Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang

bón ở đợt 2 cao hơn so với đợt 1 và đợt 3 (Bảng 3.6) là do sau khi bón phân đã xuất hiện mƣa. Trong vụ Hè Thu, nồng độ nitrate trong nƣớc ruộng dao động từ 0,229- 1,121 mg/L (Hình 4.7) đều thích hợp cho sự phát triển của tảo, ngoại trừ vào 2 NSB của đợt 1 và đợt 2 đều vƣợt 1 mg/L nhƣng nó không gây độc cho tảo vì tảo có thể chịu đƣợc nồng độ lên tới 100 mM (Jeanfils et al., 1993 trích dẫn bởi Markou et al. 2014). Khi xem xét trong cùng một đợt bón phân, nồng độ nitrate trong nƣớc ruộng có xu hƣớng giảm dần theo các ngày sau khi bón, nghĩa là nồng độ nitrate ở 2 NSB lớn nhất, sau đó giảm dần ở 4 NSB và 6 NSB là vì có sự hấp thụ của cây lúa, cỏ dại và tảo (Đặng Kim Chi, 2001, Kim et al., 2016), quá trình phản nitrate hóa chuyển nitrate thành phân tử N2 bay vào không khí (Nguyễn Xuân Thành và ctv., 2009). Nồng độ ammonium trong nƣớc ruộng a a a a a a a a a a a a 0 0.1 0.2 0.3 0.4 0.5 0.6 0.7 0.8 0.9 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 TĐ ĐX HT N ồ n g ộ n it r te t ro n g n ƣ ớ c ru ộ n g (m g /L ) 109 thông thƣờng cao hơn so với nồng độ nitrate là vì nông hộ đã bón phân urea, DAP và NPK. Sự hiện diện của các ngành tảo chiếm ƣu thế tùy thuộc vào dạng N trong môi trƣờng. Vì theo Boyd and Tucker (1992), sự phát triển của tảo khuê tƣơng quan thuận với nồng độ nitrate nhƣng tƣơng quan nghịch với nồng độ ammonium. Khi nồng độ nitrate cao thì tảo khuê phát triển mạnh. Ngƣợc lại, khi thủy vực có nồng độ ammonium cao thuận lợi cho VKL và tảo lục nhƣng lại ngăn cản sự phát triển tảo khuê. Đồng thời, theo Trần Thị Tình và ctv. (2015), mật độ TVPD trong hồ có tƣơng quan chặt với nồng độ ammonium, nitrate và nhiệt độ nƣớc. f. Nồng độ phosphate (mg/L) Trong vụ Thu Đông, nồng độ phosphate giữa các đợt bón phân biến động không cao. Nồng độ phosphate ở đợt 1, đợt 2, đợt 3 và đợt 4 tƣơng ứng với 0,098; 0,072; 0,094 và 0,097 mg/L (Hình 4.8), đều nằm trong mức thích hợp cho tảo phát triển từ 0,005-0,2 mg/L (Boyd and Tucker, 1992). Mặc dù, lƣợng phân lân bón ở đợt 3 cao hơn so với đợt 4, tƣơng ứng 1,50 kg và 1,07 kgP2O5/1.000 m 2 (Bảng 3.6) nhƣng nồng độ phosphate trong nƣớc lại thấp hơn là vì ngay khi bón phân đợt 3, mƣa lớn xuất hiện, phân bón có khả năng bị tràn ra khỏi ruộng. Kết quả này thấy rõ qua số liệu đo đạc mực nƣớc ruộng vào 2 NSB ở đợt 3 là 4,97 cm. Bên cạnh đó, nhu cầu P của cây lúa ở giai đoạn làm đòng (đợt 3) nhiều hơn so với khi lúa chín (đợt 4) nên cây lúa hấp thụ nhiều P để nuôi dƣỡng cây và tạo hạt dẫn đến lƣợng P còn lại trong nƣớc ruộng thấp, cụ thể nồng độ phosphate trong nƣớc ruộng vào thời điểm 6 NSB ở đợt 3 (0,03 mg/L) thấp hơn so với 6 NSB ở đợt 4 (0,039 mg/L). Hình 4.8: Nồng độ phosphate trong nƣớc ruộng lúa qua ba vụ canh tác a a a a a a a a a a a a 0.00 0.02 0.04 0.06 0.08 0.10 0.12 0.14 0.16 0.18 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 TĐ ĐX HT N ồ n g ộ p h o sp h te n ƣ ớ c ru ộ n g (m g /L ) 110 Trong vụ Đông Xuân, nồng độ phosphate dao động từ 0,038-0,366 mg/L (Hình 4.8), đều thích hợp cho tảo phát triển (Boyd and Tucker, 1992), ngoại trừ vào thời điểm 2 NSB ở đợt 3 (0,366 mg/L) vƣợt mức 0,2 mg/L nhƣng chƣa vƣợt ngƣỡng 18 mg/L nên chƣa gây ức sự phát triển của tảo (Vũ Ngọc Út và Dƣơng Thị Hoàng Oanh, 2013). Mặc dù, lƣợng phân lân bón ở đợt 2 (3,1 kgP2O5) cao hơn so với đợt 1 (2,44 kgP2O5) và đợt 3 (1,72 kgP2O5/1.000 m 2 ) (Bảng 3.6) nhƣng nồng độ phosphate trong nƣớc ở đợt 2 (TB 0,065 mg/L) lại thấp hơn so với đợt 1 (0,073 mg/L) và đợt 3 (0,160 mg/L) có khả năng là do ảnh hƣởng của mƣa, độ che rợp của tán lá lúa trên mặt ruộng, mật độ tảo đáy và việc phun xịt thuốc có chứa các hoạt chất có tính chất diệt tảo. Trong vụ Hè Thu, nồng độ phosphate dao động từ 0,03-0,25 mg/L (Hình 4.8), vào thời điểm 2 NSB ở đợt 2 đã vƣợt 0,2 mg/L nhƣng chƣa vƣợt 18 mg/L nên chƣa gây ức sự phát triển của tảo. Nồng độ phosphate ở đợt 2 cao nhất so với ba đợt còn lại là do nông dân đã bón đồng thời phân DAP và NPK ở đợt 2 (Bảng 3.6) dẫn đến nồng độ phosphate trong nƣớc ruộng cao, ngƣợc lại ở đợt 3 nông dân không bón phân lân nên nồng độ phosphate thấp nhất. g. Nồng độ oxy hòa tan (DO, mg/L) Vào vụ Thu Đông, nồng độ oxy hòa tan trong ruộng lúa có xu hƣớng giảm mạnh ở giai đoạn làm đòng (đợt 3) và lúa chín (đợt 4) (Hình 4.9), vì vào thời điểm này xuất hiện mƣa lớn (lƣu lƣợng TB vào tháng 9/2016 là 320 mm/tháng, Bảng 2.6), cùng với độ che rợp của tán lá lúa trên mặt ruộng tăng do cây lúa gia tăng số chồi và chiều cao tối đa nên lƣợng ánh sáng mặt trời truyền xuống ruộng thấp, quá trình quang hợp của tảo giảm. Thêm vào đó, quá trình phân hủy vật chất hữu cơ (lá lúa, rơm rạ) của vi sinh vật có khả năng xảy ra nên tiêu thụ nhiều oxy. Theo Dƣơng Trí Dũng (2009), khi chỉ số DO thấp nghĩa là nƣớc chứa nhiều vật chất hữu cơ, nhu cầu oxy hóa tăng nên tiêu thụ oxy vào nƣớc. Tuy nhiên, tảo và thực vật trong ruộng lúa quang hợp cung cấp oxy hòa tan trong nƣớc. Điều này có thể thấy rõ thông qua trị số DO nƣớc kênh vào vụ Thu Đông (Bảng 4.14). Nồng độ DO trong kênh ở đợt 1 (4,97 mg/L) bằng 0,52 lần so với trong ruộng lúa (9,52 mg/L) . Là vì tảo quang hợp phóng thích nhiều oxy khuếch tán vào trong ruộng lúa, trong khi đó, DO trong kênh ở các đợt 2, đợt 3 và đợt 4 có xu hƣớng cao hơn so với trong ruộng lúa chủ yếu là do ảnh hƣởng của thời tiết mƣa liên tục và kéo dài khoảng 1 tháng. Trời mƣa đã làm hạn chế quá trình quang hợp của tảo và pha loãng phân bón hay làm tràn ra khỏi ruộng nên lƣợng dinh dƣỡng tồn đọng trong ruộng thấp. Trong vụ Đông Xuân, nồng độ DO dao động từ 2,74-7,60 mg/L (Hình 4.9). Nồng độ DO trong ruộng cao hơn so với trong kênh vì theo kết quả thực 111 đo nồng độ DO trong nƣớc kênh dao động từ 2,89-3,72 mg/L (Bảng 4.14). Tƣơng tự nhƣ vụ Thu Đông, nồng độ DO ở vụ Đông Xuân có xu hƣớng giảm nhiều ở đợt 3 và đợt 4 vì ảnh hƣởng của độ che rợp của tán lá lúa trên mặt ruộng, quá trình phân hủy xác bã thực vật. So với vụ Thu Đông thì DO trong vụ Đông Xuân cao hơn nhiều. Hình 4.9: Nồng độ oxy hòa tan trong nƣớc ruộng lúa qua ba vụ canh tác Trong vụ Hè Thu, nồng độ DO dao động từ 1,46-10,1 mg/L (Hình 4.9). Nồng độ DO trong nƣớc ruộng ở đợt 1 (9,21 mg/L) cao hơn so với trong kênh 1,93 mg/L (Bảng 4.16) là do tảo quang hợp cung cấp oxy hòa tan cho ruộng lúa. Nồng độ DO trong nƣớc ruộng ở đợt 3 thấp hơn so với đợt 4, mặc dù lƣợng phân đạm và kali bón ở đợt 3 cao hơn so với đợt 4 nhƣng ở đợt 3 không bón phân lân (Bảng 3.6) mà P cần hơn N và nó là nhân tố giới hạn tảo (Round, 1975) nghĩa là khi môi trƣờng thiếu P thì tảo chậm phát triển. Qua ba vụ canh tác cho thấy nồng độ DO ở đợt 1 cao nhất và có xu hƣớng giảm dần ở ba đợt còn lại. Nồng độ DO ở đợt 1 cao nhất là do cƣờng độ chiếu sáng mạnh, độ che rợp của tán lá lúa trên mặt ruộng còn thƣa thớt nên đã thúc đẩy quá trình quang hợp của tảo, phóng thích nhiều oxy vào nƣớc. 4.2.1.3 So sánh chất lượng nước ruộng lúa giữa ba vụ khảo sát và đánh giá ảnh hưởng đến môi trường đất a. So sánh chất lượng nước ruộng lúa giữa ba vụ khảo sát Qua ba vụ khảo sát cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về các đặc tính lý, hóa học nƣớc ruộng giữa các vụ, với p < 0,01 (Bảng 4.18 và Bảng 4.19). Nhiệt độ nƣớc ở vụ Hè Thu cao khác biệt có ý nghĩa hơn so với vụ Thu Đông a b c c a b c c a b c bc 0 2 4 6 8 10 12 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 TĐ ĐX HT N ồ n g ộ D O n ƣ ớ c ru ộ n g (m g /L ) 112 và Đông Xuân (p < 0,05). Nhiệt độ nƣớc ở vụ Hè Thu vƣợt mức thích hợp cho tảo phát triển (15-30oC) nhƣng chƣa vƣợt ngƣỡng 35oC nên chƣa gây chết tảo mà chỉ gây ức chế dẫn đến tảo không thể sinh sản. Bảng 4.18: Thống kê so sánh nhiệt độ và trị số pH nƣớc ruộng giữa ba vụ canh tác lúa Vụ lúa Số mẫu to nƣớc (oC) pH nƣớc Thu Đông 36 29,5±2,29b 6,62±0,449a Đông Xuân 36 27,5±1,91c 6,80±0,453a Hè Thu 36 31,3±1,82 a 6,23±0,516 b Giá trị F 32,2** 13,8** Ghi chú: Trong cùng một cột các chữ số theo sau khác nhau thì khác biệt ở mức ý nghĩa, **: khác biệt ở mức ý nghĩa 0,01 theo kiểm định DUNCAN Trị số pH nƣớc trong ruộng giữa ba vụ canh tác lúa cũng khác biệt có ý nghĩa (p < 0,01). Trị số pH nƣớc ở vụ Đông Xuân và Thu Đông cao khác biệt hơn so với vụ Hè Thu nhƣng khoảng chênh lệch này không nhiều (TB từ 0,39- 0,58 đơn vị) là do ảnh hƣởng của nồng độ carbonic trong ruộng lúa. Theo Boyd (2014), sự thay đổi nồng độ carbonic ảnh hƣởng đến pH dẫn đến độ pH tăng khi carbonic giảm. Nồng độ ammonium trong nƣớc ruộng vụ Đông Xuân và Hè Thu cao khác biệt có ý nghĩa so với vụ Thu Đông (p < 0,05) (Bảng 4.19). Nồng độ ammonium trong nƣớc ruộng tăng là vì nông dân đã bón phân đạm urea và DAP, trong đó urea đƣợc chuyển hóa thành ammonium (phản ứng 2.10) và DAP cũng thủy phân thành ammonium. Theo tính toán Bảng 3.6, lƣợng phân đạm bón cho lúa ở vụ Đông Xuân và Hè Thu cao hơn hẳn so với Thu Đông tƣơng ứng với 34,9 kg/ha và 10,9 kgN/ha. Bảng 4.19: Thống kê so sánh nồng độ ammonium, nitrate, phosphate và oxy hòa tan (mg/L) trong nƣớc ruộng giữa ba vụ canh tác lúa Vụ lúa Số mẫu Ammonium Nitrate Phosphate Oxy hòa tan Thu Đông 36 0,484±0,539b 0,482±0,457a 0,089±0,076 4,47±3,20 Đông Xuân 36 0,881±0,877a 0,284±0,184b 0,097±0,117 5,30±2,61 Hè Thu 36 0,976±0,713 a 0,643±0,532 a 0,105±0,074 4,61±3,81 Giá trị F 4,49* 6,62** 0,3ns 0,67ns Ghi chú: Trong cùng một cột các chữ số theo sau khác nhau thì khác biệt ở mức ý nghĩa, *: khác biệt ở mức ý nghĩa 0,05, **: khác biệt ở mức ý nghĩa 0,01, ns: không khác biệt có ý nghĩa theo kiểm định DUNCAN Thế nhƣng nồng độ nitrate ở vụ Hè Thu và Thu Đông lại cao khác biệt so với vụ Đông Xuân (p < 0,01) bởi vì giữa ammonium và nitrate có mối quan hệ với nhau thông qua quá trình nitrate hóa, ngoài ra ở ruộng lúa còn xảy ra quá 113 trình phản nitrate làm thất thoát nitrate dƣới dạng N2 bay vào khí quyển. Do vậy khó có thể lý giải chính xác nguyên nhân gây nên sự khác biệt giữa các vụ lúa nhƣng sự hiện diện của chúng là nguồn hỗ trợ dinh dƣỡng cho tảo phát triển. Chẳng hạn nồng độ nitrate trong nƣớc cao thì thích hợp cho tảo khuê phát triển, còn ammonium cao thì tảo lục phát triển mạnh hơn. Mặc dù, có sự khác biệt có ý nghĩa về nhiệt độ nƣớc, trị số pH, nồng độ ammonium và nitrate trong nƣớc ruộng giữa ba vụ lúa nhƣng không có sự khác biệt có ý nghĩa về nồng độ phosphate và oxy hòa tan trong nƣớc ruộng (p > 0,05) (Bảng 4.19). Nồng độ oxy hòa tan trong nƣớc ruộng giữa ba vụ khảo sát không khác biệt có ý nghĩa (p > 0,05) bởi vì nồng độ oxy hòa tan trong các thủy vực thay đổi theo mùa, thời tiết, ngày đêm và độ sâu. Độ hòa tan của oxy trong nƣớc giảm khi nhiệt độ nƣớc tăng (Boyd and Tucker, 1992) dẫn đến có sự bù trù về lƣợng oxy hòa tan. Đồng thời, nồng độ phosphate giữa ba vụ canh tác lúa không khác biệt có ý nghĩa là do lƣợng phân lân bón cho cây lúa giữa ba vụ không chênh lệch nhau nhiều (Bảng 3.6). b. Đánh giá ảnh hưởng của nước ruộng đến môi trường đất Khi so sánh chất lƣợng nƣớc ruộng với QCVN 08-MT:2015/BTNMT, áp dụng theo cột B1 cho thấy trị số pH (5,72-7,56) và nồng độ nitrate (0,057-1,40 mg/L) trong nƣớc ruộng lúa đều chƣa vƣợt ngƣỡng cho phép của quy chuẩn nên đƣợc đánh giá đạt quy chuẩn. Do vậy, nó chƣa ảnh hƣởng đến đặc tính pH đất, thế nhƣng việc bón nhiều phân đạm hóa học nhƣ NH4NO3 hay (NH4)2SO4 lâu ngày dẫn đến tình trạng là đất bị chua. Vì theo nghiên cứu của Đại học Tổng hợp Hà Nội, việc bón phân NH4NO3 cho cây trồng trên nền đất phù sa sông Hồng sau 4 năm bón phân pH đất xuống từ 6,9 xuống 5,4. Hay khi bón (NH4)2SO4 ở đất không chua, sau một thời gian ion NH4 + bị hấp phụ vào keo đất và đẩy ion Ca2+ ra khỏi keo đất, làm đất bị mất ion Ca2+, lâu ngày làm cho đất chua dần (Lê Văn Khoa và ctv., 2010). Ngoài ra, khi bón phân đạm vô cơ đơn độc liên tục đã ảnh hƣởng đến sự chua hóa ở tầng canh tác, một số vùng sử dụng phân đạm nhiều thì nồng độ NO3 - trong nƣớc cao gây ô nhiễm nguồn nƣớc mặt hay giếng khoan, nồng độ nitrate ở 13,8% giếng khơi ở vùng đồng bằng đạt 7 mg/L (Trần Văn Chính và ctv., 2006). Tuy nhiên, nồng độ ammonium, phosphate và oxy hòa tan trong nƣớc ruộng ở một vài thời điểm vƣợt giới hạn cho phép của quy chuẩn. Nồng độ oxy hòa tan thấp hơn 4 mg/L cho thấy lƣợng chất hữu cơ trong nƣớc rất cao, nếu xả thải trực tiếp ra các kênh, mƣơng nội đồng ít trao đổi nƣớc thƣờng xuyên với hệ thống sông thì nitrogen và phosphorus là hai hành phần gây nên hiện tƣợng phú dƣỡng nguồn nƣớc ở trong đê bao khép kín. 114 4.2.2 ánh giá dạng loài, mật ộ và sinh khối vi tảo phù du trong kênh qu b vụ khảo sát 4.2.2.1 Thành phần loài vi tảo phù du trong kênh qua ba vụ khảo sát Bảng 4.20, Bảng 4.21 và Bảng 4.22 trình bày kết quả định tính thành phần loài tảo phù du trong kênh từ tháng 8 năm 2016 đến tháng 7 năm 2017. Bảng 4.20: Cấu trúc thành phần loài vi tảo phù du trong kênh vào vụ Thu Đông 2016 Ngành tảo Bộ Họ Giống Loài Tổng Đ1 Đ2 Đ3 Đ4 % Bacillariophyta (tảo khuê) 2 4 4 13 10 5 7 3 32,5 Chlorophyta (tảo lục) 3 3 5 7 4 2 2 1 17,5 Euglenophyta (tảo mắt) 1 1 4 15 5 5 9 10 37,5 Cyanobacteria (VKL) 2 3 4 6 2 2 2 2 12,5 Tổng 8 11 17 40 20 14 19 15 100 Ghi chú: Đ1: đợt 1 (tháng 8/2016), Đ2: đợt 2 (tháng 9), Đ3: đợt 3 (tháng 9), Đ4: đợt 4 (tháng 10/2016) Bảng 4.21: Cấu trúc thành phần loài vi tảo phù du trong kênh vào vụ Đông Xuân 2016-2017 Ngành tảo Bộ Họ Giống Loài Tổng Đ1 Đ2 Đ3 Đ4 % Bacillariophyta (tảo khuê) 5 8 11 25 11 6 10 14 28,7 Chlorophyta (tảo lục) 5 11 16 23 8 9 5 13 26,4 Euglenophyta (tảo mắt) 1 1 5 34 9 13 10 9 39,1 Cyanobacteria (VKL) 3 4 4 5 4 4 2 4 5,7 Tổng 14 24 36 87 32 32 27 40 100 Ghi chú: Đ1: đợt 1 (tháng 12/2016), Đ2: đợt 2 (tháng 01/2017), Đ3: đợt 3 (tháng 01), Đ4: đợt 4 (tháng 2/2017) Bảng 4.22: Cấu trúc thành phần loài vi tảo phù du trong kênh vào vụ Hè Thu 2017 Ngành tảo Bộ Họ Giống Loài Tổng Đ1 Đ2 Đ3 Đ4 % Bacillariophyta (tảo khuê) 4 7 13 25 11 6 9 4 26,9 Chlorophyta (tảo lục) 6 15 27 36 8 12 16 14 38,7 Euglenophyta (tảo mắt) 1 1 5 20 4 6 11 5 21,5 Cyanobacteria (VKL) 2 5 6 12 3 5 3 7 12,9 Tổng 13 28 51 93 26 29 39 30 100 Ghi chú: Đ1: đợt 1 (tháng 5/2017, Đ2: đợt 2 (tháng 5), Đ3: đợt 3 (tháng 6), Đ4: đợt 4 (tháng 7/2017) 115 Vào vụ Thu Đông, trong kênh xuất hiện 40 loài tảo thuộc 17 giống, 11 họ, 8 bộ và bốn ngành nhƣ tảo khuê, tảo mắt, tảo lục và VKL (Bảng 4.20), vào vụ Đông Xuân xuất hiện 87 loài (Bảng 4.21) và vụ Hè Thu xuất hiện 93 loài (Bảng 4.22). Tổng hợp kết quả định tính (Bảng 4.20, Bảng 4.21 và Bảng 4.22) cho thấy trong kênh có sự hiện diện của 186 loài vi tảo thuộc 65 giống, 34 họ, 15 bộ và 4 ngành tảo, trong đó ngành tảo mắt có số lƣợng loài cao nhất (59 loài), sau là tảo khuê, tảo lục và VKL (Bảng 4.23). Bảng 4.23: Cấu trúc thành phần loài vi tảo phù du trong kênh qua ba vụ khảo sát Thành phần loài Bộ Họ Giống Loài Tổng TĐ ĐX HT % Bacillariophyta (tảo khuê) 5 9 18 52 10 25 25 28,0 Chlorophyta (tảo lục) 6 18 34 57 7 23 36 30,6 Euglenophyta (tảo mắt) 1 1 5 59 16 34 20 31,7 Cyanobacteria (VKL) 3 6 8 18 5 6 12 9,7 Tổng 15 34 65 186 38 88 93 100 Thành phần loài tảo phù du biến động tƣơng đối lớn giữa các vụ khảo sát, số loài tảo xuất hiện nhiều nhất ở vụ Hè Thu (93 loài) nhƣng ít nhất ở vụ Thu Đông (40 loài). Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt này là vì các yếu tố môi trƣờng sống giữa các vụ lúa khác nhau về nhiệt độ, lƣợng mƣa, cƣờng độ chiếu sáng, độ đục của nƣớc, dinh dƣỡng và lƣu lƣợng nƣớc. Theo Roger and Reynaud (1977), VKL thƣờng nhạy cảm với cƣờng độ ánh sáng cao, ngƣợc lại theo Vũ Ngọc Út và Dƣơng Thị Hoàng Oanh (2013) tảo khuê thì cần ít ánh sáng; theo Roger and Reynaud (1979), tảo lục phát triển nhanh ở điều kiện ánh sáng mạnh; theo Munn et al., (1989), nhiệt độ là nhân tố quan trọng ảnh hƣởng đến sự phát triển của sinh khối tảo bởi vì nó điều chỉnh tốc độ chuyển hóa tế bào, tăng trƣởng và năng suất; theo Roger and Kulasoorya (1980) nhiệt độ thấp làm giảm năng suất của nhóm tảo nhân thật (tảo lục, tảo khuê, tảo mắt...), trong khi đó ở nhiệt độ cao thì năng suất VKL tăng lên; và theo Boyd and Tucker (1992), sự phát triển của tảo khuê tƣơng quan thuận với nồng độ nitrate nhƣng tƣơng quan nghịch với nồng độ ammonium, trong khi đó tảo lục và VKL đa phần thích hấp thụ ammonium hơn nitrate. Ngành tảo mắt có số lƣợng loài cao nhất (59 loài, chiếm 31,7% tổng số loài) so với ba ngành tảo còn lại là vì kênh đã bị ô nhiễm phosphate nồng độ vƣợt 0,1 mg/L và DO dƣới 4 mg/L (Bảng 4.14). Sự xuất hiện của nhiều giống tảo mắt trong kênh cho thấy nƣớc kênh đã có dấu hiệu bị ô nhiễm chất hữu cơ, 116 gồm các giống nhƣ: Trachelomonas (22 loài), Euglena (17 loài), Phacus (11 loài), Strombomonas (6 loài) và Lepocinclis (3 loài) (Phụ lục Bảng 9). Giống Euglena thƣờng xuất hiện và phát triển mạnh trong các thủy vực có các hợp chất hữu cơ đang bị phân hủy (Đào Thanh Sơn và Nguyễn Thanh Tùng, 2013; Vũ Ngọc Út và Dƣơng Thị Hoàng Oanh, 2013); giống Trachelomonas phân bố ở thủy vực nông, đặc biệt ở môi trƣờng có nồng độ oxy hòa tan thấp; giống Phacus sống trôi nổi ở các thủy vực tĩnh (John et al., 2002); và giống Lepocinclis chỉ xuất hiện cuối tháng 6 và tháng 7 (Heckman, 1979) với số lƣợng loài ít hơn với các giống Trachelomonas và Phacus (Đào Thanh Sơn và Nguyễn Thanh Tùng, 2013). Số lƣợng loài tảo mắt xuất hiện trong vụ Hè Thu thấp hơn so với hai vụ Thu Đông và Đông Xuân (Bảng 4.23), nguyên nhân là do vụ Hè Thu trùng với thời điểm đầu mùa lũ, nƣớc lũ đã góp phần pha loãng nồng độ các chất trong kênh. Điều này phù hợp vì theo kết quả phân tích nồng độ ammonium và nitrate TB vụ này (lần lƣợt là 0,140 và 0,126 mg/L) thấp hơn so với vụ Đông Xuân (lần lƣợt là 0,363 và 0,179 mg/L) (Bảng 4.16). Ngành tảo lục có số lƣợng loài đứng thứ hai (57 loài) sau tảo mắt bởi kênh là loại hình thủy vực nƣớc chảy, chƣa phải là môi trƣờng thuận lợi giúp tảo lục phát triển vì theo Dƣơng Đức Tiến và Võ Hành (1997), tảo lục phân bố chủ yếu ở các thủy vực nƣớc tĩnh (đọng) hoặc chảy yếu (nhƣ ruộng lúa). Các giống tảo lục xuất hiện ở kênh thuộc các dạng đơn bào, tập đoàn và dạng sợi. Dạng đơn bào gồm các giống Closterium, Chlamydomonas, Chlorococcum, Closteriopsis, Cosmarium, Carteria và Haematococcus; dạng tập đoàn gồm Volvox, Pleodorina, Sphaerellopsis và Pediastrum; và đa bào dạng sợi gồm Klebsormidium, Sphaeroplea và Mougeotia. Với các hình dạng khác nhau nhƣ hình cong lƣỡi liềm (Closterium), có các gai (Scenedesmus), dạng sợi (Mougeotiopsis), hình thang (Crucigenia)... (Phụ lục Bảng 9 và Phụ lục Hình 8). Trong vụ Hè Thu, ngành tảo lục có số lƣợng loài cao nhất (36 loài) so với hai vụ trƣớc mặc dù nồng độ nitrate trong kênh ở vụ này thấp hơn so với vụ Đông Xuân nhƣng nhiệt độ nƣớc vụ Đông Xuân lại thấp hơn so với vụ này (Bảng 4.16). Bởi vì nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hƣởng đến sự phát triển của tảo lục hơn so với nồng độ nitrate. Bởi vì nhiệt độ môi trƣờng là yếu tố ảnh hƣởng quan trọng đến sự phát triển của tảo lục hơn (Võ Hành và Mai Văn Sơn, 2010 và Lê Thị Thúy Hà và Bùi Thị Quỳnh Trang, 2017). Ngành tảo khuê có số loài đứng thứ ba (52 loài) sau ngành tảo mắt và tảo lục vì tảo khuê thích hợp với thủy vực nƣớc chảy nhƣng do kênh ít đƣợc trao đổi thƣờng xuyên với hệ thống sông Tiền mà chỉ trao đổi thƣờng xuyên với hệ thống rạch Ông Chƣởng. Vì theo Nguyễn Bá (1997), tảo khuê thích hợp phát 117 triển ở các thủy vực nƣớc chảy. Số loài tảo khuê chiếm 28%, chủ yếu thuộc lớp tảo trung tâm gồm 4 giống nhƣ: Melosira (10 loài), Cyclotella (4 loài), Coscinodiscus (4 loài) và Stephanopyxis (1 loài) và 14 giống thuộc lớp tảo lông chim nhƣ:
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_su_dung_phu_sa_va_vi_tao_de_cai_thien_moi.pdf
Quyen tom tat tieng Viet_Bui Thi Mai Phung.pdf
Quyen_tomtat_English_Bui Thi Mai Phung.pdf