Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang

Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 292 trang nguyenduy 12/08/2025 110
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang

Luận án Nghiên cứu sử dụng phù sa và vi tảo để cải thiện môi trường đất lúa thâm canh vùng đê bao khép kín tỉnh An Giang
bón ở đợt 2 cao hơn so với đợt 1 và đợt 3 (Bảng 3.6) là do 
sau khi bón phân đã xuất hiện mƣa. 
Trong vụ Hè Thu, nồng độ nitrate trong nƣớc ruộng dao động từ 0,229-
1,121 mg/L (Hình 4.7) đều thích hợp cho sự phát triển của tảo, ngoại trừ vào 2 
NSB của đợt 1 và đợt 2 đều vƣợt 1 mg/L nhƣng nó không gây độc cho tảo vì 
tảo có thể chịu đƣợc nồng độ lên tới 100 mM (Jeanfils et al., 1993 trích dẫn 
bởi Markou et al. 2014). 
Khi xem xét trong cùng một đợt bón phân, nồng độ nitrate trong nƣớc 
ruộng có xu hƣớng giảm dần theo các ngày sau khi bón, nghĩa là nồng độ 
nitrate ở 2 NSB lớn nhất, sau đó giảm dần ở 4 NSB và 6 NSB là vì có sự hấp 
thụ của cây lúa, cỏ dại và tảo (Đặng Kim Chi, 2001, Kim et al., 2016), quá 
trình phản nitrate hóa chuyển nitrate thành phân tử N2 bay vào không khí 
(Nguyễn Xuân Thành và ctv., 2009). Nồng độ ammonium trong nƣớc ruộng 
a a 
a 
a 
a 
a 
a 
a 
a 
a 
a 
a 
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 
TĐ ĐX HT
N
ồ
n
g
ộ
 n
it
r 
te
 t
ro
n
g
 n
ƣ
ớ
c 
ru
ộ
n
g
(m
g
/L
) 
109 
thông thƣờng cao hơn so với nồng độ nitrate là vì nông hộ đã bón phân urea, 
DAP và NPK. Sự hiện diện của các ngành tảo chiếm ƣu thế tùy thuộc vào 
dạng N trong môi trƣờng. Vì theo Boyd and Tucker (1992), sự phát triển của 
tảo khuê tƣơng quan thuận với nồng độ nitrate nhƣng tƣơng quan nghịch với 
nồng độ ammonium. Khi nồng độ nitrate cao thì tảo khuê phát triển mạnh. 
Ngƣợc lại, khi thủy vực có nồng độ ammonium cao thuận lợi cho VKL và tảo 
lục nhƣng lại ngăn cản sự phát triển tảo khuê. Đồng thời, theo Trần Thị Tình 
và ctv. (2015), mật độ TVPD trong hồ có tƣơng quan chặt với nồng độ 
ammonium, nitrate và nhiệt độ nƣớc. 
f. Nồng độ phosphate (mg/L) 
Trong vụ Thu Đông, nồng độ phosphate giữa các đợt bón phân biến động 
không cao. Nồng độ phosphate ở đợt 1, đợt 2, đợt 3 và đợt 4 tƣơng ứng với 
0,098; 0,072; 0,094 và 0,097 mg/L (Hình 4.8), đều nằm trong mức thích hợp 
cho tảo phát triển từ 0,005-0,2 mg/L (Boyd and Tucker, 1992). Mặc dù, lƣợng 
phân lân bón ở đợt 3 cao hơn so với đợt 4, tƣơng ứng 1,50 kg và 1,07 
kgP2O5/1.000 m
2
 (Bảng 3.6) nhƣng nồng độ phosphate trong nƣớc lại thấp hơn 
là vì ngay khi bón phân đợt 3, mƣa lớn xuất hiện, phân bón có khả năng bị tràn 
ra khỏi ruộng. Kết quả này thấy rõ qua số liệu đo đạc mực nƣớc ruộng vào 2 
NSB ở đợt 3 là 4,97 cm. Bên cạnh đó, nhu cầu P của cây lúa ở giai đoạn làm 
đòng (đợt 3) nhiều hơn so với khi lúa chín (đợt 4) nên cây lúa hấp thụ nhiều P 
để nuôi dƣỡng cây và tạo hạt dẫn đến lƣợng P còn lại trong nƣớc ruộng thấp, 
cụ thể nồng độ phosphate trong nƣớc ruộng vào thời điểm 6 NSB ở đợt 3 (0,03 
mg/L) thấp hơn so với 6 NSB ở đợt 4 (0,039 mg/L). 
Hình 4.8: Nồng độ phosphate trong nƣớc ruộng lúa qua ba vụ canh tác 
a 
a 
a a 
a 
a 
a 
a 
a 
a 
a 
a 
0.00
0.02
0.04
0.06
0.08
0.10
0.12
0.14
0.16
0.18
Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 
TĐ ĐX HT
N
ồ
n
g
ộ
 p
h
o
sp
h
te
 n
ƣ
ớ
c 
ru
ộ
n
g
(m
g
/L
) 
110 
Trong vụ Đông Xuân, nồng độ phosphate dao động từ 0,038-0,366 mg/L 
(Hình 4.8), đều thích hợp cho tảo phát triển (Boyd and Tucker, 1992), ngoại 
trừ vào thời điểm 2 NSB ở đợt 3 (0,366 mg/L) vƣợt mức 0,2 mg/L nhƣng chƣa 
vƣợt ngƣỡng 18 mg/L nên chƣa gây ức sự phát triển của tảo (Vũ Ngọc Út và 
Dƣơng Thị Hoàng Oanh, 2013). Mặc dù, lƣợng phân lân bón ở đợt 2 (3,1 
kgP2O5) cao hơn so với đợt 1 (2,44 kgP2O5) và đợt 3 (1,72 kgP2O5/1.000 m
2
) 
(Bảng 3.6) nhƣng nồng độ phosphate trong nƣớc ở đợt 2 (TB 0,065 mg/L) lại 
thấp hơn so với đợt 1 (0,073 mg/L) và đợt 3 (0,160 mg/L) có khả năng là do 
ảnh hƣởng của mƣa, độ che rợp của tán lá lúa trên mặt ruộng, mật độ tảo đáy 
và việc phun xịt thuốc có chứa các hoạt chất có tính chất diệt tảo. 
Trong vụ Hè Thu, nồng độ phosphate dao động từ 0,03-0,25 mg/L (Hình 
4.8), vào thời điểm 2 NSB ở đợt 2 đã vƣợt 0,2 mg/L nhƣng chƣa vƣợt 18 mg/L 
nên chƣa gây ức sự phát triển của tảo. Nồng độ phosphate ở đợt 2 cao nhất so 
với ba đợt còn lại là do nông dân đã bón đồng thời phân DAP và NPK ở đợt 2 
(Bảng 3.6) dẫn đến nồng độ phosphate trong nƣớc ruộng cao, ngƣợc lại ở đợt 
3 nông dân không bón phân lân nên nồng độ phosphate thấp nhất. 
g. Nồng độ oxy hòa tan (DO, mg/L) 
Vào vụ Thu Đông, nồng độ oxy hòa tan trong ruộng lúa có xu hƣớng 
giảm mạnh ở giai đoạn làm đòng (đợt 3) và lúa chín (đợt 4) (Hình 4.9), vì vào 
thời điểm này xuất hiện mƣa lớn (lƣu lƣợng TB vào tháng 9/2016 là 320 
mm/tháng, Bảng 2.6), cùng với độ che rợp của tán lá lúa trên mặt ruộng tăng 
do cây lúa gia tăng số chồi và chiều cao tối đa nên lƣợng ánh sáng mặt trời 
truyền xuống ruộng thấp, quá trình quang hợp của tảo giảm. Thêm vào đó, quá 
trình phân hủy vật chất hữu cơ (lá lúa, rơm rạ) của vi sinh vật có khả năng 
xảy ra nên tiêu thụ nhiều oxy. Theo Dƣơng Trí Dũng (2009), khi chỉ số DO 
thấp nghĩa là nƣớc chứa nhiều vật chất hữu cơ, nhu cầu oxy hóa tăng nên tiêu 
thụ oxy vào nƣớc. Tuy nhiên, tảo và thực vật trong ruộng lúa quang hợp cung 
cấp oxy hòa tan trong nƣớc. Điều này có thể thấy rõ thông qua trị số DO nƣớc 
kênh vào vụ Thu Đông (Bảng 4.14). Nồng độ DO trong kênh ở đợt 1 (4,97 
mg/L) bằng 0,52 lần so với trong ruộng lúa (9,52 mg/L) . Là vì tảo quang hợp 
phóng thích nhiều oxy khuếch tán vào trong ruộng lúa, trong khi đó, DO trong 
kênh ở các đợt 2, đợt 3 và đợt 4 có xu hƣớng cao hơn so với trong ruộng lúa 
chủ yếu là do ảnh hƣởng của thời tiết mƣa liên tục và kéo dài khoảng 1 tháng. 
Trời mƣa đã làm hạn chế quá trình quang hợp của tảo và pha loãng phân bón 
hay làm tràn ra khỏi ruộng nên lƣợng dinh dƣỡng tồn đọng trong ruộng thấp. 
Trong vụ Đông Xuân, nồng độ DO dao động từ 2,74-7,60 mg/L (Hình 
4.9). Nồng độ DO trong ruộng cao hơn so với trong kênh vì theo kết quả thực 
111 
đo nồng độ DO trong nƣớc kênh dao động từ 2,89-3,72 mg/L (Bảng 4.14). 
Tƣơng tự nhƣ vụ Thu Đông, nồng độ DO ở vụ Đông Xuân có xu hƣớng giảm 
nhiều ở đợt 3 và đợt 4 vì ảnh hƣởng của độ che rợp của tán lá lúa trên mặt 
ruộng, quá trình phân hủy xác bã thực vật. So với vụ Thu Đông thì DO trong 
vụ Đông Xuân cao hơn nhiều. 
Hình 4.9: Nồng độ oxy hòa tan trong nƣớc ruộng lúa qua ba vụ canh tác 
Trong vụ Hè Thu, nồng độ DO dao động từ 1,46-10,1 mg/L (Hình 4.9). 
Nồng độ DO trong nƣớc ruộng ở đợt 1 (9,21 mg/L) cao hơn so với trong kênh 
1,93 mg/L (Bảng 4.16) là do tảo quang hợp cung cấp oxy hòa tan cho ruộng 
lúa. Nồng độ DO trong nƣớc ruộng ở đợt 3 thấp hơn so với đợt 4, mặc dù 
lƣợng phân đạm và kali bón ở đợt 3 cao hơn so với đợt 4 nhƣng ở đợt 3 không 
bón phân lân (Bảng 3.6) mà P cần hơn N và nó là nhân tố giới hạn tảo (Round, 
1975) nghĩa là khi môi trƣờng thiếu P thì tảo chậm phát triển. 
Qua ba vụ canh tác cho thấy nồng độ DO ở đợt 1 cao nhất và có xu 
hƣớng giảm dần ở ba đợt còn lại. Nồng độ DO ở đợt 1 cao nhất là do cƣờng độ 
chiếu sáng mạnh, độ che rợp của tán lá lúa trên mặt ruộng còn thƣa thớt nên đã 
thúc đẩy quá trình quang hợp của tảo, phóng thích nhiều oxy vào nƣớc. 
4.2.1.3 So sánh chất lượng nước ruộng lúa giữa ba vụ khảo sát và đánh giá 
ảnh hưởng đến môi trường đất 
a. So sánh chất lượng nước ruộng lúa giữa ba vụ khảo sát 
Qua ba vụ khảo sát cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về các đặc tính 
lý, hóa học nƣớc ruộng giữa các vụ, với p < 0,01 (Bảng 4.18 và Bảng 4.19). 
Nhiệt độ nƣớc ở vụ Hè Thu cao khác biệt có ý nghĩa hơn so với vụ Thu Đông 
a 
b 
c 
c 
a 
b 
c c 
a 
b 
c 
bc 
0
2
4
6
8
10
12
Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 
TĐ ĐX HT
N
ồ
n
g
ộ
 D
O
 n
ƣ
ớ
c 
ru
ộ
n
g
(m
g
/L
) 
112 
và Đông Xuân (p < 0,05). Nhiệt độ nƣớc ở vụ Hè Thu vƣợt mức thích hợp cho 
tảo phát triển (15-30oC) nhƣng chƣa vƣợt ngƣỡng 35oC nên chƣa gây chết tảo 
mà chỉ gây ức chế dẫn đến tảo không thể sinh sản. 
Bảng 4.18: Thống kê so sánh nhiệt độ và trị số pH nƣớc ruộng giữa ba vụ canh 
tác lúa 
Vụ lúa Số mẫu to nƣớc (oC) pH nƣớc 
Thu Đông 36 29,5±2,29b 6,62±0,449a 
Đông Xuân 36 27,5±1,91c 6,80±0,453a 
Hè Thu 36 31,3±1,82
a 
6,23±0,516
b 
Giá trị F 32,2** 13,8** 
Ghi chú: Trong cùng một cột các chữ số theo sau khác nhau thì khác biệt ở mức ý nghĩa, **: khác biệt 
ở mức ý nghĩa 0,01 theo kiểm định DUNCAN 
Trị số pH nƣớc trong ruộng giữa ba vụ canh tác lúa cũng khác biệt có ý 
nghĩa (p < 0,01). Trị số pH nƣớc ở vụ Đông Xuân và Thu Đông cao khác biệt 
hơn so với vụ Hè Thu nhƣng khoảng chênh lệch này không nhiều (TB từ 0,39-
0,58 đơn vị) là do ảnh hƣởng của nồng độ carbonic trong ruộng lúa. Theo 
Boyd (2014), sự thay đổi nồng độ carbonic ảnh hƣởng đến pH dẫn đến độ pH 
tăng khi carbonic giảm. 
Nồng độ ammonium trong nƣớc ruộng vụ Đông Xuân và Hè Thu cao 
khác biệt có ý nghĩa so với vụ Thu Đông (p < 0,05) (Bảng 4.19). Nồng độ 
ammonium trong nƣớc ruộng tăng là vì nông dân đã bón phân đạm urea và 
DAP, trong đó urea đƣợc chuyển hóa thành ammonium (phản ứng 2.10) và 
DAP cũng thủy phân thành ammonium. Theo tính toán Bảng 3.6, lƣợng phân 
đạm bón cho lúa ở vụ Đông Xuân và Hè Thu cao hơn hẳn so với Thu Đông 
tƣơng ứng với 34,9 kg/ha và 10,9 kgN/ha. 
Bảng 4.19: Thống kê so sánh nồng độ ammonium, nitrate, phosphate và oxy 
hòa tan (mg/L) trong nƣớc ruộng giữa ba vụ canh tác lúa 
Vụ lúa Số mẫu Ammonium Nitrate Phosphate Oxy hòa tan 
Thu Đông 36 0,484±0,539b 0,482±0,457a 0,089±0,076 4,47±3,20 
Đông Xuân 36 0,881±0,877a 0,284±0,184b 0,097±0,117 5,30±2,61 
Hè Thu 36 0,976±0,713
a
 0,643±0,532
a
 0,105±0,074 4,61±3,81 
Giá trị F 4,49* 6,62** 0,3ns 0,67ns 
Ghi chú: Trong cùng một cột các chữ số theo sau khác nhau thì khác biệt ở mức ý nghĩa, *: khác biệt 
ở mức ý nghĩa 0,05, **: khác biệt ở mức ý nghĩa 0,01, ns: không khác biệt có ý nghĩa theo kiểm định 
DUNCAN 
Thế nhƣng nồng độ nitrate ở vụ Hè Thu và Thu Đông lại cao khác biệt so 
với vụ Đông Xuân (p < 0,01) bởi vì giữa ammonium và nitrate có mối quan hệ 
với nhau thông qua quá trình nitrate hóa, ngoài ra ở ruộng lúa còn xảy ra quá 
113 
trình phản nitrate làm thất thoát nitrate dƣới dạng N2 bay vào khí quyển. Do 
vậy khó có thể lý giải chính xác nguyên nhân gây nên sự khác biệt giữa các vụ 
lúa nhƣng sự hiện diện của chúng là nguồn hỗ trợ dinh dƣỡng cho tảo phát 
triển. Chẳng hạn nồng độ nitrate trong nƣớc cao thì thích hợp cho tảo khuê 
phát triển, còn ammonium cao thì tảo lục phát triển mạnh hơn. 
Mặc dù, có sự khác biệt có ý nghĩa về nhiệt độ nƣớc, trị số pH, nồng độ 
ammonium và nitrate trong nƣớc ruộng giữa ba vụ lúa nhƣng không có sự 
khác biệt có ý nghĩa về nồng độ phosphate và oxy hòa tan trong nƣớc ruộng (p 
> 0,05) (Bảng 4.19). Nồng độ oxy hòa tan trong nƣớc ruộng giữa ba vụ khảo 
sát không khác biệt có ý nghĩa (p > 0,05) bởi vì nồng độ oxy hòa tan trong các 
thủy vực thay đổi theo mùa, thời tiết, ngày đêm và độ sâu. Độ hòa tan của oxy 
trong nƣớc giảm khi nhiệt độ nƣớc tăng (Boyd and Tucker, 1992) dẫn đến có 
sự bù trù về lƣợng oxy hòa tan. Đồng thời, nồng độ phosphate giữa ba vụ canh 
tác lúa không khác biệt có ý nghĩa là do lƣợng phân lân bón cho cây lúa giữa 
ba vụ không chênh lệch nhau nhiều (Bảng 3.6). 
b. Đánh giá ảnh hưởng của nước ruộng đến môi trường đất 
Khi so sánh chất lƣợng nƣớc ruộng với QCVN 08-MT:2015/BTNMT, áp 
dụng theo cột B1 cho thấy trị số pH (5,72-7,56) và nồng độ nitrate (0,057-1,40 
mg/L) trong nƣớc ruộng lúa đều chƣa vƣợt ngƣỡng cho phép của quy chuẩn 
nên đƣợc đánh giá đạt quy chuẩn. Do vậy, nó chƣa ảnh hƣởng đến đặc tính pH 
đất, thế nhƣng việc bón nhiều phân đạm hóa học nhƣ NH4NO3 hay (NH4)2SO4 
lâu ngày dẫn đến tình trạng là đất bị chua. Vì theo nghiên cứu của Đại học 
Tổng hợp Hà Nội, việc bón phân NH4NO3 cho cây trồng trên nền đất phù sa 
sông Hồng sau 4 năm bón phân pH đất xuống từ 6,9 xuống 5,4. Hay khi bón 
(NH4)2SO4 ở đất không chua, sau một thời gian ion NH4
+
 bị hấp phụ vào keo 
đất và đẩy ion Ca2+ ra khỏi keo đất, làm đất bị mất ion Ca2+, lâu ngày làm cho 
đất chua dần (Lê Văn Khoa và ctv., 2010). Ngoài ra, khi bón phân đạm vô cơ 
đơn độc liên tục đã ảnh hƣởng đến sự chua hóa ở tầng canh tác, một số vùng 
sử dụng phân đạm nhiều thì nồng độ NO3
-
 trong nƣớc cao gây ô nhiễm nguồn 
nƣớc mặt hay giếng khoan, nồng độ nitrate ở 13,8% giếng khơi ở vùng đồng 
bằng đạt 7 mg/L (Trần Văn Chính và ctv., 2006). 
Tuy nhiên, nồng độ ammonium, phosphate và oxy hòa tan trong nƣớc 
ruộng ở một vài thời điểm vƣợt giới hạn cho phép của quy chuẩn. Nồng độ 
oxy hòa tan thấp hơn 4 mg/L cho thấy lƣợng chất hữu cơ trong nƣớc rất cao, 
nếu xả thải trực tiếp ra các kênh, mƣơng nội đồng ít trao đổi nƣớc thƣờng 
xuyên với hệ thống sông thì nitrogen và phosphorus là hai hành phần gây nên 
hiện tƣợng phú dƣỡng nguồn nƣớc ở trong đê bao khép kín. 
114 
4.2.2 ánh giá dạng loài, mật ộ và sinh khối vi tảo phù du trong 
kênh qu b vụ khảo sát 
4.2.2.1 Thành phần loài vi tảo phù du trong kênh qua ba vụ khảo sát 
Bảng 4.20, Bảng 4.21 và Bảng 4.22 trình bày kết quả định tính thành 
phần loài tảo phù du trong kênh từ tháng 8 năm 2016 đến tháng 7 năm 2017. 
Bảng 4.20: Cấu trúc thành phần loài vi tảo phù du trong kênh vào vụ Thu 
Đông 2016 
Ngành tảo Bộ Họ Giống Loài 
Tổng Đ1 Đ2 Đ3 Đ4 % 
Bacillariophyta (tảo khuê) 2 4 4 13 10 5 7 3 32,5 
Chlorophyta (tảo lục) 3 3 5 7 4 2 2 1 17,5 
Euglenophyta (tảo mắt) 1 1 4 15 5 5 9 10 37,5 
Cyanobacteria (VKL) 2 3 4 6 2 2 2 2 12,5 
Tổng 8 11 17 40 20 14 19 15 100 
Ghi chú: Đ1: đợt 1 (tháng 8/2016), Đ2: đợt 2 (tháng 9), Đ3: đợt 3 (tháng 9), Đ4: đợt 4 (tháng 
10/2016) 
Bảng 4.21: Cấu trúc thành phần loài vi tảo phù du trong kênh vào vụ Đông 
Xuân 2016-2017 
Ngành tảo Bộ Họ Giống Loài 
Tổng Đ1 Đ2 Đ3 Đ4 % 
Bacillariophyta (tảo khuê) 5 8 11 25 11 6 10 14 28,7 
Chlorophyta (tảo lục) 5 11 16 23 8 9 5 13 26,4 
Euglenophyta (tảo mắt) 1 1 5 34 9 13 10 9 39,1 
Cyanobacteria (VKL) 3 4 4 5 4 4 2 4 5,7 
Tổng 14 24 36 87 32 32 27 40 100 
Ghi chú: Đ1: đợt 1 (tháng 12/2016), Đ2: đợt 2 (tháng 01/2017), Đ3: đợt 3 (tháng 01), Đ4: đợt 4 
(tháng 2/2017) 
Bảng 4.22: Cấu trúc thành phần loài vi tảo phù du trong kênh vào vụ Hè Thu 
2017 
Ngành tảo Bộ Họ Giống Loài 
Tổng Đ1 Đ2 Đ3 Đ4 % 
Bacillariophyta (tảo khuê) 4 7 13 25 11 6 9 4 26,9 
Chlorophyta (tảo lục) 6 15 27 36 8 12 16 14 38,7 
Euglenophyta (tảo mắt) 1 1 5 20 4 6 11 5 21,5 
Cyanobacteria (VKL) 2 5 6 12 3 5 3 7 12,9 
Tổng 13 28 51 93 26 29 39 30 100 
Ghi chú: Đ1: đợt 1 (tháng 5/2017, Đ2: đợt 2 (tháng 5), Đ3: đợt 3 (tháng 6), Đ4: đợt 4 (tháng 7/2017) 
115 
Vào vụ Thu Đông, trong kênh xuất hiện 40 loài tảo thuộc 17 giống, 11 
họ, 8 bộ và bốn ngành nhƣ tảo khuê, tảo mắt, tảo lục và VKL (Bảng 4.20), vào 
vụ Đông Xuân xuất hiện 87 loài (Bảng 4.21) và vụ Hè Thu xuất hiện 93 loài 
(Bảng 4.22). 
Tổng hợp kết quả định tính (Bảng 4.20, Bảng 4.21 và Bảng 4.22) cho 
thấy trong kênh có sự hiện diện của 186 loài vi tảo thuộc 65 giống, 34 họ, 15 
bộ và 4 ngành tảo, trong đó ngành tảo mắt có số lƣợng loài cao nhất (59 loài), 
sau là tảo khuê, tảo lục và VKL (Bảng 4.23). 
Bảng 4.23: Cấu trúc thành phần loài vi tảo phù du trong kênh qua ba vụ khảo 
sát 
Thành phần loài Bộ Họ Giống Loài 
Tổng TĐ ĐX HT % 
Bacillariophyta (tảo khuê) 5 9 18 52 10 25 25 28,0 
Chlorophyta (tảo lục) 6 18 34 57 7 23 36 30,6 
Euglenophyta (tảo mắt) 1 1 5 59 16 34 20 31,7 
Cyanobacteria (VKL) 3 6 8 18 5 6 12 9,7 
Tổng 15 34 65 186 38 88 93 100 
Thành phần loài tảo phù du biến động tƣơng đối lớn giữa các vụ khảo 
sát, số loài tảo xuất hiện nhiều nhất ở vụ Hè Thu (93 loài) nhƣng ít nhất ở vụ 
Thu Đông (40 loài). Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt này là vì các yếu tố 
môi trƣờng sống giữa các vụ lúa khác nhau về nhiệt độ, lƣợng mƣa, cƣờng độ 
chiếu sáng, độ đục của nƣớc, dinh dƣỡng và lƣu lƣợng nƣớc. Theo Roger and 
Reynaud (1977), VKL thƣờng nhạy cảm với cƣờng độ ánh sáng cao, ngƣợc lại 
theo Vũ Ngọc Út và Dƣơng Thị Hoàng Oanh (2013) tảo khuê thì cần ít ánh 
sáng; theo Roger and Reynaud (1979), tảo lục phát triển nhanh ở điều kiện ánh 
sáng mạnh; theo Munn et al., (1989), nhiệt độ là nhân tố quan trọng ảnh 
hƣởng đến sự phát triển của sinh khối tảo bởi vì nó điều chỉnh tốc độ chuyển 
hóa tế bào, tăng trƣởng và năng suất; theo Roger and Kulasoorya (1980) nhiệt 
độ thấp làm giảm năng suất của nhóm tảo nhân thật (tảo lục, tảo khuê, tảo 
mắt...), trong khi đó ở nhiệt độ cao thì năng suất VKL tăng lên; và theo Boyd 
and Tucker (1992), sự phát triển của tảo khuê tƣơng quan thuận với nồng độ 
nitrate nhƣng tƣơng quan nghịch với nồng độ ammonium, trong khi đó tảo lục 
và VKL đa phần thích hấp thụ ammonium hơn nitrate. 
Ngành tảo mắt có số lƣợng loài cao nhất (59 loài, chiếm 31,7% tổng số 
loài) so với ba ngành tảo còn lại là vì kênh đã bị ô nhiễm phosphate nồng độ 
vƣợt 0,1 mg/L và DO dƣới 4 mg/L (Bảng 4.14). Sự xuất hiện của nhiều giống 
tảo mắt trong kênh cho thấy nƣớc kênh đã có dấu hiệu bị ô nhiễm chất hữu cơ, 
116 
gồm các giống nhƣ: Trachelomonas (22 loài), Euglena (17 loài), Phacus (11 
loài), Strombomonas (6 loài) và Lepocinclis (3 loài) (Phụ lục Bảng 9). Giống 
Euglena thƣờng xuất hiện và phát triển mạnh trong các thủy vực có các hợp 
chất hữu cơ đang bị phân hủy (Đào Thanh Sơn và Nguyễn Thanh Tùng, 2013; 
Vũ Ngọc Út và Dƣơng Thị Hoàng Oanh, 2013); giống Trachelomonas phân 
bố ở thủy vực nông, đặc biệt ở môi trƣờng có nồng độ oxy hòa tan thấp; giống 
Phacus sống trôi nổi ở các thủy vực tĩnh (John et al., 2002); và giống 
Lepocinclis chỉ xuất hiện cuối tháng 6 và tháng 7 (Heckman, 1979) với số 
lƣợng loài ít hơn với các giống Trachelomonas và Phacus (Đào Thanh Sơn và 
Nguyễn Thanh Tùng, 2013). 
Số lƣợng loài tảo mắt xuất hiện trong vụ Hè Thu thấp hơn so với hai vụ 
Thu Đông và Đông Xuân (Bảng 4.23), nguyên nhân là do vụ Hè Thu trùng với 
thời điểm đầu mùa lũ, nƣớc lũ đã góp phần pha loãng nồng độ các chất trong 
kênh. Điều này phù hợp vì theo kết quả phân tích nồng độ ammonium và 
nitrate TB vụ này (lần lƣợt là 0,140 và 0,126 mg/L) thấp hơn so với vụ Đông 
Xuân (lần lƣợt là 0,363 và 0,179 mg/L) (Bảng 4.16). 
Ngành tảo lục có số lƣợng loài đứng thứ hai (57 loài) sau tảo mắt bởi 
kênh là loại hình thủy vực nƣớc chảy, chƣa phải là môi trƣờng thuận lợi giúp 
tảo lục phát triển vì theo Dƣơng Đức Tiến và Võ Hành (1997), tảo lục phân bố 
chủ yếu ở các thủy vực nƣớc tĩnh (đọng) hoặc chảy yếu (nhƣ ruộng lúa). Các 
giống tảo lục xuất hiện ở kênh thuộc các dạng đơn bào, tập đoàn và dạng sợi. 
Dạng đơn bào gồm các giống Closterium, Chlamydomonas, Chlorococcum, 
Closteriopsis, Cosmarium, Carteria và Haematococcus; dạng tập đoàn gồm 
Volvox, Pleodorina, Sphaerellopsis và Pediastrum; và đa bào dạng sợi gồm 
Klebsormidium, Sphaeroplea và Mougeotia. Với các hình dạng khác nhau nhƣ 
hình cong lƣỡi liềm (Closterium), có các gai (Scenedesmus), dạng sợi 
(Mougeotiopsis), hình thang (Crucigenia)... (Phụ lục Bảng 9 và Phụ lục Hình 
8). Trong vụ Hè Thu, ngành tảo lục có số lƣợng loài cao nhất (36 loài) so với 
hai vụ trƣớc mặc dù nồng độ nitrate trong kênh ở vụ này thấp hơn so với vụ 
Đông Xuân nhƣng nhiệt độ nƣớc vụ Đông Xuân lại thấp hơn so với vụ này 
(Bảng 4.16). Bởi vì nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hƣởng đến sự phát triển 
của tảo lục hơn so với nồng độ nitrate. Bởi vì nhiệt độ môi trƣờng là yếu tố 
ảnh hƣởng quan trọng đến sự phát triển của tảo lục hơn (Võ Hành và Mai Văn 
Sơn, 2010 và Lê Thị Thúy Hà và Bùi Thị Quỳnh Trang, 2017). 
Ngành tảo khuê có số loài đứng thứ ba (52 loài) sau ngành tảo mắt và tảo 
lục vì tảo khuê thích hợp với thủy vực nƣớc chảy nhƣng do kênh ít đƣợc trao 
đổi thƣờng xuyên với hệ thống sông Tiền mà chỉ trao đổi thƣờng xuyên với hệ 
thống rạch Ông Chƣởng. Vì theo Nguyễn Bá (1997), tảo khuê thích hợp phát 
117 
triển ở các thủy vực nƣớc chảy. Số loài tảo khuê chiếm 28%, chủ yếu thuộc 
lớp tảo trung tâm gồm 4 giống nhƣ: Melosira (10 loài), Cyclotella (4 loài), 
Coscinodiscus (4 loài) và Stephanopyxis (1 loài) và 14 giống thuộc lớp tảo 
lông chim nhƣ: 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_su_dung_phu_sa_va_vi_tao_de_cai_thien_moi.pdf
  • pdfQuyen tom tat tieng Viet_Bui Thi Mai Phung.pdf
  • pdfQuyen_tomtat_English_Bui Thi Mai Phung.pdf