Luận án Nghiên cứu thực nghiệm, đánh giá vai trò của một số loài thực vật thủy sinh và đề xuất giải pháp sinh học nhằm cải thiện chất lượng môi trường nước sông Nhuệ

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu thực nghiệm, đánh giá vai trò của một số loài thực vật thủy sinh và đề xuất giải pháp sinh học nhằm cải thiện chất lượng môi trường nước sông Nhuệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu thực nghiệm, đánh giá vai trò của một số loài thực vật thủy sinh và đề xuất giải pháp sinh học nhằm cải thiện chất lượng môi trường nước sông Nhuệ

Đối chiếu với các kết quả công bố của Chương trình quốc gia quan trắc chất lượng nước sông Nhuệ [45], ngoại trừ hàm lượng KLN Zn đợt 3/2015 cao hơn các giá trị trong chuỗi số liệu của chương trình, các số liệu khác không có nhiều sai khác và có nhiều điểm tương đồng. Kết quả phân tích cho thấy chất lượng nước sông Nhuệ ở đoạn sông nghiên cứu bị ô nhiễm rất nặng. Hầu hết các thông số chất lượng nước, từ các thông số vật lý (ngoại trừ pH), các thông số chỉ mức độ ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, vi sinh, một số thông số kim loại nặng,... ở tất cả các vị trí khảo sát luôn không đạt các giá trị giới hạn của QCVN 08-MT: 2015/BTNMT loại B1- quy chuẩn quốc gia đối với nguồn nước mặt cho mục đích tưới tiêu, mức độ ô nhiễm giảm dần theo chiều dài đoạn sông, ô nhiễm nặng nhất tại Cầu Tó, ô nhiễm nhẹ dần theo chiều xuôi dòng, từ Cầu Chiếc, Đồng Quan đến Cống Thần. Do lượng chất ô nhiễm vượt nhiều lần mức 63 độ cho phép nên dòng sông Nhuệ trở thành dòng sông có màu đen đặc trưng, nồng nặc mùi hôi và không đạt chất lượng nước cấp cho nông nghiệp và nuôi thuỷ sản. 3.2. Chất lượng trầm tích sông Nhuệ trong thời gian nghiên cứu 3.2.1. Tính chất hoá lý của các mẫu trầm tích sông Nhuệ Hàm lượng chất hữu cơ trong các mẫu trầm tích sông Nhuệ dao động từ 2,04 ÷ 4,23 %. Trong mùa hè, hàm lượng chất hữu cơ có xu hướng cao hơn so với mùa đông. Trầm tích tại điểm Cầu Tó có chứa hàm lượng chất hữu cơ lớn nhất (4,23%). Theo thang đánh giá đất của Lê Văn Khoa [24] thì mẫu đất có chứa hàm lượng chất hữu cơ lớn hơn 2% là đất giàu mùn. Như vậy các mẫu trầm tích sông Nhuệ có chứa hàm lượng giàu các chất hữu cơ. Giá trị pH của các mẫu trầm tích sông Nhuệ dao động không đáng kể (6,5 – 7,7), đây là khoảng biến động được tìm thấy phổ biến trong trầm tích sông và biển [68]. Thế oxi hoá – khử (Eh) trong các mẫu trầm tích dao động từ -109,1mV đến - 59,8mV. Giá trị Eh đạt thấp nhất tại mẫu trầm tích thu tại Cầu Tó. Giá trị Eh thể hiện môi trường khử rõ rệt, kết quả này cũng khá phù hợp với kết quả phân tích DO của nước tại điểm lấy mẫu này. Do hàm lượng oxi trong nước thấp dẫn đến thế oxi hoá khử của trầm tích cũng thấp. Phân tích thành phần cơ giới của đất đối với trầm tích cho thấy hàm lượng sét vật lý dao động từ 27,9 ÷37,1 % và hàm lượng cát vật lý dao động từ 62,9 – 76,8 %. Theo bảng phân loại của Lê Văn Khoa (2000) [24], tại đoạn sông nghiên cứu, trầm tích có kết cấu nền đáy là thịt nặng. Cũng theo Lê Văn Khoa, đất có thành phần cơ giới là thịt nặng thì giữ được nhiều chất dinh dưỡng cũng như các tạp chất hơn. 3.2.2. Hàm lượng các kim loại nặng trong các mẫu trầm tích sông Nhuệ Kim loại nặng là các kim loại có khối lượng riêng lớn hơn 5 g/cm3. Các KLN đi vào môi trường nước thông qua các quá trình tự nhiên và các hoạt động xả thải 64 của con người, một phần các kim loại này đi vào hệ sinh thái dưới nước rồi bị phân huỷ thành các phần tử nhỏ, một phần lắng đọng xuống trầm tích đáy, được tích luỹ theo thời gian. Các KLN khi đã bị lắng đọng xuống dưới đáy dễ bị giữ lại lâu dài bởi trầm tích, đặc biệt trầm tích sông Nhuệ thuộc loại đất thịt nặng nên khả năng sẽ giữ tốt các KLN này. Nhận thấy khả năng tích luỹ các KLN khác nhau của trầm tích sông Nhuệ là khác nhau. Hàm lượng Cadimi tổng số trong các mẫu trầm tích sông Nhuệ: Cadimi là kim loại rất độc hại đối với cơ thể người ngay cả ở nồng độ rất thấp do cadimi có khả năng tích lũy sinh học rất cao. Khi xâm nhập vào cơ thể cadimi can thiệp vào các quá trình sinh học, các enzym liên quan đến kẽm, magie và canxi, gây tổn thương đến gan, thận, gây nên bệnh loãng xương và bệnh ung thư. Hàm lượng cadimi tổng số trong các mẫu trầm tích sông Nhuệ dao động trong khoảng 6,2÷9,8 mg/kg. So sánh với QCVN 43:2012/BTNMT (5mg/kg) [15] thì hàm lượng cadimi trong tất cả các mẫu trầm tích sông Nhuệ đều vượt ngưỡng giới hạn cho phép từ 1,24 ÷1,96 lần. Hàm lượng Cd cao nhất ở khu vực Cầu Chiếc và thấp nhất tại điểm cuối của đoạn sông, tại Cống Thần. Tương tự như chiều hướng của Cd trong nước, hàm lượng Cd trong trầm tích sông Nhuệ cũng giảm dần từ điểm Cầu Chiếc tới điểm cuối Cống Thần. Cadimi là nguyên liệu thành phần của ngành công nghiệp lớp mạ bảo vệ thép, là chất ổn định trong sản xuất PVC, là chất tạo màu trong plastic và thủy tinh, và trong hợp phần của nhiều hợp kim. Hàm lượng Cd trong các mẫu trầm tích sông Nhuệ cho thấy sông Nhuệ đang bị ô nhiễm Cd một cách nghiêm trọng, cần phải ngăn chặn kịp thời các dòng thải công nghiệp nói trên. Việc sử dụng bùn sông Nhuệ để làm phân bón là vô cùng nguy hiểm cho cây trồng cũng như cho sức khoẻ hệ sinh thái và con người. Hàm lượng Cd trong trầm tích sông Nhuệ trong giai đoạn 2013 – 2015 được phản ánh trong Hình 3.4. 65 Hình 3.4. Hàm lượng Cd trong trầm tích sông Nhuệ trong giai đoạn 2013 – 2015 Hàm lượng asen trong trầm tích sông Nhuệ: Asen là KLN nguy hiểm bậc nhất đối với có thể con người và hệ sinh thái. Asen can thiệp các quá trình trao đổi chất dẫn tới cái chết từ hội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan [39]. Theo điều tra của UNICEF, ô nhiễm As chủ yếu do hoạt động của con người trong nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt. Từ đó cho thấy khả năng xâm nhiễm vào môi trường tự nhiên rất lớn, đặc biệt ở các vùng sông nội độ, là nơi tích tụ các chất ô nhiễm có nguồn gốc từ nước thải sinh hoạt, công nghiệp. Trầm tích sông Nhuệ tại các vị trí khảo sát có hàm lượng asen thấp, nằm trong khoảng 0,1÷1,02 mg/kg, thấp hơn nhiều so với GTGH của QCVN 43: 2012/BTNMT (17mg/kg). Như vậy, hiện tại vấn đề ô nhiễm asen trong môi trường nước và trầm tích sông Nhuệ chưa phải là vấn đề đáng quan ngại nhưng cũng cần lưu ý vì các dòng thải vào sông Nhuệ chủ yếu là các dòng thải nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt, luôn có thể có chứa hàm lượng đáng kể KLN độc hại này. Hàm lượng chì tổng số trong trầm tích sông Nhuệ: Chì là một nguyên tố có độc tính cao đối với con người và động vật. Khi xâm nhập vào cơ thể kim loại chì kết hợp với một số enzym làm rối loạn hoạt động của cơ thể. Ở pH cao kim loại chì trở nên ít tan do dễ tạo phức với các hợp chất hữu cơ, kết tủa dưới dạng oxit, hidroxit và liên kết với oxit và silica của đất sét vì vậy ở pH cao kim loại chì có khả 66 năng tích lũy sinh học thấp. Nhưng ở pH thấp hơn thì khả năng tích lũy sinh học của chì tăng dần. Hình 3.5. Hàm lượng Pb trong trầm tích sông Nhuệ trong giai đoạn 2013 – 2015 Hàm lượng Pb trong trầm tích sông Nhuệ nằm trong phạm vi 248,2÷ 330,2mg/kg được trình bày trong Hình 3.5. Hàm lượng chì cao nhất tại Cầu Chiếc và thấp nhất tại Cống Thần. So sánh với GTGH của hàm lượng chì trong QCVN 43:2012/BTNMT (91,3mg/kg) [15] thì hàm lượng chì trong trầm tích sông Nhuệ đều vượt ngưỡng giới hạn cho phép từ 3 ÷3,6 lần. So sánh hàm lượng Pb trong trầm tích ở đoạn sông nghiên cứu với trầm tích của một số khu vực khác cho thấy, hàm lượng Pb ở khu vực này cao hơn nhiều so với mẫu trầm tích của một số sông nội đô khác như sông Sài Gòn (3,31 đến 63,1 mg/kg; kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè 19,9 đến 117 mg/kg [43]). Điều này phần nào thể hiện mức độ ô nhiễm kim loại Pb một cách nghiêm trọng ở khu vực nghiên cứu. Như vậy, có thể thấy trầm tích sông Nhuệ đang bị ô nhiễm kim loại Pb một cách rõ rệt. Trong công nghiệp, kim loại chì được sử dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau như: công nghiệp chế tạo ắc quy, sơn, nhựa, luyện kim. Nguồn phát thải chì vào sông Nhuệ chủ yếu từ các hoạt động sản xuất công nghiệp ắc quy, sơn, nhựa từ khu công nghiệp Văn Điển nên việc phát hiện hàm lượng cao của chì trong trầm 67 tích và trong nước sông Nhuệ cho thấy ảnh hưởng của các dòng thải từ khu công nghiệp này tới hàm lượng chì trên sông Nhuệ là rất rõ rệt. Hàm lượng kẽm tổng số trong trầm tích sông Nhuệ: Hàm lượng Zn trong trầm tích sông Nhuệ trong giai đoạn 2013 – 2015 được phản ánh trong Hình 3.6. Hình 3.6. Hàm lượng Zn trong trầm tích sông Nhuệ trong giai đoạn 2013 – 2015 Kẽm là một nguyên tố vi lượng rất cần thiết đối với con người và động thực vật. Kẽm hiện diện trong hầu hết các bộ phận cơ thể con người. Kẽm cần thiết cho thị lực, giúp cơ thể chống lại bệnh tật, chống nhiễm trùng và cần thiết cho các hoạt động sinh sản... Tuy nhiên khi hàm lượng kẽm trong cơ thể lớn quá có thể tạo ra các tác dụng ngược lại gây ra các bệnh như ngộ độc thần kinh và suy giảm hệ miễn nhiễm [39]. Hàm lượng Zn trong các mẫu trầm tích sông Nhuệ dao động trong khoảng 265,5÷341,6 mg/kg. Hàm lượng kẽm cao nhất tại mẫu thu được tại vị trí Cầu Tó. Ở các mẫu còn lại hàm lượng kẽm thấp hơn GTGH B1 của QCVN 43:2012/BTNMT (315mg/kg) và thấp nhất tại mẫu trầm tích thu được ở vị trí cuối đoạn sông. Kết quả phân tích hàm lượng Zn trong trầm tích có giá trị không khác nhau nhiều và chưa phải là cao khi so sánh với trầm tích tại một số sông nội đô khác như trầm tích thuộc kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè (có giá trị từ 349 đến 1453 mg/kg, [43]), tuy nhiên đã có những vị trí hàm lượng kẽm trong trầm tích vượt GTGH của QCVN 43:2012/BTNMT (315mg/kg). Trong công nghiệp, kim loại kẽm có rất nhiều 68 ứng dụng đặc biệt trong lĩnh vực luyện kim, công nghiệp mạ và sản xuất pin điện... Nhận thấy trầm tích sông Nhuệ đang bắt đầu có dấu hiệu ô nhiễm Zn. Việc duy trì, phát triển các ngành công nghiệp nói trên trong vùng lưu vực cần phải chú ý nhiều hơn đến chất lượng nước thải để hạn chế phát thải kim loại này vào trong sông. Hàm lượng sắt tổng số trong trầm tích sông Nhuệ: Hàm lượng Fe trong trầm tích dao động trong khoảng 255,8 ÷ 318,5 mg/kg. Hàm lượng Fe cao nhất ở khu vực Cầu Tó và thấp nhất tại điểm Đồng Quan. So sánh hàm lượng sắt với các kim loại khác, thành phần sắt trong trầm tích sông Nhuệ khá cao, chỉ đứng sau kim loại chì và kẽm. Sắt là một nguyên tố kim loại mà các cơ thể sống cần với hàm lượng vi lượng. Tuy nhiên, nếu hàm lượng sắt quá cao trong môi trường sẽ dẫn đến sự phơi nhiễm cho cộng đồng khi tiếp xúc, vì rất có thể trầm tích sông Nhuệ sẽ được nạo vét, được sử dụng làm phân bón cho cây lương thực, và chính hàm lượng sắt cao trong bùn đất cũng hạn chế năng suất cây trồng. Trong những năm tới nếu nguồn thải ra sông Nhuệ không được kiểm soát thì nguy cơ ô nhiễm sắt và các kim loại khác trong trầm tích là rất lớn. Nhận thấy các vị trí có hàm lượng kim loại nặng tăng cao đều có sự liên quan trực tiếp đến các hoạt động của con người. Cụ thể như vị trí Cầu Tó, hàm lượng sắt, cadimi, kẽm trong trầm tích đều rất cao có thể là kết quả của việc phải tiếp nhận nước thải của thành phố Hà Nội từ sông Tô Lịch qua đập Thanh Liệt, nước thải của khu công nghiệp Cầu Diễn, nước thải của các làng nghề chế biến kim loại như làng nghề dao kéo Đa Sỹ ở Hà Đông Ở Cầu Chiếc, hàm lượng chì cao hơn hẳn các vị trí khác giải thích việc sông phải tiếp nhận một lượng lớn nước thải có nhiễm chì từ các nhà máy pin, nhà máy sơn, ... từ khu công nghiệp Văn Điển. Do đó có thể đánh giá rằng trầm tích sông Nhuệ đã có dấu hiệu bị ô nhiễm kim loại nặng Pb, Cd và có nguy cơ ô nhiễm Zn do các hoạt động sản xuất và chất thải đô thị. Như vậy, tại thời điểm nghiên cứu, hàm lượng KLN trong trầm tích sông Nhuệ lớn hơn nhiều so với lớp nước phía trên và có mối quan hệ tương quan chặt chẽ với hàm lượng của các ion kim loại trong nước. Do môi trường nước sông Nhuệ có pH hơi kiềm, hầu hết các kim loại trong nước sông Nhuệ nhanh chóng bị tích lũy 69 đi vào trầm tích đáy, và xu hướng của các kim loại trong trầm tích cũng ít có khả năng hòa tan ngược lại vào nước. Chính vì lí do đó nên hàm lượng các KLN trong trầm tích sông Nhuệ cao hơn nhiều so với hàm lượng KLN trong nước sông. Trầm tích sông Nhuệ đã có những dấu hiệu ô nhiễm nặng các kim loại Pb (248,2÷336,8 mg/kg) cao gấp từ 2,72 ÷2,59 lần GTGH của QCVN 43:2012/BTNMT, Cd (6,2÷9,8mg/kg) cao gấp từ 1,24÷1,96 lần GTGH của QCVN 43:2012/BTNMT, Zn (260,1÷341,6 mg/kg) cao hơn GTGH QCVN 43:2012/BTNMT ở 2/5 vị trí và có hàm lượng Fe lớn (254,8÷295,6 mg/kg). 3.3. Sự đa dạng thực vật thuỷ sinh bậc cao có mạch lưu vực sông Nhuệ và khả năng sử dụng thực vật thuỷ sinh LVS Nhuệ để xử lý ô nhiễm nước Hệ sinh thái nước ngọt vùng lưu vực sông Nhuệ có sự đa dạng lớn về loài. Giới hạn của các hệ sinh thái này được ghi nhận bao gồm các vùng bán ngập và vùng ngập nước toàn phần của sông Nhuệ, bao gồm các loài có thể sống trong nhiều môi trường có chế độ ngập nước khác nhau tới những loài chỉ sống được trong môi trường ngập nước ngọt thường xuyên. Bảng 3.1. Các loài TVTS có mạch khu vực sông Nhuệ và số đợt bắt gặp trong các chuyến khảo sát thực địa STT Tên khoa học Tên Việt Nam Số đợt bắt gặp Nhóm các loài thực vật ngập nước 1. Monochoriahastata (L.) Solms Rau mác thon 7/9 2. Ottelia alismoides (L.) Pers Rau bát 7/9 3. Hydrilla verticillata (L.f.) Royle Rong đuôi chó 8/9 Nhóm các loài thực vật lá nổi với bộ rễ trong khối nước 4. Eichhornia crassipes (Mart.) Solms Bèo tây 9/9 5. Pistia stratiotes L. Bèo cái 8/9 6. Lemna perpusilla Torr Bèo tấm 6/9 7. Salvinia natans (L.) All Bèo ong 7/9 70 8. Salvinia cucullata Roxb Bèo tai chuột 5/9 9. Azolla pinnata R.Br. Bèo hoa dâu 6/9 Nhóm các loài thực vật bán ngập nước 10. Acorus calamus L. Thủy xương bồ 6/9 11. Acrachne racemosa Ohwi Cỏ mần trầu tầng 6/9 12. Alternanthera sessilis (L.) A.DC. Rau dệu thường 5/9 13. Canthium dicoccum Teysm. Et Binn Găng vàng hai hạt 9/9 14. Colocasia gigantea Hook.F. Dọc mùng to 9/9 15. Cyperus alterfolious Cói quạt, Thủy trúc 9/9 16. Echinochloa colona Link Cỏ lồng vực nhỏ 5/9 17. Echinochloa crus-galli (L.) Beauv Cỏ lồng vực 5/9 18. Enydra fluctuans Lour. Ngổ trâu 9/9 19. Eriocaulon gracile Mart. Cỏ dùi trống 3/9 20. Fraxinus chinensis Roxb. Trần bì Trung Quốc 5/9 21. Ipomoea aquatica Forsk. Rau muống 9/9 22. Lagestroemia speciosa (L.) Pers. Bằng la ̆ng nu ̛ớc 9/9 23. Lophopetalum wightianum Arn. Sang tràng 9/9 24. Ludwigia adscendens (L.) Hara Rau dừa nu ̛ớc 9/9 71 25. Ludwigia octovalvis (Jacq.) Raven Rau mương đứng 9/9 26. Marsilea quadrifolia L. Rau bợ thường 7/9 27. Rotala indica (Willd.) Koehne Vảy ốc nến 7/9 28. Panicum repens L. Cỏ gừng nu ̛ớc 7/9 29. Phragmites australis (Cav.) Trin. ex Steud. Sậy nam 9/9 30. Polygonum hydropiper L. Nghể răm 7/9 31. Polygonum chinensis L. Thồm lồm 8/9 32. Polygonum odoratum Lour. Rau răm 7/9 33. S. sagittaefolia L. Rau mác 8/9 Theo ghi nhận của các đợt điều tra thực địa, nhận định có 33 loài thực vật bậc cao có mạch thích nghi với các môi trường sống khác nhau sống trong hệ sinh thái này, tên các loài TVTS có mạch khu vực sông Nhuệ và số đợt bắt gặp trên sông trong 9 chuyến đi khảo sát trong giai đoạn 2013- 2015 ở dọc chiều dài đoạn sông từ Cầu Tó tới Cống Thần được nêu trong Bảng 3.1. Các loài TVTS này bao gồm 3 nhóm chính sau: * Nhóm các loài thực vật ngập nước gồm 3 loài rau mác thon (Monochoriahastata (L.) Solms), rau bát (Ottelia alismoides (L.) Pers.), rong đuôi chó (Hydrilla verticillata (L.f.) Royle) là những loài thực vật chỉ thị cho môi trường nước sạch. Các loài này chỉ được tìm thấy ở phần hạ lưu của sông Nhuệ, đoạn sau điểm Cống Thần. Tập hợp các loài này tạo thành quần xã thực vật thủy sinh sống chìm có rễ bám hoặc toàn bộ thân rễ lá sống dựa vào nước của thủy vực. 72 * Nhóm các loài thực vật lá nổi với bộ rễ trong khối nước: Là những loài thực vật có rễ hoặc thân rễ phát triển trong nước, phần thân và lá nổi trên mặt nước và có thể di chuyển nhờ nước, thường tập trung thành từng mảng với các kích thước khác nhau với biên độ sinh thái rộng, phân bố từ những vùng nước sạch đến những nơi nước bị ô nhiễm tương đối nặng. Kích thước và sinh khối quần xã rất khác nhau tùy thuộc vào môi trường. Trong vùng lưu vực sông Nhuệ có sự xuất hiện của các loài trôi nổi, bao gồm 6 loài: bèo tây (Eichhornia crassipes), bèo cái (Pistia stratiotes L.), bèo tấm (Lemna perpusilla Torr.), bèo ong (Salvinia natans (L.) All.), bèo tai chuột (Salvinia cucullata Roxb.). Nhìn chung, các quần xã thực vật trôi nổi này có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nước trên lưu vực sông, có tác dụng làm lắng đọng các chất thải rắn trôi nổi trong nguồn nước chảy nhờ hệ rễ của các cá thể trong quần xã. Tuy nhiên, bên cạnh đó, sự phát triển của chúng lại làm hạn chế dòng chảy và mỗi khi có mưa xuống hay mỗi đợt thải nước qua cống, do các quần xã này gây cản trở dòng chảy đã làm nước thải ô nhiễm lan rộng vào các dải đất ven sông. * Nhóm các loài thực vật bán ngập nước: Bao gồm 24 loài, là những loài tạo nên các quần xã thực vật đặc sắc, khá đa dạng về dạng sống với các cây bụi đến những loài thân cỏ dạng lúa, thân thảo nên chúng đã hình thành nhiều quần xã sinh vật đặc sắc, trong đó phải kể đến các loài rau dệu thường (Alternanthera sessilis (L.) A. DC), dọc mùng to (Colocasia gigantea (Blume) Hook.F.), cây thuỷ trúc (Cyperus involucratus), cỏ lồng vực (Echinochloa crus-galli (L.) P. Beauv) Trong thủy vực nghiên cứu có thể thấy tuy không có sự đa dạng lớn về loài nhưng hầu hết các loài có trong thuỷ vực là những loài có giá trị trong việc làm sạch nước đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu như bèo tây (Eichhornia crassipes), bèo cái (Pistia stratiotes L.), bèo tấm (Lemna perpusilla Torr.), rau muống (Ipomoea aquatica Forsk.), ngổ trâu (Enydra fluctuans Lour.), thuỷ trúc (Cyperus involucratus), [41], [42], [ 51], [ 63], [66] Đặc biệt 3 loài TVTS thuỷ trúc, rau muống, ngổ trâu đều được tìm thấy trong thuỷ vực sông Nhuệ với tần suất lớn hơn các loài TVTS khác. 73 Nhận thấy, hiện nay, mức độ đa dạng sinh học của thực vật bậc cao thủy vực sông Nhuệ đang có dấu hiệu suy giảm do việc lạm dụng khai thác và xây dựng các quần xã cây trồng phục vụ cho nhu cầu của người dân đã làm suy giảm đáng kể diện tích các loài tự nhiên của thủy vực ven sông. Hơn nữa, do môi trường nước đang ngày càng ô nhiễm nặng nề đã làm giảm tần suất xuất hiện các loài thực vật mẫn cảm với môi trường ô nhiễm và tăng mật độ cá thể các loài thích nghi được với môi trường bị ô nhiễm. Vì vậy, cần phải có các biện pháp bảo vệ và phục hồi tính đa dạng sinh học các thủy vực trong lưu vực sông Nhuệ để việc cải thiện chất lượng môi trường nước bằng các thực vật thuỷ sinh đạt hiệu quả cao. 3.4. Thực nghiệm đánh giá vai trò của các sinh vật thuỷ sinh trong quá trình cải thiện chất lượng nước và trầm tích sông Nhuệ Trong 3 năm nghiên cứu thực nghiệm để đánh giá vai trò của các loài TVTS trong quá trình cải thiện chất lượng nước và trầm tích sông Nhuệ, 3 thí nghiệm nuôi trồng các sinh vật đã được tiến hành. Thí nghiệm đợt 1 nuôi trồng các sinh vật thuỷ sinh vào thời gian 4/11/2013 đến 3/12/2013 bao gồm thuỷ trúc, ngổ trâu, rau muống và loài động vật đáy là ốc vặn trong nước sông Nhuệ thu được tại 2 vị trí điểm đầu Cầu Tó và điểm cuối Cống Thần. Trầm tích đáy chưa được đưa vào thí nghiệm. Thí nghiệm cũng được tiến hành cả trong phòng và cả ngoài thực địa. Kết quả thí nghiệm trong phòng cho thấy ốc và ngổ trâu đã chết toàn bộ trong quá trình thí nghiệm, rau muống chết nhiều sau 2 tuần thí nghiệm. Cho đến tuần thứ ba thí nghiệm, tất cả các sinh vật đều chết nhiều hơn 60%. Nguyên nhân gây chết các sinh vật thí nghiệm được tìm hiểu kỹ càng, phải chăng nguồn nước quá ô nhiễm đã không thích hợp cho các sinh vật được lựa chọn? Đối sánh với các mẫu ngoài thực tế thì trong tuần đầu thí nghiệm, số lượng cá thể ốc vặn chết ngoài thực tế cũng khá cao, từ 21 đến 32%, ngổ trâu và rau muống chết từ 1 đến 15%, tỷ lệ chết cao ở Cầu Tó và Cầu Chiếc, thuỷ trúc sống tốt ở cả hai điểm thí nghiệm. Nhưng sau tuần thứ nhất, các bè thực nghiệm nuôi trồng ngoài thực tế được trồng ở Cầu Tó và Cống Thần đã bị phá huỷ. Như vậy nguyên nhân gây chết các sinh vật còn chưa được làm rõ thì những bè thí nghiệm 74 trong môi trường thực tế đã không còn để mà đối sánh. Thí nghiệm thực tế nuôi trồng các loài TVTS cần phải
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_thuc_nghiem_danh_gia_vai_tro_cua_mot_so_l.pdf
Điểm mới của luận án tiếng Việt.docx
Tom tat English.pdf
Tom tat Vietnam.pdf
Trang thong tin Tieng Anh.pdf
Trang thong tin Tieng Viet.pdf