Luận án Nghiên cứu sự hấp thu canxi của chôm chôm Rongrien trong hạn chế hiện tượng nứt trái

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu sự hấp thu canxi của chôm chôm Rongrien trong hạn chế hiện tượng nứt trái", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu sự hấp thu canxi của chôm chôm Rongrien trong hạn chế hiện tượng nứt trái

biện pháp bổ sung canxi để tăng khả năng hấp thu canxi ở vỏ trái của chôm chôm Rongrien. 4.3 Ảnh hưởng của kali và tưới nước đến hàm lượng canxi của vỏ trái và sự nứt trái 4.3.1 Ảnh hưởng của kali bón vào đất 4.3.1.1 Hàm lượng canxi trong vỏ trái Lượng K2O bón vào đất có ảnh hưởng đến hàm lượng Ca và Ca-pectate tích lũy ở vỏ trái chôm chôm Rongrien, có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức ở mức ý nghĩa 1% (Hình 4.13 và 4.14). Bón bổ sung 0,24 kg K2O/cây không làm giảm hàm lượng Ca và Ca-pectate vỏ trái, nhưng bón 0,48 và 0,96 kg K2O/cây làm giảm hàm lượng Ca ở vỏ trái so với đối chứng 1,11 và 1,18 lần theo thứ tự; hàm lượng Ca-pectate ở vỏ trái cũng giảm 1,33 và 1,43 lần. Hàm lượng Ca ở nghiệm thức đối chứng là cao nhất (286 mg/100g), kế 57 đến là bón 0,24 kg K2O/cây (278 mg/100g), thấp nhất là bón 0,48 và 0,96 kg K2O/cây (258 và 242 mg/100g). Hình 4.13 Hàm lượng canxi trong vỏ trái khi thu hoạch ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi khi có bón bổ sung kali tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 Hình 4.14 Hàm lượng Ca-pectate ở vỏ trái khi thu hoạch của chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi khi có bón bổ sung kali tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 58 Như vậy, bón kali với liều lượng cao đã ảnh hưởng đến sự hấp thu Ca của trái. Theo Yermiyahu et al. (1994), ion K+ cũng được biết đến như là ion cạnh tranh với Ca2+ tại vị trí liên kết của màng tế bào. Korb et al. (2005) cho rằng bón nhiều K có thể làm giảm sự hấp thu Ca2+ và khi đó có bón phân canxi cũng không có tác dụng hạn chế sự thiếu Ca2+. Theo Ng và Thamboo (1967) nhu cầu dinh dưỡng của chôm chôm về N và K tương đương nhau, kế đến là Ca và Mg. Chôm chôm Java 10 năm tuổi bón 1,28 kg K2O/cây/năm (Nguyễn Ngọc Long và Nguyễn Hữu Hoàng, 2011). Diczbalis (2002) cũng cho rằng lượng K bón cho chôm chôm 10 năm tuổi ở miền Bắc nước Úc là 1,037 kg K/cây/năm. 4.3.1.2 Hàm lượng kali trong vỏ trái Hàm lượng K trong vỏ trái chôm chôm Rongrien tăng cùng với lượng kali bón, không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa nghiệm thức đối chứng và bổ sung 0,24 kg K2O/cây nhưng có khác biệt ý nghĩa thống kê so với hai nghiệm thức còn lại ở mức 1% (Hình 4.15). Bổ sung 0,48 và 0,96 kg K2O/cây làm tăng hàm lượng K ở vỏ trái so với đối chứng 1,25 và 1,30 lần. Nghiệm thức đối chứng có hàm lượng K là 1.087 mg/100g, kế đến là bón 0,24 kg K2O/cây 1.101 mg/100g, bón bổ sung 0,48 và 0,96 kg K2O/cây lần lượt là 1.357 và 1.409 mg/100g. Hình 4.15 Hàm lượng kali trong vỏ trái khi thu hoạch ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi khi có bón bổ sung kali tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 59 4.3.1.3 Tỷ lệ rò rỉ ion ở vỏ trái Tỷ lệ rò rỉ ion ở vỏ trái tăng khi lượng kali bón tăng, không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa đối chứng và bổ sung 0,24 kg K2O/cây nhưng có khác biệt ý nghĩa thống kê so với hai nghiệm thức còn lại ở mức 1%. Nghiệm thức đối chứng có tỷ lệ rò rỉ ion thấp hơn so với bón 0,48 và 0,96 kg K2O/cây 1,25 và 1,28 lần (Hình 4.16). Nghiệm thức đối chứng có tỷ lệ rò rỉ ion là 12,3%, kế đến là bổ sung 0,24 kg K2O/cây là 11,4%, bón 0,48 và 0,96 kg K2O/cây lần lượt là 15,4 và 15,8%. Hàm lượng K ở vỏ trái tăng cao khi bón nhiều kali, mặc dù K+ có khả năng thay thế Ca2+ ở bề mặt màng tế bào nhưng K+ không có vai trò cấu trúc và chức năng trong màng tế bào như Ca2+, vì thế dẫn đến màng tế bào vẫn bị rò rỉ và tăng tính nhạy cảm của mô trái đối với rối loạn do thiếu Ca2+ (Yermiyahu et al., 1994). Như vậy, lượng K2O bón có ảnh hưởng đến tỷ lệ rò rỉ ion ở vỏ trái chủ yếu do ảnh hưởng đến hàm lượng Ca- pectate; tỷ lệ rò rỉ ion giảm do canxi giúp duy trì ổn định và toàn vẹn vách tế bào (Mortazavi et al., 2007). Thành phần vách tế bào bao gồm cellulose, pectin, hemicellulose và lignin, (Dickison, 2000). Trong đó, pectin được xem là lớp chung và có vai trò quan trọng trong sự liên kết giữa các tế bào (Proctor và Preng, 1989). Hình 4.16 Tỷ lệ rò rỉ ion ở vỏ trái khi thu hoạch ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi khi có bón bổ sung kali tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 60 4.3.1.4 Mối quan hệ giữa hàm lượng K và Ca ở trong vỏ trái với lượng K2O bổ sung vào đất Lượng K2O sử dụng càng cao thì hàm lượng K ở vỏ trái càng tăng, có sự tương quan thuận ở mức ý nghĩa 1% (r = 0,83**; Hình 4.17). Lượng K2O sử dụng càng cao thì lượng Ca2+ tích lũy ở vỏ trái càng thấp, điều này cho thấy kali có ảnh hưởng đến sự hấp thu canxi. Hàm lượng Ca ở vỏ trái có sự tương quan nghịch với lượng K2O bón vào đất ở mức ý nghĩa 1% (r = -0,83**; Hình 4.18), điều này có thể do sự đối kháng ion giữa K+ và Ca2+. Hàm lượng ion K+ cao là yếu tố giới hạn sự hấp thu Ca2+ trong đất của cây. Theo Yermiyahu et al. (1994), ion K+ được biết đến như là ion cạnh tranh với Ca2+ tại vị trí liên kết của màng tế bào. Korb et al. (2005) nhận định K+ trong đất cao có thể làm giảm sự hấp thu Ca2+. Đỗ Thị Thanh Ren (2004) hay Ngô Thị Đào và Vũ Hữu Yêm (2005) cũng cho rằng sự hấp thu Ca2+ trong đất bị giảm bởi sự hiện diện của NH4+, Mg2+ và K+ ở lượng cao. Hình 4.17 Tương quan giữa hàm lượng kali trong vỏ trái với lượng kali bón bổ sung vào đất ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 61 Hình 4.18 Tương quan giữa hàm lượng canxi trong vỏ trái với lượng kali bón bổ sung vào đất ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 4.3.1.5 Tỷ lệ nứt trái khi thu hoạch Tỷ lệ nứt trái tăng khi lượng kali bón vào đất tăng, có sự khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Tỷ lệ nứt trái giữa nghiệm thức đối chứng và bón 0,24 kg K2O/cây khác biệt không có ý nghĩa thống kê với nhau nhưng có sự khác biệt so với hai nghiệm thức còn lại (Hình 4.19). Nghiệm thức đối chứng có tỷ lệ nứt trái là 13,4%, kế đến là bổ sung 0,24 kg K2O/cây 15,2%, bón 0,48 và 0,96 kg K2O/cây lần lượt là 18,6 và 19,1%. Bón 0,48 và 0,96 kg K2O/cây có tỷ lệ nứt trái cao hơn đối chứng 1,38 và 1,42 lần theo thứ tự. Tỷ lệ nứt trái có sự tương quan thuận với lượng K2O bón vào đất ở mức ý nghĩa 1% (r = 0,53**; Hình 4.20). Kết quả Bảng 4.7 cho thấy tỷ lệ nứt trái có tương quan nghịch với hàm lượng Ca trong vỏ trái (r = -0,70**), nhưng lại tương quan thuận với hàm lượng K trong vỏ trái (r = 0,82**), tỷ lệ rò rỉ ion (r = 0,65**) và tỷ lệ K/Ca (r = 0,82**); hàm lượng Ca và K trong vỏ trái có tương quan nghịch với nhau (r = -0,82**). Lượng kali bón có ảnh hưởng đến tỷ lệ nứt trái chủ yếu do làm giảm sự hấp thu Ca và làm tăng tỷ lệ rò rỉ ion. Hàm lượng Ca thấp có liên quan đến hiện tượng nứt trái cà chua, vải, cũng được ghi nhận bởi Li et al. (2001), Astuti (2002), hay Huang et al. (2005). Kumar và Kumar (2007) cũng nhận thấy hiện tượng nứt trái có liên quan hàm lượng canxi thấp. Kết quả 62 nghiên cứu của Li và Huang (1995) và Li et al. (1999) ở cây vải hay Aydin và Kaptan (2015) trên cây sung cũng cho thấy có sự tương quan nghịch giữa hàm lượng Ca2+ ở vỏ trái với hiện tượng nứt trái. Khi nghiên cứu trên cây vải, Haq et al. (2013) cũng nhận thấy rằng những giống dễ bị nứt trái có tỷ lệ rò rỉ ion cao. Ngoài ra, các kết quả nghiên cứu năm 2015 và năm 2016 đều cho thấy tỷ lệ nứt trái có liên quan đến hàm lượng canxi thấp, tỷ lệ rò rỉ ion ở vỏ trái cao. Hình 4.19 Tỷ lệ nứt trái khi thu hoạch ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi khi có bón bổ sung kali tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 Hình 4.20 Tương quan giữa tỷ lệ nứt trái với lượng kali bón bổ sung vào đất ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 r = 0,79** Lượng K2O bón vào đất (kg/cây) 63 Bảng 4.7 Tương quan giữa tỷ lệ nứt trái, hàm lượng canxi và kali, tỷ lệ rò rỉ ion và tỷ lệ K/Ca ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 Tỷ lệ nứt trái HL Ca ở vỏ trái Tỷ lệ rò rỉ ion ở vỏ trái HL K ở vỏ trái Tỷ lệ K/Ca Tỷ lệ nứt trái 1 HL Ca ở vỏ trái -0,70** 1 Tỷ lệ rò rỉ ion ở vỏ trái 0,65** -0,64** 1 HL K ở vỏ trái 0,82** -0,82** 0,74** 1 Tỷ lệ K/Ca 0,82** -0,91** 0,72** 0,98** 1 **: tương quan ở mức ý nghĩa 1% HL: hàm lượng 4.3.1.6 Kích thước trái Lượng K2O bón bổ sung hầu như không ảnh hưởng đến kích thước trái, mặc dù có khuynh hướng làm giảm chiều rộng trái khi bón 0,48 và 0,96 kg K2O/cây vào đất. Độ dày vỏ trái cũng khác biệt không có ý nghĩa qua phân tích thống kê (Bảng 4.8). Bảng 4.8 Kích thước trái khi thu hoạch ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi khi có bón kali tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 Nghiệm thức Kích thước (mm) (kg K2O/cây) Chiều cao Chiều rộng Độ dày vỏ 0,12 (Đối chứng) 41,0 32,5a 1,94 0,24 40,4 32,9a 1,89 0,48 39,4 30,8 b 1,90 0,96 40,6 31,4ab 1,98 F ns * ns CV (%) 4,1 3,8 8,7 Các số trong cùng một cột có mẫu tự theo sau giống nhau không khác biệt thống kê qua phép thử LSD ns: không khác biệt ý nghĩa thống kê *: khác biệt ở mức ý nghĩa 5%. 4.3.1.7 Khối lượng trái Lượng kali bón bổ sung có ảnh hưởng đến khối lượng trái, không có sự khác biệt giữa nghiệm thức đối chứng và bón 0,98 kg K2O/cây nhưng có sự khác biệt thống kê so với 2 nghiệm thức còn lại ở mức ý nghĩa 1% (Hình 4.21); điều này có thể do sự tích lũy chất khô trong trái, kết quả Hình 4.22 và 64 4.23 cho thấy có sự khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 1% giữa các nghiệm thức về hàm lượng chất khô ở vỏ và thịt trái. Hình 4.21 Khối lượng trái khi thu hoạch ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi khi có bón kali tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 Hình 4.22 Hàm lượng chất khô ở vỏ trái ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi khi có bón kali tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 65 Hình 4.23 Hàm lượng chất khô ở thịt trái ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi khi có bón kali tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 4.3.1.8 Năng suất trái Kết quả Hình 4.24 cho thấy lượng K2O bón có ảnh hưởng đến năng suất tổng, không có sự khác biệt thống kê giữa nghiệm thức đối chứng, bón 0,24 và 0,48 kg K2O/cây với nhau, nhưng có sự khác biệt thống kê ở mức ý nghĩa 5% giữa bón 0,24 và 0,48 với 0,96 kg K2O/cây. Hình 4.24 Năng suất tổng khi thu hoạch ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 66 Kết quả Hình 4.25 cho thấy năng suất thương phẩm giữa các nghiệm thức bón từ 0,12 đến 0,48 kg K2O/cây khác biệt không có ý nghĩa qua phân tích thống kê với nhau; nhưng có sự khác biệt thống kê giữa các nghiệm thức này với bón 0,96 kg K2O/cây ở mức ý nghĩa 1%, bón 0,96 kg K2O/cây có năng suất thương phẩm thấp nhất (16,6 kg/cây), giảm 12,7% so với đối chứng. Có sự tương quan nghịch giữa năng suất thương phẩm và tỷ lệ nứt trái ở mức ý nghĩa 1% (r = -0,78**; Hình 4.26). Hình 4.25 Năng suất thương phẩm khi thu hoạch ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi khi có bón kali tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 Hình 4.26 Tương quan giữa tỷ lệ nứt trái với năng suất thương phẩm khi thu hoạch ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 67 4.3.1.9 Độ Brix thịt trái Độ Brix thịt trái giữa các nghiệm thức bón K2O với liều lượng khác nhau có sự khác biệt thống kê ở mức ý nghĩa 1%, độ Brix thịt trái tăng cùng với lượng kali bón vào đất (Hình 4.27). Điều này phù hợp với nhận định của Đường Hồng Dật (2003), kali giữ vai trò quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng và màu sắc của trái, khi cây được cung cấp đủ kali sẽ cho trái ngọt. Hình 4.27 Độ Brix thịt trái chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi khi có bón kali tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 Nhìn chung: hàm lượng K cao là yếu tố giới hạn sự hấp thu Ca trong đất của cây. Bón 0,48 và 0,96 kg K2O/cây làm giảm hàm lượng Ca ở vỏ trái 1,11 và 1,18 lần, hàm lượng Ca-pectate vỏ trái giảm 1,33 và 1,43 lần, tỷ lệ nứt trái cao hơn đối chứng 1,38 và 1,42 lần. Bón 0,96 kg K2O/cây làm giảm năng suất thương phẩm 12,7% so với đối chứng. 4.3.2 Tưới nước 4.3.2.1 Hàm lượng canxi trong đất và vỏ trái Hàm lượng Ca2+ trao đổi trong đất không bị ảnh hưởng bởi chế độ tưới nhưng hàm lượng Ca ở vỏ trái tăng khi khoảng cách giữa 2 lần tưới ngắn (Bảng 4.9); có sự khác biệt thống kê ở mức ý nghĩa 1% giữa tưới 2 ngày/lần với đối chứng cũng như với tưới 4 và 8 ngày/lần, nhưng không có sự khác biệt giữa đối chứng và tưới 4 hay 8 ngày/lần với nhau. Tưới 2 ngày/lần có hàm lượng Ca ở vỏ trái tăng gấp 1,95 lần; trong khi tưới 4 và 8 ngày/lần tăng gấp 68 1,07 và 1,06 lần (theo thứ tự) so với nghiệm thức đối chứng không tưới. Nghiệm thức đối chứng có hàm lượng Ca thấp nhất (285,5 mg/100g), kế đến là tưới 4 và 8 ngày/lần (311,0 và 306,6 mg/100g), tưới 2 ngày/lần có hàm lượng Ca ở vỏ trái cao nhất (556,8 mg/100g). Hàm lượng Ca trong vỏ trái có tương quan nghịch với chế độ tưới ở mức ý nghĩa 1% (r = -0,79**; Hình 4.28). Bảng 4.9 Hàm lượng canxi trao đổi trong đất, canxi ở vỏ trái khi thu hoạch qua các chế độ tưới khác nhau ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 Nghiệm thức Hàm lượng Ca2+ trao đổi trong đất (meq/100g) Hàm lượng Ca ở vỏ trái (mg/100g) Đối chứng 4,57 286b 2 ngày/lần 4,77 557a 4 ngày/lần 4,65 307b 8 ngày/lần 4,56 301b F ns ** CV (%) 9,2 11,7 Các số trong cùng một cột có mẫu tự theo sau giống nhau không khác biệt thống kê qua phép thử LSD ns: không khác biệt ý nghĩa thống kê **: khác biệt ở mức ý nghĩa 1%. Hình 4.28 Tương quan giữa hàm lượng canxi trong vỏ trái với khoảng cách tưới khi thu hoạch ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 Đối chứng 69 Tương tự như hàm lượng canxi ở vỏ trái, hàm lượng Ca-pectate ở vỏ trái cao nhất ở nghiệm thức 2 ngày tưới/lần, kế đến là nghiệm thức 4 ngày tưới/lần. Nghiệm thức đối chứng và nghiệm thức 8 ngày tưới/lần có hàm lượng Ca-pectate tương đương nhau (Hình 4.29). Hình 4.29 Hàm lượng Ca-pectate ở vỏ trái khi thu hoạch qua các chế độ tưới khác nhau của chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 Khoảng cách giữa 2 lần tưới ngắn dẫn đến lưu lượng nước có trong đất cao vì thế khả năng bốc thoát hơi nước cao nên sự chuyển vận canxi từ rễ đến chồi, lá, trái tăng hơn so với để tự nhiên không tưới. Bower (1985) cũng cho rằng sự hấp thu canxi vào trái bị ảnh hưởng bởi chế độ tưới. Canxi di chuyển trong đất hướng về phía rễ chủ yếu thông qua lưu lượng nước do sự hấp thu nước của rễ từ đất (Nguyễn Bảo Vệ và Nguyễn Huy Tài, 2010). Tần suất tưới cao dẫn đến hàm lượng canxi trong lá và trái cao (Bar-Tal và Aloni, 2005). Khi nghiên cứu thời gian tưới nước cho cây vải trong khoảng thời gian 3, 6 và 9 ngày/lần, Rab và Haq (2012) cũng nhận thấy khoảng cách giữa 2 lần tưới càng ngắn thì hàm lượng Ca ở vỏ trái càng cao, tỷ lệ nứt trái và tỷ lệ rò rỉ ion ở vỏ trái càng giảm. Lahav et al. (2013) nhận thấy cây táo được tưới -55k Pa và -80 kPa có hàm lượng canxi trong trái cao hơn so với -35 kPa. Với cùng khoảng cách tưới, lượng nước tưới tăng cũng dẫn đến hàm lượng Ca tăng và tỷ lệ nứt trái giảm (Alvarez-Herrera et al., 2012). 70 4.3.2.2 Tỷ lệ nứt trái khi thu hoạch Kết quả trình bày ở Hình 4.30 cho thấy tỷ lệ nứt trái bị ảnh hưởng bởi chế độ tưới, cùng lượng nước tưới nhưng khoảng cách giữa 2 lần tưới càng xa thì tỷ lệ nứt trái càng cao; có sự khác biệt thống kê giữa nghiệm thức tưới 2 ngày/lần với đối chứng cũng như với tưới 4 và 8 ngày/lần qua phân tích thống kê ở mức ý nghĩa 1%, không có sự khác biệt giữa đối chứng và tưới 4 hay 8 ngày/lần với nhau. Nghiệm thức đối chứng có tỷ lệ nứt trái là 13,4%, kế đến là tưới 4 và 8 ngày/lần lần lượt là 12,5 và 12,9%, nghiệm thức tưới 2 ngày/lần có tỷ lệ nứt trái thấp nhất (6,6%). Tưới 2 ngày/lần có tỷ lệ nứt trái thấp hơn so với đối chứng 2,03 lần, tưới 4 và 8 ngày/lần giảm tỷ lệ nứt trái 1,07 và 1,04 lần (theo thứ tự) so với nghiệm thức để tự nhiên. Có sự tương quan thuận giữa tỷ lệ nứt trái và tần suất tưới ở mức ý nghĩa 1% (r = -0,70**; Hình 4.31). Hình 4.30 Tỷ lệ nứt trái khi thu hoạch qua các chế độ tưới khác nhau ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 71 Hình 4.31 Tương quan giữa tỷ lệ nứt trái với khoảng cách tưới khi thu hoạch ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 Chế độ tưới có ảnh hưởng đến tỷ lệ nứt trái chủ yếu do làm tăng hàm lượng Ca ở vỏ trái, đặc biệt là hàm lượng Ca-pectate ở vỏ trái chôm chôm Rongrien, có sự tương quan nghịch giữa tỷ lệ nứt trái với hàm lượng Ca trong vỏ trái ở mức ý nghĩa 1% (r = -0,84**; Hình 4.32). Các kết quả nghiên cứu về đặc tính lý - hóa trái năm 2014 đã cho thấy hàm lượng Ca ở vỏ trái bình thường cao hơn trái bị nứt; các kết quả nghiên cứu bổ sung canxi năm 2015 và năm 2016 cũng cho thấy tỷ lệ nứt trái giảm khi hàm lượng Ca ở vỏ trái tăng. Ngoài ra, hàm lượng Ca thấp có liên quan đến hiện tượng nứt trái cũng được ghi nhận bởi Li et al. (2001), Astuti (2002) hay Huang et al. (2005) trên cà chua, vải, Li và Huang (1995), Li et al. (2001) và JiQun et al. (2014) cũng nhận thấy hàm lượng Ca2+ ở trái vải và cam bị nứt thấp hơn so với trái bình thường. r = 0,84** Đối chứng 72 Hình 4.32 Tương quan giữa tỷ lệ nứt trái với hàm lượng canxi trong vỏ trái khi thu hoạch ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 4.3.2.3 Tỷ lệ rò rỉ ion ở vỏ trái Tỷ lệ rò rỉ ion ở vỏ trái chôm chôm Rongrien tăng khi khoảng cách giữa 2 lần tưới xa, có sự khác biệt thống kê giữa tưới 2 ngày/lần so với các nghiệm thức khác ở mức ý nghĩa 1% (Hình 4.33). Nghiệm thức đối chứng có tỷ lệ rò rỉ ion ở vỏ trái là 12,3%, kế đến là tưới 4 và 8 ngày/lần lần lượt là 11,3 và 11,9%, nghiệm thức tưới 2 ngày/lần có tỷ lệ rò rỉ ion ở vỏ trái thấp nhất (7,9%). Tưới 2 ngày/lần có tỷ lệ rò rỉ ion thấp hơn so với nghiệm thức để tự nhiên 1,60 lần, trong khi tưới 4 và 8 ngày/lần là 1,09 và 1,03 lần (theo thứ tự). Chế độ tưới có ảnh hưởng đến tỷ lệ rò rỉ ion ở vỏ trái chủ yếu do ảnh hưởng đến hàm lượng Ca, tỷ lệ rò rỉ ion giảm khi hàm lượng Ca tăng do canxi giúp duy trì ổn định và toàn vẹn vách tế bào (Mortazavi et al., 2007). 73 Hình 4.33 Tỷ lệ rò rỉ ion ở vỏ trái khi thu hoạch qua các chế độ tưới khác nhau ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 4.3.2.4 Kích thước trái Chế độ tưới có ảnh hưởng đến chiều cao và rộng trái, khoảng cách giữa 2 lần tưới xa thì kích thước trái giảm (Hình 4.34, 4.35). Nghiệm thức 2 ngày tưới/lần có hiệu quả cao nhất, có sự khác biệt thống kê so với đối chứng cũng như với nghiệm thức tưới 4 và 8 ngày/lần ở mức ý nghĩa 1%, không có sự khác biệt giữa nghiệm thức đối chứng và tưới 4 hay 8 ngày/lần với nhau. Hình 4.34 Chiều cao trái khi thu hoạch qua các chế độ tưới khác nhau ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 74 Hình 4.35 Chiều rộng trái khi thu hoạch qua các chế độ tưới khác nhau ở chôm chôm Rongrien 6 năm tuổi tại xã Nhơn Ái - huyện Phong Điền - TP. Cần Thơ mùa vụ 2016 4.3.2.5 Năng suất trái Ngoài ảnh hưởng đến kích thước trái, chế độ tưới cũng ảnh hưởng đến năng suất trái/cây, có sự khác biệt thống kê ở mức ý nghĩa 1%. Nghiệm thức 2 ngày tưới/lần có năng suất tổng cao hơn 1,08 lần so với đối chứng (Hình 4.36). Năng suất trái thương phẩm ở nghiệm thức 2 ngày tưới/lần cũng cao hơn 1,17 lần so với đối chứng (năng suất thương phẩm tăng 17,4%; Hình 4.37); điều này có thể do nước giúp tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng của cây. Theo Lê Văn Hòa và Nguyễn Bảo Toàn (2004) nước có ý nghĩa đối với quá trình hấp
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_su_hap_thu_canxi_cua_chom_chom_rongrien_t.pdf
Thong tin Luan an (Tieng Anh) -TRAN THI BICH VAN.docx
Thong tin Luan an (Tieng Viet)-TRAN THI BICH VAN.docx
Tom tat Luan an (Tieng Anh)-TRAN THI BICH VAN.pdf
Tom tat Luan an (Tieng Viet) -TRAN THI BICH VAN.pdf