Luận án Nghiên cứu sự thay đổi một số yếu tố thủy văn, thủy lực hạ lưu hệ thống sông hương dưới tác động của các công trình thủy lợi, thủy điện và biến đổi khí hậu

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu sự thay đổi một số yếu tố thủy văn, thủy lực hạ lưu hệ thống sông hương dưới tác động của các công trình thủy lợi, thủy điện và biến đổi khí hậu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu sự thay đổi một số yếu tố thủy văn, thủy lực hạ lưu hệ thống sông hương dưới tác động của các công trình thủy lợi, thủy điện và biến đổi khí hậu

/IX/2009 506 873 598 394 673 715 513 Bão 15-19/X/2009 360 401 270 407 345 233 299 ATNĐ 15/X/2010 107 186 228 121 148 232 149 Bão Bảng 2.7: Các hình thế thời tiết gây mưa lũ ở lưu vực sông Hương từ 1981-2006 [34] TT Hình thế thời tiết Số trận lũ Tần suất (%) 1 Không khí lạnh 3 4,6 2 Bão hoặc áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp 13 20 3 Không khí lạnh kết hợp với hội tụ nhiệt đới 5 7,7 4 KKL kết hợp với đới gió đông trên cao (ĐGĐ) 7 10,7 5 KKL kết hợp với bão hoặc ATNĐ 19 29,2 6 KKL kết hợp với HTNĐ và ĐGĐ 5 7,7 7 KKL kết hợp với ATNĐ hoặc bão, HTNĐ và ĐGĐ 4 6,2 8 HTNĐ kết hợp với ATNĐ 3 4,6 9 Các hình thế khác 6 9,3 Tổng cộng 65 100 59 2.2.2 Điều kiện địa hình, thảm phủ (1)- Địa hình: Về tổng thể, địa hình lưu vực sông Hương có dạng phễu thu nước với miệng phễu là các dãy núi cao Trường Sơn (phía Tây Nam), Bạch Mã (phía Đông Nam) và dãy cồn cát ven biển (phía Đông Bắc), đáy phễu chính là phần thu nước hạ lưu của sông Hương [61]. Với hình thế núi cao – trung bình và sự sắp xếp dạng cung đã tạo nên bồn thu nước rộng, cùng với tính chất không cân đối về mặt diện tích giữa vùng núi – đồi với vùng đồng bằng – đầm phá ven biển là một trong những nguyên nhân chính tạo ra tính chất dòng chảy lũ khốc liệt [15]. Lũ tập trung rất nhanh, thời gian truyền lũ từ thượng lưu về hạ lưu từ 5 – 12 giờ, cường suất lũ lớn (ở thượng lưu 1- 2m/giờ, ở hạ lưu từ 0,5-1m/giờ), biến đổi lưu lượng dòng chảy rất lớn với lưu lượng lớn nhất có thể lớn gần bằng 2.500 lần so với dòng chảy nhỏ nhất (bảng 2.8). Bảng 2.8: Chênh lệch lớn nhất giữa Qmax và Qmin [49] Tuyến Sông Qmax (m3/s) Qmin (m3/s) Qmax/Qmin Thượng Nhật Tả Trạch 1.470 1,46 1.010 Tuần Tả Trạch 8.000 5,80 1.380 Bình Điền Hữu Trạch 5.320 2,16 2.460 Cổ Bi Bồ 4.000 4,04 1.000 Toàn bộ lãnh thổ lưu vực sông Hương kéo dài theo phương Tây Bắc – Đông Nam, cả những dãy núi và vùng đồng bằng đều chạy song song với đường bờ biển, nằm gần vuông góc với hướng gió thịnh hành Đông Bắc trong mùa đông và gió Tây Nam trong mùa hè. Về mùa đông, tác dụng chắn gió của các dãy núi không những làm cho gió đổi hướng mà còn làm cho không khí tĩnh lại ở sườn đông Trường Sơn và sườn bắc dãy núi Bạch Mã gây ra mưa lớn, với các tâm mưa lớn ở Bạch Mã, Nam Đông, A Lưới [34]. Tác động ảnh hưởng của điều kiện địa hình quyết định chế độ mưa lũ do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc kết hợp với nhiễu động khí quyển như bão, áp thấp nhiệt đới.... Vì vậy, mùa lũ trên lưu vực xuất hiện muộn nhất so với các vùng khác trên toàn lãnh thổ Việt Nam, nhưng lại có lượng nước trong mùa lũ Mmùa lũ = 190 l/s/km2. Tháng 60 có lượng dòng chảy lớn nhất rơi vào tháng X chiếm 26,8% lượng dòng chảy năm, với Mtháng max = 240 l/s/km2 [15]. Ngoài lượng mưa, các yếu tố mặt đệm cũng có tác động lớn đến dòng chảy sông suối. Điều này thể hiện sự tác động các yếu tố mặt đệm đến dòng chảy thông qua hệ số dòng chảy của lưu vực rất cao, đạt α = 0,8, lớp dòng chảy trung bình nhiều năm trên lưu vực đạt trên 2.300 mm. Lượng mưa trong mùa khô cũng khá phong phú, đồng thời mức độ chia cắt bề mặt khá lớn nên khả năng sinh dòng chảy cao hơn, hệ số dòng chảy thường đạt α = 0,65 - 0,73 [15]. (2)- Thảm phủ: Thảm thực vật nói chung và đặc biệt lớp phủ rừng nói riêng là một hợp phần của mặt đệm. Thảm thực vật của Thừa Thiên Huế khá phong phú về kiểu loại, độ che phủ rừng khá cao (xem bảng 2.9). Tuy nhiên, tỉ lệ diện tích rừng giàu và rừng trung bình là lớp phủ rừng tự nhiên có cấu trúc gồm nhiều tầng tán và có độ tán che > 70%, đảm bảo điều tiết nước mặt chỉ có 83.248 ha (số liệu điều tra rừng 2006 [30]), chiếm 16,5% diện tích đất tự nhiên và 29,4% diện tích đất có rừng; còn lại 199.457 ha (chiếm 70,6% diện tích đất có rừng) là các loại rừng nghèo kiệt, rừng phục hồi, rừng trồng, trảng cây, đáng kể nhất là các trảng cây bụi hoặc rừng thưa rụng lá có cấu trúc đơn giản, có độ tán che thấp (từ khoảng 20 - 30% đến khoảng 40 - 50%) hầu như không có vai trò điều tiết nước mặt [28], do đó có thể nhận định vai trò điều tiết của toàn bộ thảm phủ đối với chế độ thủy văn – thủy lực sông Hương là chưa cao. Bảng 2.9: Độ che phủ rừng tỉnh Thừa Thiên Huế thời kỳ 2000-2011 [14] Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Độ che phủ (%) 42,8 44,6 46,4 46,3 47,2 48,1 53,6 54,4 55,0 56,2 56,5 56,7 Một điểm rất đáng lưu ý đối với thảm thực vật rừng đó là xu hướng giảm diện tích rừng giàu. Phân tích số liệu điều tra rừng cho thấy diện tích rừng giàu của tỉnh có xu hướng bị thu hẹp: năm 1991 có 38.837 ha, đến năm 1999 còn 37.437 ha, và đến năm 2006 chỉ còn 36.310 ha, tức chỉ trong 15 năm đã suy giảm hơn 1.500 ha; tỉ lệ diện tích rừng giàu và rừng trung bình so với diện tích rừng tự nhiên năm 2006 giảm 7% so với năm 1999, chất lượng thảm thực vật rừng trên lưu vực có xu hướng giảm. 61 2.2.3 Đầm phá và thủy triều (1)- Đầm, phá: Hệ thống đầm phá Tam Giang - Cầu Hai có tác động rất rõ rệt đến chế độ dòng chảy sông Hương. Đầm phá có tác dụng hai mặt đối với lũ lụt; một mặt chúng tạo nên hồ chứa nước tự nhiên khi bắt đầu xuất hiện lũ; mặt khác chúng ít có tác dụng điều tiết khi đã đầy. Vào mùa lũ với dung tích hàng trăm triệu m3, hệ thống đầm phá chứa nước lũ trước khi thoát ra biển, làm cho thời gian lũ rút kéo dài gây ngập úng vùng đồng bằng. Trong mùa kiệt, hệ thống đầm phá Tam Giang – Cầu Hai có tác dụng điều hòa giữ nước và làm giảm ảnh hưởng của nước biển vào do cửa Tư Hiền thường bị bồi lấp vào mùa khô. (2)- Thủy triều: Thủy triều có tác động đáng kể đến chế độ dòng chảy sông Hương. Do địa hình đồng bằng khá phẳng, lòng sông sâu nên ảnh hưởng của thủy triều vào nội địa tạo nên dòng chảy 2 chiều và xâm nhập mặn ở vùng cửa sông. Thủy triều vùng đầm phá cửa sông Hương có đặc điểm thấp nhất vào các tháng III, VII và VIII, cao nhất vào các tháng V, VI và X, XI (bảng 2.10). Khi chưa có đập Thảo Long, vào mùa kiệt, ảnh hưởng của thủy triều lên quá ngã ba Tuần trên sông Hương và quá tuyến Phú Ốc trên sông Bồ, các đặc trưng mực nước tại Kim Long, Phú Ốc trong thời kỳ ảnh hưởng triều (1977-2006) được tính toán từ số liệu thực đo xem bảng 2.11. Với đặc điểm triều thấp thường trùng với thời gian mùa kiệt và triều cao trùng với thời gian lũ lớn nên tác động của thủy triều càng làm tăng khó khăn trong cấp nước mùa kiệt do xâm nhập mặn, và tiêu thoát lũ trong mùa mưa. Bảng 2.10: Đặc trưng mực nước tại Tam Giang- Cầu Hai (1978-1982) [Nguồn: Tài liệu quan trắc của Ty Thủy lợi Bình Trị Thiên] Tháng I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Ca Cút (phá Tam Giang) Hmax (cm) 40 40 32 26 34 32 24 52 76 81 93 65 Hmin (cm) -29 -32 -43 -26 -33 -36 -36 -35 -26 -4 2 -18 Htb (cm) 4 4 -4 -5 -4 3 6 -6 20 40 42 18 Cống Quan (đầm Cầu Hai) Hmax (cm) 22 22 -7 -5 3 2 -9 5 57 101 70 36 Hmin (cm) -21 -27 -29 -34 -30 -36 -41 -36 -22 9 4 -9 Htb (cm) -3 -13 -16 -17 -15 -18 -24 -18 16 37 34 11 62 Bảng 2.11: Đặc trưng mực nước tại các trạm trên sông Hương từ 1977-2006 Tháng I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Trạm Kim Long Hmax (cm) 50 42 38 24 45 49 24 59 145 304 265 150 Hmin (cm) -21 -27 -29 -29 -28 -31 -33 -31 -22 -4 1 -6 Trạm Phú Ốc Hmax (cm) 87 54 39 30 81 68 39 88 199 369 354 245 Hmin (cm) 9 -4 -15 -18 -18 -23 -28 -23 -9 19 36 30 Tóm lại, các điều kiện tự nhiên của lưu vực là khá thuận lợi cho việc hình thành và tập trung nước trên bề mặt vào lòng sông, như độ dốc địa hình lớn, mạng lưới sông phát triển hình nan quạt mở rộng, không có phần trung lưu, diện tích lưu vực nhỏ, nên lũ thường xuất hiện khá đồng bộ trên các sông suối của toàn lưu vực. Mặt khác, phần hạ du của sông thấp trũng, khả năng thoát nước chậm, vì vậy, biến trình mưa - lũ lụt với tần suất cao thường xuyên xảy ra trên toàn lưu vực. Vùng cửa sông ven biển là đầm phá bị dãi cồn cát ven bờ có địa hình cao hơn vùng đồng bằng phía trong chắn ngang, gây cản trở rất lớn cho việc tiêu thoát nước của lưu vực. Mặt khác, chất lượng lớp phủ rừng trên bề mặt lưu vực hiện nay bị giảm thấp, khả năng điều tiết dòng chảy chưa cao nên chế độ dòng chảy trên lưu vực rất khắc nghiệt. 2.2.4 Hoạt động kinh tế xã hội trên lưu vực Trên lưu vực sông Hương đến nay có rất nhiều hoạt động phát triển kinh tế - xã hội liên quan đến tài nguyên nước. Trong nghiên cứu này chỉ phân tích một số hoạt động có vai trò tác động đáng kể đến chế độ thủy văn – thủy lực sông Hương. Các hoạt động này có thể chia thành hai nhóm: (1)- Hệ thống giao thông và đô thị hóa: Xây dựng kết cấu hạ tầng như giao thông, đô thị làm thay đổi điều kiện bề mặt lưu vực. Hệ thống Quốc lộ 1A, tuyến đường sắt Bắc Nam chạy song song với các dãy núi, cắt vuông góc với hướng dòng chảy, tạo nên các tuyến chắn ngang làm giảm khả năng thoát lũ, gây ngập úng cục bộ. Các khu dân cư tập trung và nhiều công trình kinh tế khác được xây dựng ngày 63 nhiều hơn và cao hơn dọc theo các tuyến đường giao thông tạo nên các tường chắn cản lũ. Hệ thống thoát nước đô thị chưa theo kịp tốc độ đô thị hoá, cùng với việc san lấp hồ ao, các ô ruộng trũng làm giảm khả năng chứa và thoát lũ dẫn đến tăng mực nước đỉnh lũ, kéo dài thời gian ngập lũ. (2)- Hệ thống công trình thủy lợi – thủy điện: các công trình thủy lợi – thủy điện sẽ tác động trực tiếp đến chế độ dòng chảy trong sông, thậm chí còn làm thay đổi cân bằng nước trên các đoạn sông, các vùng khác nhau trên lưu vực. Hồ chứa Tả Trạch sẽ tác động đến dòng chảy lũ hạ lưu vì có nhiệm vụ chống lũ và tác động thay đổi cân bằng nước ở hạ lưu do có nhiệm vụ cấp nước tưới cho hàng chục ngàn ha; đồng thời làm thay đổi tốc độ dòng chảy, chế độ bùn cát khu vực lòng hồ. Công trình đập ngăn mặn Thảo Long có tác động rõ rệt đến chế độ mực nước mùa cạn phía thượng lưu khi đập đóng các cửa ngăn. Các hồ thủy điện Bình Điền và Hương Điền sử dụng nguồn nước chủ yếu cho phát điện sẽ làm thay đổi chế độ dòng chảy ở hạ lưu, điều này tùy thuộc vào qui trình vận hành của hồ mặc dù theo nguyên tắc các hồ này sẽ làm tăng dòng chảy mùa kiệt và giảm dòng chảy mùa lũ. Kết quả phân tích thống kê các đặc trưng mực nước hạ du sông Hương tại Kim Long và Phú Ốc theo số liệu thực đo trong các thời kỳ chưa có công trình (trước 2006), có công trình Thảo Long (2007-2009), có hồ Bình Điền và Hương Điền (2010-2012) được thể hiện ở bảng 2.12 (hồ Hương Điền vận hành phát điện từ 2011 nhưng 2010 đã bắt đầu tích nước). Bảng 2.12: Một số đặc trưng mực nước hạ du sông Hương theo số liệu thực đo (cm) Thời kỳ Kim Long Phú Ốc Năm Kiệt Lũ Năm Kiệt Lũ Htb Hmax Hmin Hmax Hmin Htb Hmax Hmin Hmax Hmin 1977-2006 12 53 -28 239 -3 36 76 -14 323 29 2007-2009 39 73 3 243 8 63 98 10 331 47 2010-2012 38 65 9 186 13 59 78 8 286 52 Tác động của Thảo Long 27 20 31 4 11 27 22 24 7 18 Tác động của TL+BĐ+HĐ 26 12 37 -53 16 23 2 22 -37 23 64 Nhận xét: - Trong giai đoạn 2007-2009, đập Thảo Long làm nâng cao mực nước trung bình năm tại Kim Long và Phú Ốc tăng 26-27 cm, mực nước thấp nhất trung bình mùa kiệt tăng 24-31 cm, mực nước cao nhất trung bình mùa kiệt tăng 20-22 cm. Tuy nhiên, đập Thảo Long cũng làm dâng mực nước mùa lũ, mực nước cao nhất trung bình mùa lũ tăng 4 – 7 cm tại Kim Long và Phú Ốc. - Trong giai đoạn 2010-2012, hồ Bình Điền và hồ Hương Điền làm giảm mực nước cao nhất trung bình mùa lũ tại Kim Long 53 cm, tại Phú Ốc 37 cm so với khi chưa có hồ. Trong mùa cạn, đập Thảo Long và hồ Bình Điền, Hương Điền làm nâng cao mực nước thấp nhất trung bình mùa kiệt ở Kim Long 37 cm, tại Phú Ốc 22 cm. - Kết quả nghiên cứu sơ bộ cho thấy hoạt động của các công trình thủy lợi – thủy điện trong thời gian qua đã có tác động đáng kể làm nâng cao mực nước hạ du trong mùa cạn, mang lại nhiều hiệu quả trong cấp nước, chống hạn và năng lượng. Các hồ chứa bước đầu có tác dụng giảm lũ. Những tác động này cần được nghiên cứu đánh giá định lượng theo các trường hợp khác nhau để làm cơ sở cho đề xuất các giải pháp giảm thiểu tác động tiêu cực, nâng cao hiệu quả của các công trình. 2.3 CÁC TÁC ĐỘNG CHÍNH CỦA HỆ THỐNG CÔNG TRÌNH THỦY LỢI- THỦY ĐIỆN ĐẾN CHẾ ĐỘ THỦY VĂN- THỦY LỰC SÔNG HƯƠNG 2.3.1 Về mùa lũ (Khi chưa có qui trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hương được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt) 1) Về mùa lũ các hồ chứa có tác động hạ thấp mực nước và lưu lượng đỉnh lũ ở hạ lưu do điều tiết lũ: Các hồ chứa có nhiệm vụ phòng lũ cho hạ du sẽ làm chậm thời gian xuất hiện đỉnh lũ, giảm mực nước và lưu lượng đỉnh lũ, hạ thấp nguy cơ thiệt hại cho khu vực hạ lưu. Ngoài ra, với tổng dung tích các hồ khoảng 2 tỉ m3, sau khi hoàn thành sẽ đóng góp đáng kể tăng lưu lượng dòng chảy ngầm, tác động đến quá trình hình thành dòng chảy lũ trên lưu vực. 2) Có khả năng gây lũ chồng lên lũ, tạo ra lũ nhân tạo khi chưa có qui trình vận hành liên hồ chứa: Vào mùa lũ có khả năng xảy ra tình huống trong khi ở hạ lưu xuất hiện đỉnh lũ nhưng để bảo đảm an toàn cho bản thân công trình đập và hồ 65 đã ở mức nước cao thì hồ chứa vẫn tiếp tục gia tăng xả lũ, gây ra hiện tượng tổ hợp giữa lũ do xả (lũ nhân tạo) và lũ ở hạ lưu dẫn đến làm tăng độ sâu ngập lụt và kéo dài thời gian ngập. Trên lưu vực sông Hương hồ Tả Trạch có dung tích phòng lũ lớn nhất nên sẽ có tác dụng chống lũ cho hạ lưu đáng kể. Vào đầu mùa lũ, mực nước trước lũ trong các hồ thủy điện vẫn duy trì ở mực nước dâng bình thường, sau đó mới bắt đầu xả lũ với lưu lượng xấp xỉ lưu lượng lũ đến, do đó khi chưa có qui trình vận hành phối hợp trong hệ thống, khả năng gây ra lũ nhân tạo ở vùng hạ lưu cần được xem xét đánh giá. Mặt khác, theo qui trình vận hành độc lập của mỗi hồ có cho phép thực hiện chế độ xả lũ sớm, nếu không có sự phối hợp vận hành tốt giữa các hồ, dự báo lũ không tốt và kiểm soát không chặt chẽ thì khi ở thượng lưu chưa xuất hiện đỉnh lũ, ở hạ du đã bị ngập do các hồ xả lũ sớm. Trong trường hợp này, hiện tượng kéo dài thời gian ngập lụt ở hạ lưu có khả năng xảy ra cao hơn. 3) Mực nước lên xuống thất thường do các hồ xả lũ: Vào mùa lũ, dòng chảy ở hạ lưu không ổn định và phụ thuộc vào sự vận hành xả lũ của hồ chứa thủy điện. Với đặc điểm tình hình mưa lũ rất phức tạp trên hệ thống sông Hương, thời gian tập trung dòng chảy ngắn, lũ lên nhanh, xuống nhanh, biến đổi theo từng nhánh sông. Do vậy, việc vận hành xả lũ đột ngột của các hồ chứa sẽ làm mực nước vùng hạ lưu thay đổi thất thường, làm tăng nguy cơ ngập lụt ở các vùng thấp trũng và tình trạng xói lở bờ sông. 4) Bùn cát bị giữ lại trên các hồ chứa, tạo hiệu ứng nước trong, gây xói lở hạ lưu: Tốc độ dòng chảy khi vào hồ bị giảm đột ngột dẫn đến phần lớn bùn cát và phù sa bị lắng đọng lại trong hồ dẫn đến những hậu quả về mặt sinh thái – môi trường trong lòng hồ và khu vực hạ lưu. Lắng đọng bùn cát trong lòng hồ không chỉ làm giảm dung tích hoạt động của hồ, giảm hiệu ích công trình mà còn thay đổi hàm lượng bùn cát trong dòng chảy sau hồ, tạo hiệu ứng “nước trong”, gây xói đáy sông và xói lở bờ sông vùng hạ lưu. Hậu quả mất cân bằng bùn cát còn ảnh hưởng tới vùng cửa sông, làm thay đổi chế độ bùn cát của hệ thống đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, dẫn đến diễn biến mất ổn định các cửa Thuận An, Tư Hiền. 66 5) Rủi ro do có sự cố: các sự cố có thể là: (i) Kẹt cửa van xả lũ do hư hỏng thiết bị hay gỗ trôi về lấp cửa tràn, (ii) Vỡ đập có thể xảy ra do các hồ nhỏ ở thượng lưu bị vỡ gây vỡ dây chuyền, hoặc xảy ra lũ vượt lũ thiết kế. Các hồ Bình Điền, Hương Điền và Tả Trạch được tính với tần suất lũ thiết kế P = 0,5% và kiểm tra với lũ P = 0,1% nhưng yếu tố rủi ro cần được lưu ý. Đối với hồ Tả Trạch có kiểm tra với lũ cực hạn (PMF), có bố trí tuy nen xả lũ sự cố khi lũ vượt quá tần suất kiểm tra, các hồ Bình Điền, Hương Điền không có hạng mục này. 6) Đập Thảo Long có ảnh hưởng không lớn đến việc nâng cao mực nước lũ ở phía thượng lưu đập: Theo qui trình vận hành đơn hồ được duyệt, vào mùa lũ khi có lũ về các cửa van của đập Thảo Long sẽ được mở hoàn toàn để thoát lũ nên sẽ có ảnh hưởng không lớn đến việc nâng cao mực nước lũ ở phía thượng lưu đập. Trường hợp không có lũ hay lũ quá bé, gặp triều cường thì đập Thảo Long sẽ đóng lại để ngăn mặn. Những năm qua, đập Thảo Long vận hành khá ổn định nên tác động làm dâng mực nước lũ trước đập không đáng kể. 2.3.2 Về mùa cạn 1) Đập Thảo Long tạo ra chế độ dòng chảy hồ lòng sông: Vào mùa cạn, đập Thảo Long thường xuyên đóng các cửa van nhằm nâng cao mực nước trước đập từ cao trình +0,3 đến +0,5 m, kết hợp với việc điều tiết cấp nước và phát điện của các hồ chứa ở thượng lưu sẽ duy trì mực nước hạ lưu sông Hương ổn định, tạo ra chế độ dòng chảy hồ lòng sông. Vào các tháng mùa kiệt khi chưa có đập Thảo Long, dưới tác động của dòng triều biên độ dao động mực nước sông Hương khá cao (từ 0,7 - 1,2 m), sau khi có đập, biên độ dao động mực nước hạ lưu sông Hương giảm thiểu đáng kể, chế độ dòng chảy sông vùng ảnh hưởng triều được thay bằng chế độ dòng chảy hồ lòng sông. 2) Đập Thảo Long làm ngọt hóa sông Hương: Tác dụng ngăn mặn, giữ ngọt của đập Thảo Long đã ngăn chặn triệt để sự xâm nhập mặn từ biển và đầm phá vào nội địa, làm ngọt hóa sông Hương. Trước khi chưa có đập Thảo Long, sông Hương bị nhiễm mặn nặng nề, năm 1994 hay 2002 nước mặn xâm nhập sâu vào nội địa vượt quá vị trí nhà máy nước Vạn Niên đến tận phà Tuần cách cửa Thuận An tới 35 67 km. Từ 2006 đến nay nhờ có đập Thảo Long mà tình hình xâm nhập mặn trên sông Hương đã được khống chế. 3) Đập Thảo Long tạo ra tiềm năng chuyển bớt nước ngọt về tưới cho hệ thống thủy lợi hồ Truồi: Đập Thảo Long làm nâng cao mực nước sông Hương tạo ra tiềm năng chuyển nguồn bớt nguồn nước ngọt qua hệ thống sông Lợi Nông - Đại Giang để tưới cho vùng diện tích nông nghiệp phía nam huyện Hương Thủy- bắc Phú Lộc do hệ thống hồ Truồi đảm nhận, nguồn nước hồ Truồi sẽ tập trung cho vùng phía nam huyện Phú Lộc và khu kinh tế Chân Mây- Lăng Cô. 4) Đập Thảo Long hỗ trợ lượng dòng chảy từ thượng lưu để đảm bảo yêu cầu môi trường, thông thoáng dòng chảy. Mặt khác, đập có vai trò rất lớn đảm bảo không cho nước mặn xâm nhập vào sông do nước biển dâng. 5) Các hồ Bình Điền, Hương Điền, Tả Trạch điều tiết nước phát điện, cấp nước cùng với đập Thảo Long làm nâng cao mực nước mùa cạn hạ du sông Hương. Trong trường hợp có xét đến biến đổi khí hậu, nước biển dâng như kịch bản của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì do lượng mưa mùa mưa tăng lên, kết hợp với nước biển dâng sẽ làm tăng nguy cơ và mức độ ngập lụt. Trong trường hợp này hệ thống công trình thủy lợi – thủy điện có thể sẽ có những tác động cụ thể tùy theo điều kiện quản lý và vận hành hệ thống. Qua phân tích các tác động của hệ thống công trình thủy lợi – thủy điện đến chế độ thủy văn – thủy lực sông Hương có thể rút ra một số nhận xét như sau: - Các yếu tố tác động của hệ thống công trình đến chế độ thủy văn – thủy lực sông Hương là đa dạng và rất phức tạp, có tác động tích cực, song cũng có tác động tiêu cực. Những tác động này cần được lượng hóa để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp phù hợp và có tính khả thi nhằm phát huy tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu cực. - Do tính chất phức tạp của chế độ dòng chảy và hệ thống sông Hương, việc đánh giá định lượng tập trung vào một số yếu tố thủy văn – thủy lực chủ yếu ở hạ du bằng phương pháp kế thừa tài liệu, điều tra khảo sát, phân tích tổng hợp và ứng dụng mô hình toán thủy văn – thủy lực được trình bày trong phần tiếp theo. 68 2.4 ỨNG DỤNG MÔ HÌNH HEC-HMS VÀ HEC-RAS ĐỂ MÔ PHỎNG DÒNG CHẢY LƯU VỰC SÔNG HƯƠNG 2.4.1 Giới thiệu chung về mô hình HEC – HMS và HEC-RAS Bộ mô hình toán HEC-HMS (Hydrologic Modeling System) và HEC-RAS (River Analysis System) do Mỹ (The US Army Corps of Engineers Hydrologic Engineering Center) xây dựng và phát triển [90, 91, 92]. Trong đó mô hình toán thủy văn HEC-HMS được sử dụng khá hiệu quả trong các nghiên cứu tính toán thủy văn với nhiều chức năng như tính lớp dòng chảy
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_su_thay_doi_mot_so_yeu_to_thuy_van_thuy_l.pdf
tom tat tieng anh.pdf
tom tat tieng viet.pdf
Trang tin dua len mang tieng Viet_Anh.pdf