Luận án Nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong các chương trình giảm nghèo vùng Tây Bắc

Luận án Nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong các chương trình giảm nghèo vùng Tây Bắc trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong các chương trình giảm nghèo vùng Tây Bắc trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong các chương trình giảm nghèo vùng Tây Bắc trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong các chương trình giảm nghèo vùng Tây Bắc trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong các chương trình giảm nghèo vùng Tây Bắc trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong các chương trình giảm nghèo vùng Tây Bắc trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong các chương trình giảm nghèo vùng Tây Bắc trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong các chương trình giảm nghèo vùng Tây Bắc trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong các chương trình giảm nghèo vùng Tây Bắc trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong các chương trình giảm nghèo vùng Tây Bắc trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 212 trang nguyenduy 02/10/2025 100
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong các chương trình giảm nghèo vùng Tây Bắc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong các chương trình giảm nghèo vùng Tây Bắc

Luận án Nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong các chương trình giảm nghèo vùng Tây Bắc
40%. Đầu tư vào thủy lợi còn quá 
thiên vào các hoạt động xây lắp, chưa chú trọng vào giai đoạn duy tu bảo dưỡng, 
chưa phát triển nhân lực và quy định để quản lý và sử dụng công trình (như quy 
chế dùng nước, nhóm hộ dùng nước). Bên cạnh đó, điều kiện địa hình chia cắt, 
điều kiện khí hậu khắc nghiệt, thường xuyên phải chống chịu với thiên tai, bão lũ, 
sụt lở đất. Do đó, còn nhiều diện tích đất canh tác của các bản, xã vùng DTTS 
chưa có mạng lưới tưới tiêu, chủ yếu phụ thuộc vào nước tự nhiên. Khu vực miền 
núi Tây Bắc hiện đang là khu vực có tỷ lệ diện tích đất canh tác được tưới tiêu 
thấp nhất trên cả nước với 11%. Vì vậy, để phát triển bền vững thủy lợi trong 
giảm nghèo cần chú ý vấn đề trên. 
4.1.3.2. Kết quả hỗ trợ đất sản xuất nông lâm nghiệp 
Hỗ trợ đất sản xuất nông lâm nghiệp trong giảm nghèo được thực hiện theo 3 
chương trình: 30a, 135 và Quyết định 2085 với các nội dung: (i) Trồng rừng thay 
thế nương rẫy, (ii) Hỗ trợ tạo ruộng bậc thang, khai hoang tạo đất sản xuất, (iii) Hỗ 
trợ đất trực tiếp sản xuất, (iv) Tự nhận quyền chuyển nhượng đất sản xuất, (v) Hỗ 
trợ chuyển đổi ngành nghề sản xuất. Riêng các hộ đã được hưởng các chính sách hỗ 
trợ theo Nghị định số 75/2015/NĐ-CP của Chính phủ về bảo vệ phát triển rừng 
ngắn không được hưởng chính sách hỗ trợ đất sản xuất và chuyển đổi nghề theo 
Quyết định 2085. 
Mặc dù sinh kế gắn với nông lâm nghiệp là chủ yếu, nhưng tình trạng không 
có hoặc thiếu đất sản xuất đang diễn ra phổ biến đối với người dân vùng miền núi 
và cộng đồng các DTTS. Hỗ trợ đất ở, đất sản xuất là một trong những vấn đề quan 
trọng nhất để giảm nghèo bền vững nhưng tình trạng thiếu đất ở và đất sản xuất còn 
nhiều ở vùng Tây Bắc (Phan Xanh, 2019). Theo số liệu điều tra thực trạng kinh tế - 
xã hội 53 DTTS, có đến 68,5% hộ DTTS có nhu cầu cần thêm đất để sản xuất. Số 
hộ thiếu đất sản xuất, cần hỗ trợ trên cả nước: 54.193 hộ chủ yếu ở vùng Tây Bắc 
(Chính phủ, 2019b). Trong đó có nhiều nhóm dân tộc ở Tây Bắc có trên 80% số hộ 
thiếu đất sản xuất (Ủy ban Dân tộc, 2019b). Nếu không có những cơ chế, chính sách 
hỗ trợ kịp thời để chuyển đổi cơ cấu lao động, đa dạng hóa các loại hình sinh kế cho 
người nghèo thì rất khó được các mục tiêu phát triển bền vững ở vùng Tây Bắc. 
83 
Bảng 4.15. Kết quả thực hiện hỗ trợ đất sản xuất tại Lào Cai và Sơn La (2016-2018) 
Chỉ tiêu ĐVT 
Sơn La Lào Cai 
Số 
lượng 
Kinh 
phí 
(Trđ) 
Số 
lượng 
Kinh 
phí 
(Trđ) 
+ Trồng rừng thay thế nương rẫy, khoán khoanh 
nuôi bảo vệ 
Ha 87.399 13.674 15.227 10.543 
+ Hỗ trợ tạo ruộng bậc thang, khai hoang tạo đất 
sản xuất 
Ha 338,5 4.821,2 217 2.240 
+ Hỗ trợ đất trực tiếp sản xuất Ha 11 5.832 7 5.200 
+ Tự nhận quyền chuyển nhượng đất sản xuất Hộ 515 21.921 873 32.009 
+ Hỗ trợ chuyển đổi ngành, nghề sản xuất tạo 
thu nhập 
Hộ 2.321 89.762 3.515 112.216 
Theo Báo cáo của Sở LĐTB&XH tỉnh Sơn La và Lào Cai (2017, 2018, 2019), 
mức độ đáp ứng và cải thiện đất sản xuất chưa thỏa đáng. Các hoạt động hỗ trợ chủ 
yếu là trồng rừng thay thế nương rẫy, khoán khoanh nuôi bảo vệ. Hỗ trợ tạo ruộng 
bậc thang chưa được thực hiện tại ở hầu hết các tỉnh vùng Tây Bắc trong giai đoạn 
2016-2018. Kết quả báo cáo của chính phủ cũng cho thấy trên cả nước mới chỉ có 
rất ít địa phương thực hiện các hoạt động này, trong đó có 2 tỉnh ở vùng Tây Bắc là 
Yên Bái và Sơn La (Bảng 4.15). 
Nguyên nhân của kết quả nêu trên do những bất cập ở khâu ban hành chính 
sách và tổ chức thực hiện do hạn chế về nguồn lực từ cấp trung ương đến địa 
phương dẫn đến một số nội dung hỗ trợ không được thực hiện, nếu thực hiện thì 
nhỏ lẻ hoặc hình thức. 
Ví dụ như đối với hỗ trợ đất theo Nghị định 75, theo Thông tư liên tịch của 
Bộ tài chính-Bộ Nông nghiệp và PTNT về hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng kinh 
phí từ nguồn kinh phí sự nghiệp thực hiện và bảo vệ phát triển rừng giai đoạn 2011-
2020 và Nghị định 168/2016/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2016 về quy định thời 
hạn khoán công việc, dịch vụ bảo vệ rừng không quá một năm. Trong khi các chính 
sách về vay vốn lại yêu cầu hộ gia đình tham gia bảo vệ rừng phải ổn định, lâu dài. 
Nội dung khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên thực hiện thông 
qua hợp đồng khoán, thời hạn hợp đồng là hàng năm. Các hộ được hỗ trợ vay vốn 
tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất thông qua hợp đồng nêu trên. Tuy nhiên, ở 
các địa bàn khảo sát vùng Tây Bắc, các địa phương không thực hiện được nội dung 
vay vốn tín dụng ưu đãi vì các ngân hàng không chấp nhận thế chấp hợp đồng 
khoán có thời gian 1 năm. Vì vậy, các nội dung hỗ trợ đất rừng theo Nghị định 75 
mới chỉ được thực hiện nội dung giao khoán bảo vệ rừng, vay vốn, tín dụng để phát 
84 
triển rừng không được thực hiện (Lào Cai, Yên Bái, Sơn La) vì hộ không có tài sản 
thế chấp. 
Nội dung hỗ trợ tạo ruộng bậc thang theo 30a và 135 và hỗ trợ đất trực tiếp 
cho sản xuất theo Quyết định 2085 không được thực hiện tại các địa phương vì 
thiếu ngân sách từ cấp trung ương đến cấp tỉnh. Quyết định 2085 ban hành năm 
2016 nhưng đến thời điểm hết năm 2018, trung ương vẫn chưa phân bổ được ngân 
sách để thực hiện chính sách (Ủy ban dân tộc, 2019). Nguồn quỹ đất để cấp cho các 
hộ gồm 3 nguồn chính là mua lại các hộ không có nhu cầu sản xuất, quỹ đất của ủy 
ban nhân dân các cấp và đất nông lâm trường. Hiện nay, quỹ đất của các địa phương 
không còn. Vùng Tây Bắc, hiện chỉ còn khoảng 10% quỹ đất để giao cho người dân 
nhưng chất lượng đất không tốt để sản xuất nông nghiệp. Trước đây nhiều hộ đã bị 
thu đất để giao cho nông lâm trường, mặc dù các nông lâm trường không hoạt động 
hiệu quả nhưng người dân thiếu đất sản xuất vẫn không được cấp lại. Do đó, trong 
giai đoạn 2016-2018, nội dung hỗ trợ đất sản xuất mới chỉ được thực hiện thông qua 
hoạt động tự chuyển nhượng, mua lại các hộ, ưu đãi tín dụng, chuyển đổi ngành 
nghề (Bảng 4.15). 
Để thực hiện hỗ trợ đất sản xuất trong thời gian tới Bộ Nông nghiệp và 
PTNT cần tiếp tục rà soát đất nông lâm trường không hiệu quả. Bên cạnh đó, cần 
phân chia các đối tượng thiếu đất sản xuất theo nhóm các nguyên nhân bởi vì có 
vùng thiếu đất do tăng dân số tự nhiên và do dân di cư đến nhưng cũng có tình trạng 
người dân có đất đã bán và sau đó lại đi phá rừng để làm rẫy, riêng nhóm này thì 
nếu cấp bao nhiêu cũng không đủ. 
4.1.3.3. Kết quả hỗ trợ đầu vào sản xuất nông nghiệp 
Năm 2016 và 2017, tiến độ thực hiện Chương trình 135 ở cả hai tỉnh nghiên 
cứu sâu đều bị chậm vì chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết thực hiện của UBND 
tỉnh. Tại Sơn La, ngân sách trung ương bố trí 44.131 triệu đồng cho hoạt động hỗ 
trợ sản xuất. Các huyện, thành phố đã duyệt phương án hỗ trợ sản xuất và danh sách 
các hộ thuộc diện được hỗ trợ của cấp xã, tuy nhiên, các huyện, thành phố mới giải 
ngân thanh toán được 11.954 triệu đồng, đạt 23% kế hoạch vốn giao. Đặc biệt là dự 
án nhân rộng mô hình giảm nghèo chưa được thực hiện do chậm hướng dẫn và 
vướng mắc về quy trình, thủ tục thanh quyết toán. 
Đối với các nội dung hỗ trợ theo 135 và ngoài 30a và 135 bị chậm tiến độ năm 
2016 và 2017, tại Sơn La, ngân sách trung ương hỗ trợ 4.936 triệu đồng; Sở NN và 
85 
PTNT đã tham mưu trình UBND tỉnh phân bổ kinh phí mua vacxin tiêm phòng cho 
gia súc trên địa bàn tỉnh với kinh phí 3.245 triệu đồng. Hỗ trợ sản xuất có kinh phí 
1.691 triệu đồng. Tuy nhiên, do UBND tỉnh chưa ban hành định mức hỗ trợ sản 
xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo cụ thể nên Sở NN và 
PTNT đã có văn bản đề nghị Sở Kế hoạch và Đầu tư trình UBND tỉnh điều chuyển 
nguồn vốn thực hiện sang năm 2017. Dự án nhân rộng mô hình giảm nghèo chưa 
thực hiện được trên địa bàn. 
Kết quả hỗ trợ ở cả hai tỉnh nghiên cứu sâu chỉ ra, hiện nay các hoạt động hỗ 
trợ đầu vào và vật tư chiếm tỷ trọng cao nhất, cao gấp nhiều lần so với các hoạt 
động khác. Trong đó, hỗ trợ giống cây trồng vật nuôi chiếm tỷ lệ cao nhất trong 
tổng số hỗ trợ đầu vào. Như vậy, kết quả này cho thấy, nội dung hỗ trợ chưa có sự 
khác biệt so với các giai đoạn trước đây. Hiện các chương trình PTNN trong giảm 
nghèo vẫn đang đẩy mạnh việc tăng năng suất, đầu ra cho sản phẩm mà chưa tính 
đến hiệu quả kinh tế mang lại, chưa gắn với thị trường (Sở LĐTB và XH tỉnh Sơn 
La, Lào Cai (2017, 2018, 2019). 
Bảng 4.16. Kết quả thực hiện hỗ trợ đầu vào tại Lào Cai và Sơn La (2016-2018) 
Chỉ tiêu 
Sơn La Lào Cai 
Số lượng 
(lượt hộ) 
Kinh phí 
(Trđ) 
Số lượng 
(lượt hộ) 
Kinh phí 
(Trđ) 
+ Giống cây trồng, vật nuôi 10.616 90.311,7 40.317 148.445 
+ Hỗ trợ chuồng trại 1.332 23.108 1.182 562 
+ Trồng cỏ - 596 1.620 1.614 
+ Tiêm vacxin - 15.410,2 - - 
+ Nuôi thủy sản - - 277 621 
+ Máy móc sản xuất 930 3.764 6.526 14.004 
Đặc biệt, hỗ trợ đầu vào theo hình thức ban phát, cho không vẫn còn được thực 
hiện trong giai đoạn 2009-2018, theo Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg của Chính phủ 
ngày 07 tháng 08 năm 2009 về Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ 
nghèo ở vùng khó khăn, phát đầu vào như cây giống, vật nuôi, thức ăn chăn nuôi, phân 
bón trực tiếp cho hộ gia đình. Hỗ trợ theo hình thức này gây tâm lý ỷ lại. Hơn nữa, hỗ 
trợ đầu vào theo hình thức này vi phạm những quy định của WTO và cam kết khi tham 
gia các tổ chức thương mại của khu vực và thế giới. Chính vì vậy, Quyết định 102 đã 
được dừng lại vào năm 2018. 
Như vậy, trong thời gian tới, để thực hiện hiệu quả hỗ trợ đầu vào theo các dự án 
cần tổ chức nâng cao năng lực lập kế hoạch và giải ngân theo các quy trình của Luật đầu tư 
công, Luật đấu thầu cho cán bộ từ cấp huyện đến cấp xã và thôn bản. 
86 
4.1.3.4. Kết quả hỗ trợ theo lĩnh vực sản xuất nông nghiệp 
Lĩnh vực hỗ trợ chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi ở cả hai tỉnh nghiên cứu sâu. 
Tuy nhiên, hình thức hỗ trợ chủ yếu là các loại giống cây trồng vật nuôi và các loại vật 
tư phân bón, thức ăn chăn nuôi. Hỗ trợ về thủy sản chiếm tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu hỗ trợ. 
Hỗ trợ về phát triển và bảo vệ rừng theo Nghị định 75 cũng ở mức nhỏ lẻ. Tây Bắc là 
vùng có tỷ lệ diện tích rừng cao nhất trên cả nước, tuy nhiên, các dự án giảm nghèo 
chưa được thiết kế các phương thức sinh kế dựa vào rừng. 
Bảng 4.17. Kết quả hỗ trợ theo lĩnh vực sản xuất nông nghiệp 
Chỉ tiêu ĐVT Sơn La Lào Cai 
Số lượng Kinh phí (Trđ) Số lượng Kinh phí (Trđ) 
1. Trồng trọt Lượt hộ 14.912 99.079 71.471 90.684 
2. Chăn nuôi Lượt hộ 7.660 95.434,9 15.112 59.546 
3. Rừng Ha 87.399 13.674 15.227 10.543 
4. Thủy sản Hộ - - 277 621 
Trong thời gian tới cần đẩy mạnh hỗ trợ đa dạng hóa sinh kế dựa vào rừng, 
vốn là lợi thế của Tây Bắc. 
4.1.3.5. Kết quả hỗ trợ kiến thức và mô hình sản xuất 
Tính cả giai đoạn 2016-2018, các tỉnh vùng miền núi DTTS trên cả nước đã 
thực hiện với ngân sách nhà nước hỗ trợ từ Chương trình 30a là 2.403,374 tỷ đồng, 
Chương trình 135 là 2.195,845 tỷ đồng cho các hoạt động đa dạng hóa sinh kế và hỗ 
trợ sản xuất. Trong giai đoạn thực hiện được trên 500 dự án hỗ trợ PTSX và nhân 
rộng mô hình giảm nghèo (30a) và 4.250 dự án hỗ trợ PTSX (135) với mỗi xã một dự 
án. Hỗ trợ chuyển giao khoa học, kỹ thuật, khuyến nông với hơn 5000 người nghèo 
tham gia (30a) và 102.587 người nghèo tham gia ở Chương trình 135. 
Đối với nội dung mô hình giảm nghèo tập trung vào 3 mô hình: mô hình giảm 
nghèo ở các vùng đặc thù, mô hình giảm nghèo liên kết giữa người nghèo với doanh 
nghiệp, mô hình giảm nghèo gắn với củng cố an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, kết 
quả hỗ trợ ở mức thấp và chậm tiến độ. 
Bảng 4.18. Kết quả thực hiện hỗ trợ kiến thức và mô hình sản xuất tại Lào Cai 
và Sơn La (2016-2018) 
Chỉ tiêu ĐVT 
Sơn La Lào Cai 
Số 
lượng 
Kinh phí 
(Trđ) Số lượng 
Kinh phí 
(Trđ) 
1. Mô hình Hộ 1.494 66.296 3.917 6.630,89 
2. Tập huấn khuyến nông, lâm, ngư Lượt người 8.189 30.902 7.946 4.559 
3. Tham quan mô hình Mô hình 33 40 
87 
4.1.3.6. Kết quả hỗ trợ tiếp cận thị trường và tiêu thụ sản phẩm 
Các hỗ trợ theo chuỗi phát triển nông nghiệp chưa được thể hiện rõ theo như 
mục tiêu của Chương trình MTQG GNBV 2016-2020. Các chính sách hỗ trợ PTNN 
đang chú trọng hỗ trợ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp chưa có cú huých đột phá 
cho đầu ra. Ví dụ như chanh leo, táo mèo của hộ dân ở Sơn La có năng suất cao và 
chất lượng quả tốt nhưng giá bán thấp và thậm chí gặp khó khăn trong tiêu thụ vì 
chưa có được đầu ra. Các hoạt động hỗ trợ đầu ra hiện nay chủ yếu tập trung ở 
Chương trình MTQG nông thôn mới, đối với CTGN chỉ dừng lại ở một vài hoạt 
động đơn lẻ như hỗ trợ liên kết, hỗ trợ tư vấn xây dựng thương hiệu sản phẩm. 
Bảng 4.19. Kết quả thực hiện tiếp cận thị trường và tiêu thụ sản phẩm tại 
Lào Cai và Sơn La (2016-2018) 
Chỉ tiêu ĐVT 
Sơn La Lào Cai 
Số 
lượng 
Kinh phí 
(Trđ) 
Số 
lượng 
Kinh phí 
(Trđ) 
+ Xúc tiến thương mại quảng bá sản 
phẩm nông lâm nghiệp 
Huyện 3 500 - - 
+ Xây dựng nhãn hiệu sản phẩm (nấm) Hộ 570 1.470 
4.1.3.7. Kết quả hỗ trợ phát triển hình thức tổ chức 
Việc triển khai các chính sách hỗ trợ PTNN đã góp phần tác động tới sự phát 
triển của các tổ chức kinh tế ở vùng Tây Bắc như doanh nghiệp, trang trại, hợp tác xã. 
Số doanh nghiệp ở vùng Tây Bắc tăng nhanh từ 2.393 doanh nghiệp năm 2005 
lên tới 10.143 doanh nghiệp vào năm 2018 (gấp 4,3 lần). Có tới 47% số doanh 
nghiệp được thành lập vào giai đoạn 2006-2010 và 37% số doanh nghiệp được 
thành lập giai đoạn 2011-2015. Có được sự phát triển là do các doanh nghiệp bước 
đầu đã tiếp cận được các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp để giảm nghèo. 
Các doanh nghiệp đã được nhận hỗ trợ về thuế, hỗ trợ đào tạo, hỗ trợ về đất đai, vay 
ưu đãi PTSX, chuyển giao kỹ thuật và công nghệ, xúc tiến thương mại. Trong khi 
đó, các HTX nhận được hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng cán bộ HTX, quỹ phát triển HTX, 
ứng dụng KHCN. Kết quả khảo sát HTX của 2 tỉnh đại diện ở vùng Tây Bắc cho 
thấy: tuy mức độ đánh giá của các tỉnh có khác nhau nhưng các HTX đều đánh giá 
rằng: tác động mạnh nhất đến sự phát triển HTX là chính sách phát triển cơ sở hạ 
tầng, đào tạo nghề, bồi dưỡng cán bộ HTX. Các chính sách tác động chưa nhiều đến 
sự phát triển HTX gồm hỗ trợ phát triển thương mại, tiêu thụ sản phẩm, ứng dụng 
KHCN, tiếp cận tới các chương trình mục tiêu phát triển KTXH ở địa phương. 
88 
Theo số liệu Tổng cục Thống kê (2006, 2011, 2016, 2019), số lượng trang trại 
tăng từ 284 năm 2015 và 878 năm 2018. Các tỉnh nhiều trang trại như Sơn La, Lào 
Cai, Hòa Bình. Các trang trại chăn nuôi tập trung và thủy sản (cá hồi, cá tầm, cá tiếu 
bạc) như ở Lào Cai, chăn nuôi và trồng cam, trồng chanh ở Hòa Bình đã phát huy 
được thế mạnh về chăn nuôi của vùng. Ở Cao Phong, Tân Lạc, Kim Bôi, Lạc Sơn 
(Hòa Bình), một số trang trại sản xuất cam, chanh, mía, lạc và chăn nuôi đã hình 
thành và phát huy hiệu quả thông qua hình thức tích tụ đất bằng việc nông dân góp 
đất và công để cùng nhà đầu tư làm trang trại. Sự phát triển trang trại này đã tạo ra 
sự phát triển hàng hóa mà không cần phải chuyển đổi ruộng đất. 
Bảng 4.20. Số lượng các tổ chức kinh tế đang hoạt động Tây Bắc (2005-2018) 
Tỉnh/Vùng 
2005 2010 2015 2018 
SL 
 (cơ sở) 
Tỷ lệ 
(%) 
SL 
 (cơ sở) 
Tỷ lệ 
(%) 
SL 
 (cơ sở) 
Tỷ lệ 
(%) 
SL 
 (cơ sở) 
Tỷ lệ 
(%) 
1. Doanh nghiệp 
Lào Cai 638 26,66 810 18,14 1.345 20,22 2.582 25,46 
Sơn La 333 13,92 657 14,71 1.124 16,90 1.728 17,04 
Cả vùng Tây Bắc 2.393 2,12 4.465 1,60 6.652 1,50 10.143 1,42 
Cả nước 112.950 100 279.360 100 442.485 100 714.755 100 
2. HTX 
Lào Cai 98* 12,0 74 11,67 78 11,21 92 14,79 
Sơn La 53* 7,0 45 7,10 81 11,64 120 19,29 
Cả vùng Tây Bắc 814* 6,0 634 5,32 696 5,41 622 4,72 
Cả nước 13.532* 100 11.924 100 12.866 100 13.171 100 
3. Trang trại 
Lào Cai 129 8,30 252 16,95 76** 26,76 295 33,60 
Sơn La 120 7,72 114 7,67 48** 16,90 337 38,38 
Cả vùng Tây Bắc 1.554 1,36 1.487 1,02 284** 0,97 878 2,77 
Cả nước 114.362 100 145.880 100 29.389** 100 31.668 100 
* Số liệu năm 2008 
** Thay đổi tiêu chí xác định trang trại, số trang trại giảm trên cả nước 
Tuy nhiên, sự phát triển các doanh nghiệp bộc lộ một số bất cập sau: 1) Số lượng 
doanh nghiệp còn ít và nhỏ về vốn đầu tư. Tây Bắc chiếm 1,42% trong tổng số doanh 
nghiệp của cả nước chiếm 2% tổng vốn đăng ký đầu tư trên toàn quốc, thu hút đầu tư 
nước ngoài thấp; 2) Chưa đầy 10% số doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, trong khi 
nông lâm nghiệp là một thế mạnh của vùng Tây Bắc. Hơn 45% số doanh nghiệp tập 
trung đầu tư vào xây dựng. Các doanh nghiệp này chủ yếu trông chờ các cơ hội để thầu 
khoán, làm hạ tầng cho xây dựng nông thôn mới, hạ tầng cho các CTGN ở các địa 
phương. Các doanh nghiệp nông nghiệp chủ yếu tập trung ở các tỉnh như Lào Cai, Hòa 
Bình, sản xuất rau, hoa, quả, dược liệu, Sơn La (sản xuất rau, quả, chăn nuôi); 3) Các 
doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Tỷ lệ doanh nghiệp bình quân đầu người của 
vùng chỉ đạt 13 doanh nghiệp/1 vạn dân. Tình trạng trên là do 38% đến 84% số doanh 
89 
nghiệp ở Tây Bắc, nhất là ở vùng sâu và xa, các huyện nghèo, xã nghèo, xã biên giới 
chưa tiếp cận được tới các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ. Do đó, cần 
phải làm tốt thông tin tuyên truyền về các chính sách hỗ trợ đào tạo, đất kinh doanh, 
xúc tiến thương mại và hỗ trợ về thuế để doanh nghiệp phát triển. Ngay cả những 
doanh nghiệp đã được tiếp cận tới các chính sách hỗ trợ, cũng cho rằng chất lượng 
các hoạt động hỗ trợ đào tạo, tín dụng và chuyển giao công nghệ chưa được tốt. Mặt 
khác, có tới gần 65% số doanh nghiệp khó khăn về giao thông và trên 25% số 
doanh nghiệp có khăn về điện (Điều tra trang trại, 2015, 2019). 
Sự phát triển của trang trại ở Tây Bắc bộc lộ một số điểm sau: 1) nhỏ bé về 
diện tích, giá trị sản phẩm và giá trị hàng hóa thấp. Kết quả khảo sát cho thấy, gần 
84% số trang trại ở các tỉnh trong vùng và 81,5% số trang trại của cả nước không 
đáp ứng được các tiêu chí trang trại như quy định tại Thông tư số 27/2011/TT-
BNNPTNT ngày 13/4/2011 của Bô ̣ Nông nghiêp̣ và PTNT. Một số tỉnh như Lai 
Châu, Điện Biên, Yên Bái có rất ít trang trại. Điều này phản ánh một thực tế là đòi 
hỏi phải xem xét lại tiêu chí trang trại sao cho phù hợp. Số lượng trang trại của cả 
vùng chỉ chiếm 2,77% so với cả nước. Như vậy, tiềm năng về phát triển lâm nghiệp, 
cây đặc sản như chè, cây ăn quả, rau, thực phẩm, dược liệu của vùng chưa được 
khai thác hết tiềm năng. 
Số lượng các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, trang trại và HTX của vùng Tây 
Bắc cũng như các tỉnh có xu hướng tăng nhanh tuy nhiên, cơ cấu trong tổng số tổ 
chức kinh tế của cả nước lại có xu hướng giảm. Các chính sách hỗ trợ PTNN trong 
giảm nghèo thời gian tới cần tập trung hơn nữa trong hỗ trợ phát triển các doanh 
nghiệp nhằm tạo lực kéo giúp hộ thoát nghèo bởi vì chỉ khi các tổ chức kinh tế tại 
địa phương phát triển giúp tiêu thụ sản phẩm và cung cấp đầu vào tốt cho nông 
nghiệp, cơ hội thoát nghèo tăng cao. Điện Biên, Sơn La và Lai Châu là ba tỉnh có tỷ 
lệ các tổ chức kinh tế thấp nhất trên địa bàn vùng Tây Bắc và cũng là ba tỉnh có tỷ 
lệ hộ nghèo cao nhất của vùng. Như vậy, cần thiết đẩy mạnh hỗ trợ phát triển các tổ 
chức kinh tế ở các tỉnh này trong thời gian tới. 
4.1.4. Ảnh hưởng của thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong 
các chương trình giảm nghèo 
4.1.4.1. Ảnh hưởng đến kinh tế nông nghiệp của vùng Tây Bắc 
a. Ảnh hưởng đến năng suất/sản lượng cây trồng 
Nhờ những hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, diện tích và sản lượng cây 
trồng chính là lúa và ngô vùng Tây Bắc tăng qua các năm, trong đó, Sơn La là tỉnh 
có tốc độ tăng và sản lượng lớn nhất (Tổng Cục Thống Kê, 2018). 
90 
Bảng 4.21. Diện tích, sản lượng lúa và ngô của Vùng Tây Bắc (2010-2018) 
Khu vực/Tỉnh 2010 2015 2018 
Lúa Ngô Lúa Ngô Lúa Ngô 
1. Năng suất (tạ/ha) 
Cả nước 53,4 41,1 57,6 44,8 58,1 47,2 
Lào Cai 42,6 32,7 48,9 36,2 51,5 40,3 
Sơn La 33,0 31,5 34,0 36,8 26,0 41,3 
2. Sản lượng (000 tấn) 
Vùng Tây Bắc 924,1 847,2 1.038,6 1.119,1 1.101,7 1.015,8 
Cả nước 40.005,6 4.625,7 45.091,0 5.287,2 43.979,2 4.905,9 
Tây Bắc/cả nước (%) 2,31 18,3

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_thuc_hien_chinh_sach_ho_tro_phat_trien_no.pdf
  • pdfKTNN - TTLA - Nguyen Thi Thiem.pdf
  • pdfTTT - Nguyen Thi Thiem.pdf