Luận án Nghiên cứu tác động của xâm nhập mặn và khả năng thích ứng trong nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long

Luận án Nghiên cứu tác động của xâm nhập mặn và khả năng thích ứng trong nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu tác động của xâm nhập mặn và khả năng thích ứng trong nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu tác động của xâm nhập mặn và khả năng thích ứng trong nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu tác động của xâm nhập mặn và khả năng thích ứng trong nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu tác động của xâm nhập mặn và khả năng thích ứng trong nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu tác động của xâm nhập mặn và khả năng thích ứng trong nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu tác động của xâm nhập mặn và khả năng thích ứng trong nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu tác động của xâm nhập mặn và khả năng thích ứng trong nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu tác động của xâm nhập mặn và khả năng thích ứng trong nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu tác động của xâm nhập mặn và khả năng thích ứng trong nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 275 trang nguyenduy 09/10/2025 120
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu tác động của xâm nhập mặn và khả năng thích ứng trong nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu tác động của xâm nhập mặn và khả năng thích ứng trong nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long

Luận án Nghiên cứu tác động của xâm nhập mặn và khả năng thích ứng trong nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long
 Xuân, 
2000). Ngoài ra, sặc rằn là loài ăn tạp thiên về mùn bã hữu cơ, thức ăn chủ yếu là 
mùn bã hữu cơ, phiêu sinh vật nên cá thường được chọn để nuôi ghép trong các 
mô hình nuôi kết hợp như VAC, VACB, cá – lúa nhằm tận dụng các nguồn phụ 
phẩm (Dương Nhựt Long và ctv., 2014). Do vậy, khi nuôi với mật độ thấp ở hình 
thức nuôi quảng canh hay quảng canh cải tiến người nuôi thường ít đầu tư cho ăn, 
thức ăn cho cá là thức ăn tự nhiên hoặc tự chế bằng các phụ phẩm sẳn có. Do vậy 
thời gian nuôi cá sẽ kéo dài. Khi cá được nuôi với mật độ cao (>10 con/m2) bên 
cạnh thức ăn tự nhiên cá cần được cho ăn bổ sung bằng thức ăn công nghiệp. Khi 
 99 
cho cá ăn bằng thức ăn công nghiệp có hàm lượng đạm từ 32 – 35%, sau 8 tháng 
nuôi cá đạt năng suất từ 15 – 20 tấn/ha (Nguyễn Thị Ngọc Hà, 2009). 
Bảng 4.13: Khía cạnh kỹ thuật của mô hình nuôi cá sặc rằn 
Chỉ tiêu Nhỏ nhất (min) Lớn nhất (max) 
Trung bình 
(n= 32) 
Tổng diện tích nuôi (ha) 0,01 1,56 0.26±0.36 
Độ sâu mực nước (m) 1 2,5 1,59±0,33 
Mật độ thả nuôi (con/m2) 0,38 50 21,9±15,7 
Kích cỡ thả nuôi (g/con) 1 6,9 2,58±1,29 
Thời gian nuôi (ngày) 180 420 268±64 
FCR thức ăn tự nhiên 2,67 1,33±0,95 
Kích cỡ thu hoạch (con/kg) 7 20 12,2±3,81 
Năng suất (tấn/ha/vụ) 0,1 35 8,71±9,8 
Tỷ lệ sống 2,86 81 39,3±26,1 
Trung bình ± độ lệch chuẩn; giá trị nhỏ nhất, giá trị lớn nhất; n: số nông hộ 
Mật độ thả nuôi và lượng thức ăn sử dụng là hai yếu tố quan trọng quyết 
định đến năng suất nuôi. Do mật độ thả nuôi và lượng thức ăn sử dụng giữa các 
hộ có sự chênh lệch lớn nên năng suất cá nuôi dao động lớn. Với hệ số chuyển 
hóa thức ăn FCR trong khảo sát dao động từ 0 đối với những hộ nuôi quảng canh 
đến 2,67 đối với những hộ nuôi thâm canh thì sau khoảng 8 tháng nuôi năng suất 
đạt được 0,1 – 35 tấn/ha/vụ. Theo Nguyễn Thị Ngọc Hà (2009) năng suất cá sặc 
rằn nuôi ở An Giang, Hậu Giang và Cà Mau dao động từ 0,1 – 40 tấn/ha/vụ tương 
ứng với mật độ thả dao động từ 1 – 200 con/m2 trong khi nuôi thực nghiệm ở mật 
độ 30 con/m2 cá cho năng suất khoảng 23 tấn/ha/vụ và 40 con/m2 là 25 tấn/ha/vụ 
với FCR khoảng 2. 
Tỷ lệ sống của cá trong khảo sát này trung bình 39 % là khá thấp do cá sặc 
rằn là loài cá hiền, là thức ăn chủ yếu của các loài địch hại. Do vậy, trong quá 
trình nuôi cá dễ bị hao hụt làm giảm tỷ lệ sống của cá. 
 100 
4.2.2.2 Hiệu quả tài chính của mô hình nuôi cá sặc rằn 
Kích cỡ thu hoạch là yếu tố quan trọng quyết định đến giá bán và lợi nhuận 
của mô hình nuôi. Trong kết quả khảo sát này giá cá bán dao động từ 30 – 60 
ngàn đồng/kg tương ứng với kích cỡ thu hoạch từ 7 - 20 con/kg (Bảng 4.13 và 
Bảng 4.14). Giá bán càng cao khi kích cỡ thu hoạch càng lớn do khi cá thu hoạch 
có kích cỡ nhỏ, không đáp ứng cho việc làm khô xuất khẩu và chỉ được tiêu thụ 
nội địa nên giá thường không cao. Kết quả khảo sát của Nguyễn Thị Ngọc Hà 
(2009) cho thấy cá sặc rằn thường chỉ đạt kích cỡ thu hoạch từ 30 – 40%. 
Bảng 4.14: Các yếu tố tài chính của mô hình nuôi cá sặc rằn 
Chỉ tiêu 
Nhỏ nhất 
(min) 
Lớn nhất 
(max) 
Trung bình 
(n=32) 
Giá bán (ngàn đ/kg) 30 60 39,3±8,12 
Tổng chi phí cố định (trđ/ha/vụ) 0,33 28,8 6,58±7,63 
Chi phí khấu hao (trđ/ha/vụ) 0,07 5,76 1,32±1,53 
Tổng chi biến đổi (tr đ/ha/vụ) 2,03 1.147 287±327 
Tổng thu (trđ/ha/vụ) 3 1.295 331±384 
Tổng chi (trđ/ha/vụ) 2,03 1.167 288±327 
Lợi nhuận (trđ/ha/vụ) -130 280 43,1±95,3 
Số hộ lỗ (%) 40,6 
Trung bình ± độ lệch chuẩn, giá trị nhỏ nhất, giá trị lớn nhất; n: số nông hộ 
Các khoảng đầu tư trong mô hình nuôi chiếm phần lớn vẫn là chi phí thức ăn 
(78,2%), kế đến là chi phí con giống (15,7%), các khoảng chi khác (6%). Do mức 
độ đầu tư vào mô hình khác nhau nên tổng chi phí của các nông hộ có sự chênh 
lệch lớn. Đối với những nông hộ nuôi dưới hình thức quảng canh, chỉ sử dụng 
thức ăn từ tự nhiên có mức độ đầu tư thấp nhất (khoảng 2,03 triệu đ/ha/vụ) với 
chi phí chủ yếu là mua con giống. Trong khi đó, đối với những hộ nuôi bán thâm 
canh hay thâm canh với mật độ 50 con/m2 thì mức độ đầu tư vào mô hình khá lớn 
(khoảng 1.167 triệu đ/ha/vụ). Do mức độ đầu tư khác nhau nên lợi nhuận mang 
lại từ mô hình cũng khác nhau. Kết quả khảo sát cho thấy lợi nhuận của các nông 
hộ nuôi cá sặc rằn trung bình khoảng 43,1 triệu đ/ha/vụ và tỷ lệ thua lỗ trong mô 
hình là 40,6%. Trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Hà (2009) lợi nhuận của 
các mô hình nuôi cá sặc rằn dao động từ 350 ngàn đến 40 triệu đ/ha/vụ. 
 101 
Tỷ lệ thua lỗ của mô hình trong khảo sát là khá cao. Các nguyên nhân có thể 
làm cho mô hình nuôi không mang lại hiệu quả kinh tế là cá bị hao hụt trong giai 
đoạn đầu thả nuôi do địch hại hay bị hao hụt sau khi thả làm cho tỷ lệ sống của cá 
còn thấp (trung bình 39%), kích cỡ cá thu hoạch không đạt chuẩn nên có giá bán 
thấp, thị trường tiêu thụ cá bấp bênh, chủ yếu là nội địa, yếu tố thời tiết thay đổi 
làm cá dễ bệnh và hao hụt, trình độ kỹ thuật của người nuôi còn hạn chế trong 
khâu chăm sóc, quản lý 
 4.2.2.3 Nhận thức, ảnh hưởng và giải pháp ứng phó với BĐKH của 
người nuôi cá sặc rằn trong thời gian qua 
 Kết quả khảo sát nhận thức của người nuôi cá sặc rằn trong thời gian qua 
cho thấy chỉ có 15,6% số hộ cho rằng thời tiết không thay đổi, trong khi đó 84,4% 
cho rằng thời tiết hiện nay đã thay đổi so với thời gian qua. Nhận thức về xu thế 
biến đổi của các yếu tố thời tiết cho thấy có 40,6% số hộ nhận thấy mùa mưa 
ngày càng đến trễ hơn, 50% cho rằng lượng mưa ở mỗi cơn mưa ngày càng lớn, 
81,3% số hộ cho rằng nhiệt độ ngày càng cao hơn và 40,6% số hộ cho rằng mực 
nước triều ngày càng thấp. 
 a. Nhận thức, ảnh hưởng và giải pháp của người nuôi về xâm nhập mặn 
 Xâm nhập mặn là quá trình bị ảnh hưởng và chi phối bởi nhiều yếu tố thời 
tiết như mùa mưa và lượng mưa, sự thay đổi của nhiệt độ và mực nước triều, lưu 
lượng dòng chảy ở thượng nguồn. Việc thiếu nước vào mùa khô sẽ làm gia tăng 
XNM ở các vùng cửa sông ở Việt Nam. Do khu vực khảo sát nằm trong nội đồng 
nên kết quả khảo sát cho thấy có 93,8% nông hộ chưa nhận thấy tác động và ảnh 
hưởng của XNM thời gian qua (Hình 4.14). Điều này cho thấy có thể khu vực 
khảo sát trước nay chưa bị ảnh hưởng của xâm nhập mặn. 
 b. Nhận thức, ảnh hưởng và giải pháp của người nuôi về sự thay đổi của 
nhiệt độ 
 Nhiệt độ tăng cao vào mùa nắng hay giảm thấp vào mùa mưa đều có ảnh 
hưởng đến mô hình (75 – 84%) (Hình 4.14). Khi nhiệt độ tăng cao làm thay đổi 
môi trường (61%) và giảm thấp thì làm cá tăng trưởng chậm (69%). Giải pháp khi 
nhiệt độ cao là quản lý môi trường (76%) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với sử 
dụng thuốc, hóa chất (24%), khi nhiệt độ thấp giải pháp là sử dụng thuốc, hóa 
chất (78%) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với quản lý môi trường (22%). 
 Nhóm thuốc, hóa chất được người nuôi sử dụng để ứng phó với sự nhiệt độ 
thấp là các loại vitamin, men tiêu hóa nhằm giúp cá nâng cao sức đề kháng và 
 102 
Ghi chú: KAH: không ảnh hưởng; CAH: có ảnh hưởng; KB: không biết 
 BC: bệnh, chết; MTTĐ: môi trường thay đổi, cá bị sốc; CTT: tăng trưởng chậm 
 T,HC: thuốc, hóa chất; QLMT: quản lý môi trường 
N: tổng số hộ khảo sát; n: số nông hộ trả lời; n': các ảnh hưởng; n'': các giải pháp 
Các giá trị trên cùng một hàng trong một nhóm có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (Chi- bình phương, p<0,05) 
Hình 4.14: Nhận thức về ảnh hưởng và giải pháp thích ứng với BĐKH của người nuôi cá sặc rằn. 
 103 
mau lớn. Trong khi đó quản lý môi trường chủ yếu là tăng mực nước ao nuôi khi 
nhiệt độ cao nhằm làm ổn định nhiệt độ trong những ngày nắng nóng. Khi môi 
trường ao nuôi bất lợi, đặc biệt khi nhiệt độ cao, hàm lượng oxy trong nước giảm 
thấp thì cá sặc rằn vẫn sống được do đây là loài cá cơ cơ quan hô hấp phụ, có khả 
năng lấy oxy trực tiếp từ khí trời. Theo Dương Nhựt Long và ctv. (2014) cá sặc 
rằn là loài có khả năng chịu được môi trường nước bẩn, hàm lượng vật chất hữu 
cơ cao, pH môi trường thấp (4 – 4,5) và sự biến động lớn của nhiệt độ. 
 c. Nhận thức, ảnh hưởng và giải pháp của người người nuôi về sự thay 
đổi của mùa mưa và lượng mưa 
 Có 31 – 38% số nông hộ cho rằng sự thay đổi của mùa mưa (mùa mưa đến 
sớm hay trễ) có tác động đến mô hình nuôi, trong đó khi mùa mưa đến trễ có ảnh 
hưởng nhiều hơn mùa mưa đến sớm (Hình 4.14). Ảnh hưởng chủ yếu của mùa 
mưa đến trễ là làm cho môi trường thay đổi vì có liên quan mật thiết tới mực 
nước trong ao. Khi mùa mưa đến trễ làm thiếu nguồn nước cấp, mực nước ao 
nuôi thấp làm cho các yếu tố môi trường dễ bị biến động lớn giữa ngày và đêm 
làm ảnh hưởng đến cá nuôi. Khi lượng mưa thay đổi thì lượng mưa lớn có ảnh 
hưởng đến mô hình nuôi (59%), trong khi mưa nhỏ thì 100% cho rằng không ảnh 
hưởng. Tác động của mưa lớn làm cho môi trường thay đổi (74%) cao hơn có ý 
nghĩa thống kê so với làm cho cá dễ bệnh và chết (26%). Giải pháp được nông hộ 
lựa chọn để làm giảm rủi ro cho mô hình là sử dụng thuốc, hóa chất 68% cao hơn 
có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với quản lý môi trường chiếm 32%. Nhóm thuốc, 
hóa chất được người nuôi sử dụng chủ yếu là vôi và một số loại kháng sinh phòng 
bệnh cho cá. Quản lý môi trường thông qua việc nâng cao mực nước ao nuôi 
trong trường hợp ứng phó với sự thay đổi của mùa mưa mang lại hiệu quả tốt hơn 
vì cải thiện các yếu tố môi trường ao nuôi, giúp cá phát triển tốt. 
 d. Nhận thức, ảnh hưởng và giải pháp của người nuôi về sự thay đổi của 
mực nước triều 
Đối với sự thay đổi mực nước triều, người nuôi cho rằng mực nước triều 
dâng cao trong thời gian qua không có ảnh hưởng đến mô hình và mực nước triều 
thấp có 37% số hộ cho rằng có ảnh hưởng (p<0,05) (Hình 4.14). Ảnh hưởng chủ 
yếu của mực nước triều thấp là làm thay đổi môi trường ao nuôi do mực nước ao 
nuôi bị thấp, việc cấp nước cho ao thông qua sự chênh lệch của thủy triều bị hạn 
chế và khó khăn. Giải pháp được lựa chọn chủ yếu là quản lý môi trường (83%) 
bằng việc bơm thêm nước cho ao. 
 104 
4.2.2.4 Nhận thức và giải pháp ứng phó với BĐKH của người nuôi cá 
sặc rằn trong thời gian tới 
 Khảo sát về nhận thức và ứng phó với những hiện tượng của BĐKH và xâm 
nhập mặn trong thời gian tới cho thấy có 90,3% số hộ nuôi cá sặc rằn cho rằng 
khí hậu sẽ thay đổi lớn trong thời gian tới so với 9,68% cho rằng không thay đổi. 
Để ứng phó với những thay đổi trên, người nuôi đã đưa ra một số giải pháp như 
sau (Bảng 4.15). 
Bảng 4.15: Giải pháp ứng phó của người nuôi với sự thay đổi của khí hậu thời gian tới 
Hiện tượng 
Giải pháp ứng phó (%) 
Nuôi 
bình 
thường 
Đổi 
lịch 
thời vụ 
Cải tiến 
kỹ thuật 
Chuyển 
đối tượng 
khác 
Nghỉ 
nuôi 
Không 
biết 
Mưa, bão 75 0 3,57 3,57 14,3 3,57 
Nhiệt độ cao 71,4 3,57 10,7 3,57 10,7 3,57 
Nhiệt độ thấp 75 3,57 3,57 7,14 10,7 3,57 
Mực nước triều dâng 0,5 m 17,9 0 57,1 10,7 14,3 7,14 
Mực nước triều dâng 1 m 3,57 0 64,3 10,7 10,7 10,7 
Nước lợ nhạt (0,5 – 5 ‰) 42,9 3,57 3,57 0 7,14 42,8 
Nước lợ vừa (5 – 18 ‰) 3,57 0 0 7,14 14,3 75 
Nước lợ mặn (18– 30 ‰) 0 0 0 0 14,3 85,7 
Nước mặn (30 – 35 ‰) 0 0 0 0 0 100 
Người nuôi cá cho rằng họ vẫn nuôi cá sặc rằn bình thường trong thời gian 
tới nếu xảy ra hiện tượng mưa bão thất thường hay nhiệt độ thay đổi vì các hiện 
tượng này không ảnh hưởng nhiều đến mô hình thời gian qua hay người nuôi có 
thể ứng phó được. Khi mực nước triều tăng lên giải pháp cải tiến kỹ thuật như 
việc nâng cấp hệ thống đê bao được đa số người nuôi lựa chọn (57 – 64%). Trong 
trường hợp xảy ra xâm nhập mặn, khi độ mặn nhỏ hơn 5 ‰ người nuôi cho rằng 
họ vẫn nuôi được cá sặc rằn (42,8%) vì loài cá này có thể sống được trong môi 
trường nước lợ nhạt. Tuy nhiên khi độ mặn vượt 5 ‰ nông hộ sẽ nghỉ nuôi 
(14,3%) và không có giải pháp (42,8%). Từ đó cho thấy mô hình nuôi cá sặc rằn 
 105 
cũng là một mô hình nuôi cá nước ngọt dễ bị tổn thương do xâm nhập mặn vì 
phần lớn người nuôi mặc dù nhận biết được khí hậu sẽ thay đổi trong thời gian tới 
nhưng họ chưa biết sẽ ảnh hưởng đến mô hình cũng như chưa đưa ra được giải 
pháp thích ứng nhằm giảm thiểu rủi ro. 
4.2.2.5 Thảo luận về mô hình nuôi cá sặc rằn 
Theo dự đoán của Bộ TNMT (2011) ĐBSCL trong đó có các vùng khảo sát 
sẽ bị xâm nhập mặn trong thời gian tới. Cá sặc rằn hiện nay được nuôi chủ yếu 
trong môi trường nước ngọt, nhưng theo Nguyễn Văn Kiểm và Trang Văn Phước 
(2011) cá sặc rằn có thể sống được trong môi trường nước lợ. Do vậy, theo dự 
đoán diện tích nuôi loài này có thể sẽ được mở rộng ra từ môi trường nước ngọt 
đến môi trường nước lợ. Tuy nhiên do người nuôi còn thiếu kinh nghiệm cũng 
như kỹ thuật khi nuôi loài cá này trong môi trường nước lợ, vì vậy để nuôi loài 
này đạt hiệu quả cao thì người nuôi cần phải được sự hỗ trợ từ các sở ban ngành, 
các nhà kỹ thuật nhằm tập huấn và chuyển giao công nghệ để nâng cao hiệu quả 
sản xuất của mô hình nuôi, thích ứng với hiện tượng BĐKH và xâm nhập mặn. 
 4.2.3 Mô hình nuôi cá thát lát còm 
 4.2.3.1 Các yếu tố kỹ thuật trong mô hình nuôi cá thát lát còm 
Công trình nuôi: Kết quả khảo sát các hộ nuôi cá thát lát còm ở Hậu Giang 
cho thấy loài cá này được người dân địa phương nuôi dưới 2 hình thức là nuôi ao 
và nuôi vèo lưới. Diện tích nuôi trung bình đối với hình thức nuôi ao là 1.242 m2 
và nuôi vèo là 21 m2 (Bảng 4.16). Theo như nghiên cứu của Trần Văn Việt 
(2013) thì cá thát lát còm được nuôi ở 2 hình thức ao và vèo, ao nuôi cá có diện 
tích trung bình 100 – 5000 m2 và vèo từ 20 - 25 m2. Độ sâu mực nước và mật độ 
thả nuôi ở hai hình thức cũng khác nhau. Đối với hình thức nuôi ao, mặc dù có độ 
sâu mực nước cao nhưng khả năng chăm sóc, quản lý bị hạn chế nên mật độ thả 
nuôi trung bình 7,55 con/ m2 thấp hơn so với hình nuôi nuôi vèo dễ chăm sóc 
quản lý nên có mật độ thả nuôi trung bình là 65,2 con/ m2. Kết quả khảo sát của 
Đặng Thu Thảo (2014) cũng cho thấy mật độ thả cá thát lát còm trong hình thức 
nuôi ao trung bình 10 con/m2 và vèo là 164 con/m2, trong khi đó kết quả của Trần 
Văn Việt (2015) mật độ thả cá 9 con/m2 (nuôi ao) và 40,9 con/m2 (nuôi vèo). 
Thời gian nuôi là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến kích cỡ thu hoạch 
cá. Đối với nuôi ao thời gian nuôi trung bình dài hơn so với nuôi vèo nên kích cỡ 
thu hoạch ở hình thức nuôi ao cũng lớn hơn so với hình thức nuôi vèo. Nuôi vèo 
có thời gian nuôi ngắn hơn do các vèo nuôi chủ yếu được đặc trên sông, kênh vào 
 106 
mùa nước nổi và tận dụng nguồn thức ăn vào mùa lũ (Trần Văn Việt, 2015). Do 
vậy, vào cuối mùa lũ khi mực nước thấp và chất lượng nước xấu đi buộc người 
nuôi phải thu hoạch cá. Trong khi đó, ở hình thức nuôi ao thì người nuôi không 
phụ thuộc vào mực nước triều nên thời gian nuôi sẽ dài hơn. 
Bảng 4.16: Khía cạnh kỹ thuật của mô hình nuôi cá thát lát còm 
Chỉ tiêu Nuôi ao (n = 19) Nuôi vèo (n = 9) 
Tổng diện tích nuôi (m2) 1.242 ± 1.701 21±7,97 
Độ sâu mực nước (m) 1,68±0,32 1,56±0,17 
Mật độ thả nuôi (con/m2) 7,55±6,84 65,2±44,2 
Kích cỡ thả nuôi (cm/con) 7,76±1,96 9,11±1,69 
Thời gian nuôi (ngày) 237±61 157±39 
FCR 4,7±0,53 4,89±0,42 
Kích cỡ thu hoạch (con/kg) 2,58±0,85 2,83±0,79 
Năng suất (kg/m2/vụ) 1,21±0,85 13,1±8,58 
Tỷ lệ sống 68,3±22,8 63,9±18,9 
Trung bình ± độ lệch chuẩn; n: số nông hộ 
 Hệ số tiêu tốn thức ăn FCR ở cả hai hình thức nuôi là giống nhau, dao 
động từ 4 – 5,5, tương đương với kết quả của Đặng Thị Thu Thảo (2014) hệ số 
tiêu tốn thức ăn của cá thát lát còm ở cả 2 hình thức nuôi dao động từ 4,5 – 5,5. 
Mật độ độ thả nuôi ở cả hai hình thức nuôi khác nhau nên năng suất nuôi cũng 
khác nhau. Hình thức nuôi vèo có năng suất trung bình 13,1 kg/ m2 cao hơn so 
với hình thức nuôi ao 1,21 kg/ m2 trong khi đó tỷ lệ sống ở cả hai hình thức nuôi 
không có sự chênh lệch lớn. Các nghiên cứu khác cũng cho thấy năng suất trung 
bình của cá thát lát còm khi nuôi ao dao động từ 2,27 - 3,8 kg/ m2 và vèo là 14,9 - 
30,0 kg/ m2 tỷ lệ sống dao động từ 53 – 80% (Đặng Thị Thu Thảo, 2014; Trần 
Văn Việt, 2015). 
4.2.3.2 Hiệu quả tài chính của mô hình nuôi cá thát lát 
Các yếu tố kỹ thuật của các hộ nuôi cá thát lát ở Hậu Giang được thể hiện ở 
Bảng 4.17. Kết quả trên cho thấy khả năng đầu tư ở cả hai hình thức nuôi có sự 
khác biệt lớn. Tổng chi phí đầu tư ở hình thức nuôi vèo trung bình 809 ngàn 
 107 
đ/m2/vụ cao hơn so với nuôi ao (62,3 ngàn đ/m2/vụ), trong khi đó thu nhập trung 
bình 772 ngàn đ/m2/vụ (nuôi vèo) và 70,9 ngàn đ/m2/vụ (nuôi ao). Do vậy, tỷ lệ 
thua lỗ ở nuôi vèo (56%) cao hơn nuôi ao (26%). Kết quả trong nghiên cứu này 
thấp hơn nghiên cứu của Đặng Thị Thu Thảo (2014) có chi phí đầu tư ở hình thức 
nuôi ao trung bình 1.778 ngàn đ/m2/vụ và nuôi vèo 109 ngàn đ/m2/vụ, thu nhập 
trung bình nuôi ao là 2.140 ngàn đ/m2/vụ và nuôi vèo 142 ngàn đ/m2/vụ, tỷ lệ 
thua lỗ 13,4%. 
Bảng 4.17: Các yếu tố tài chính của mô hình nuôi cá thát lát 
Chỉ tiêu Nuôi ao (n = 19) Nuôi vèo (n = 9) 
Giá bán (ngàn đ/kg) 55,9±9,96 57,6±9,65 
Tổng chi phí cố định (ngàn đ/m2/vụ) 0,77±0,6 228±126 
Chi phí khấu hao (ngàn đ/m2/vụ) 0,15±0,12 114±63,1 
Tổng chi biến đổi (ngàn đ/m2/vụ) 61,2±50,8 695±437 
Tổng thu (ngàn đ/m2/vụ) 70,9±54,3 772±508 
Tổng chi (ngàn đ/m2/vụ) 61,2±50,8 809±457 
Lợi nhuận (ngàn đ/m2/vụ) 9,75±19,7 -36,5±135 
Số hộ lỗ (%) 26 56 
Trung bình ± độ lệch chuẩn; n: số nông hộ 
Ở hình thức nuôi vèo có tỷ lệ thua lỗ cao so với nuôi ao do vèo chủ yếu 
được đặt trên sông, kênh nên mực nước trong vèo phụ thuộc vào triều và có biên 
độ dao động lớn trong ngày, đồng thời chất lượng nước khó kiểm soát, đặc biệt 
việc phòng và trị bệnh cho cá gặp nhiều khó khăn, mật độ thả nuôi cao (từ 18 – 
125 con/m2), kích cỡ cá thu hoạch nhỏ (2,83 con/kg) do không thể kéo dài thời 
gian nuôi khi lũ rút. Những nguyên nhân trên đã góp phần làm cho tỷ lệ thua lỗ ở 
hình thức nuôi này cao hơn so với hình thức nuôi ao. Ngoài ra chưa nắm rõ qui 
trình kỹ thuật nuôi cùng với sự thay đổi của chất lượng nước ngày càng xấu đi, 
các yếu tố thời tiết bất lợi là những nguyên nhân góp phần ảnh hưởng đến hiệu 
quả sản xuất và làm tăng tỷ lệ thua lỗ của người nuôi. 
Cơ cấu chi phí ở cả 2 hình thức nuôi tương tự nhau (Bảng 4.18). Chi phí 
thức ăn chiếm phần lớn trong cơ cấu chi phí dao động từ 64,9 – 66,6%, kế đến là 
chi phí con giống chiếm từ 21 – 30,3%. 
 108 
Đối với hình thức nuôi vèo chi phí khấu hao chiếm 14,1% cao hơn so với 
hình thức nuôi ao (0,25%) do vèo nuôi chủ yếu được làm bằng lưới nên có thời 
gian sử dụng 1 – 2 năm, với mô hình nuôi ao người nuôi thường tận dụng những 
ao sẳn có. 
Bảng 4.18: Cơ cấu chi phí trong mô hình nuôi cá thát lát còm 
Yếu tố (%) Cải tạo Giống Thức ăn Thuốc, hóa chất Khấu hao 
Nuôi ao 0,98 30,3 66,6 1,88 0,25 
Nuôi vèo 0 21 64,9 0 14,1 
 4.2.3.3 Nhận thức, ảnh hưởng và giải pháp ứng phó với BĐKH của 
người nuôi cá thát lát còm trong thời gian qua 
Những yếu tố thời tiết thay đổi thời gian qua theo xu hướng ngày càng khắc 
nghiệt đã tác động không nhỏ đến các hoạt động NTTS. Kết quả khảo sát về nhận 
thức của người nuôi cá thát lát còm trong thời gian qua cho thấy có 92,9% số hộ 
cho rằng thời tiết hiện nay đã thay đổi nhiều so với trước đây. Các yếu tố được 
người nuôi nhận thấy đã thay đổi và ảnh hưởng đến mô hình nuôi như sự thay đổi 
của mùa mưa, lượng mưa, nhiệt độ và mực nước triều (Hình 4.15). Nhận định về 
xu thế biến đổi của các yếu tố thời tiết thì 53,6% số hộ cho rằng mùa mưa ngày 
càng đến trễ; 39,3% hộ cho rằng lượng mưa ngày càng lớn; 39,3% hộ cho rằng 
mùa lạnh ngày càng ngắn; 85,7% hộ cho rằng nhiệt độ ngày càng cao và 42,9% 
cho rằng mực nước ngày càng thấp đi. 
 a. Nhận thức, ảnh hưởng và giải pháp của người nuôi về xâm nhập mặn 
 Xâm nhập mặn là một trong những hậu quả của do tác động của BĐKH. 
Theo Tổng cục Môi trường (2010) quá trình XNM bị chi phối bởi lượng nước lớn 
từ sông Mekong và thủy triều của biển. Do mùa khô ở ĐBSCL kéo dài từ 6 – 7 
tháng với lượng nước mùa khô thấp chiếm khoảng từ 15 – 25% lượng nước cả 
năm nên dễ xảy ra tình trạng XNM. Xâm nhập mặn có ảnh hưởng lớn đến nghề 
nuôi thủy sản nội đồng nói chung, đặc biệt là các đối tượng nuôi nước

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_tac_dong_cua_xam_nhap_man_va_kha_nang_thi.pdf
  • docThongtinlanan_en.doc
  • docThongtinlanan_vi.doc
  • pdfTomtatluanan-en.pdf
  • pdfTomtatluanan-vi.pdf