a 1,87±0,01a 
Các giá trị trên cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) 
4.3.1.2 Giai đoạn Zoea2 
Kết quả Bảng 4.9 cho thấy, sau 1 giờ thí nghiệm thì ozon không ảnh 
hưởng lớn đến tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển ở giai đoạn Zoea2 (p>0,05). 
Sau 24 giờ thí nghiệm, tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển có xu hướng giảm dần 
theo nồng độ ozon mà ấu trùng tiếp xúc. Nghiệm thức xử lý ấu trùng với ozon 
0,05 mg/L cho tỷ lệ sống cao nhất là 86,7 %, khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với 
các nghiệm thức xử lý ấu trùng với ozon ở nồng độ cao hơn 0,05 mg/L. Kết 
quả theo dõi chỉ số biến thái của ấu trùng cua biển giai đoạn Zoea2, trung bình 
của các nghiệm thức khác biệt có ý nghĩa (p<0,05). Kết quả cũng cho thấy ấu 
trùng ở các nghiệm thức xử lý ozon chuyển giai đoạn nhanh và cao hơn 
nghiệm thức đối chứng. Tuy nhiên ấu trùng có xu hướng biến thái và phát 
triển chậm hơn khi được xử lý ozon với nồng độ cao hơn 0,15 mg/L. 
 76 
Bảng 4.9: Tỷ lệ sống và biến thái của ấu trùng cua biển ở giai đoạn Zoea2 ở 
các nồng độ ozon khác nhau 
Nghiệm thức Tỷ lệ sống sau 
1 giờ (%) 
Tỷ lệ sống sau 
24 giờ (%) 
Chỉ số biến thái 
sau 24 giờ 
Đối chứng 100±0,0a 77,8±10,1d 2,60±0,02a 
Xử lý ozon 0,05 mg/L 95,6±5,09a 86,7±5,77d 2,93±0,01c 
Xử lý ozon 0,1 mg/L 96,7±3,33a 65,6±1,92c 2,94±0,01c 
Xử lý ozon 0,15 mg/L 94,4±6,94a 54,4±1,92b 2,81±0,03b 
Xử lý ozon 0,2 mg/L 93,3±8,82a 43,3±3,33a 2,61±0,06a 
Các giá trị trên cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) 
4.3.1.3 Giai đoạn Zoea3 
Kết quả tỷ lệ sống ở giai đoạn Zoea3 (Bảng 4.10) tương tự như ở giai 
đoạn Zoea2. Tỷ lệ sống của ấu trùng sau 1 giờ thí nghiệm ở các nghiệm thức 
xử lý ozon thấp hơn so với nghiệm thức đối chứng (p>0,05). Kết quả sau 24 
giờ thí nghiệm, tỷ lệ sống có xu hướng giảm dần khi ấu trùng được xử lý ozon 
với nồng độ ngày càng tăng (p<0,05). Tuy nhiên, tỷ lệ sống của ấu trùng ở giai 
đoạn này của các nghiệm thức xử lý ozon đã được cải thiện hơn so với giai 
đoạn Zoea1 và Zoea2. Điều này cho thấy, ấu trùng càng lớn càng ít bị ảnh 
hưởng bỡi ozon. Ấu trùng có tỷ lệ sống cao nhất (90,0%) khi ấu trùng được xử 
lý bằng ozon có nồng độ 0,05 mg/L nhưng khác biệt không có ý nghĩa 
(p>0,05) với nghiệm thức đối chứng (89%) và nghiệm thức xử lý ozon 0,1 
mg/L (83,3%). 
Bảng 4.10: Tỷ lệ sống và biến thái của ấu trùng cua biển ở giai đoạn Zoea3 ở 
các nồng độ ozon khác nhau 
Nghiệm thức Tỷ lệ sống sau 
1 giờ (%) 
Tỷ lệ sống sau 
24 giờ (%) 
Chỉ số biến thái 
sau 24 giờ 
Đối chứng 100±0,0a 89,0±3,85c 3,42±0,05b 
Xử lý ozon 0,05 mg/L 96,7±0,0a 90,0±6,67c 3,93±0,02d 
Xử lý ozon 0,1 mg/L 95,6±5,09a 83,3±5,77c 3,83±0,03d 
Xử lý ozon 0,15 mg/L 94,4±6,94a 62,2±1,92b 3,57±0,09c 
Xử lý ozon 0,2 mg/L 94,4±1,92a 50,0±3,33a 3,28±0,11a 
Các giá trị trên cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) 
Kết quả theo dõi quá trình biến thái của ấu trùng cũng cho kết quả 
tương tự như vậy, ấu trùng phát triển tốt hơn khi xử lý ozon ở nồng độ dưới 
0,1 mg/L. Tuy nhiên khi nồng độ vượt quá 0,1 mg/L thì ấu trùng có xu hướng 
biến thái chậm lại, đặc biệt là ở nghiệm thức xử lý ấu trùng với nồng độ ozon 
0,2 mg/L (3,28) (p<0,05). 
4.3.1.4. Giai đoạn Zoea4 
 77 
Sau 1 giờ ấu trùng tiếp xúc với ozon, nồng độ ozon không làm ảnh 
hưởng đến sự sống của ấu trùng, tỷ lệ sống trung bình của các nghiệm thức 
khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) (Bảng 4.11). Sau 24 giờ tiếp xúc, tỷ lệ 
sống có xu hướng giảm dần ở các nghiệm thức có

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_su_dung_ozon_trong_san_xuat_giong_cua_bie.pdf
  • pdfTomtatluanan_NguyenVietBac_Eg.pdf
  • pdfTomtatluanan_NguyenVietBac_Vn.pdf
  • docxTrang thong tin luan an_NguyenVietBac_Eg.docx
  • docxTrang thong tin luan an_NguyenVietBac_Vn.docx