Luận án Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp hợp lý trong công tác giao đất lâm nghiệp cho đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Lệ Thủy và huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp hợp lý trong công tác giao đất lâm nghiệp cho đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Lệ Thủy và huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp hợp lý trong công tác giao đất lâm nghiệp cho đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Lệ Thủy và huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình

ệ hộ nghèo trong khu vực nghiên cứu còn khá cao, trung bình trên 30%, cụ thể: xã Trường Sơn 506 hộ, chiếm 49,3% [73] tổng số hộ toàn xã, xã Trường Xuân 222 hộ, chiếm 38,4% [73], xã Ngân Thủy 198 hộ, chiếm 37,8% [76], xã Kim Thủy 314 hộ, chiếm 30,3% [77], xã Lâm Thủy 162 hộ, chiếm 46,3% [78]. Đặc biệt, một số địa bàn tỷ lệ hộ nghèo đối tượng là người DTTS rất cao, cụ thể như: xã Trường Sơn có 454 hộ, chiếm 89,7% hộ nghèo của xã, xã Lâm Thủy có 162 hộ, chiếm 100%. Đến nay, ở nhiều bản người DTTS vẫn đang phải sống trong nghèo khó do địa hình chia cắt, dân cư thưa thớt, điều kiện sản xuất khó khăn. Nhìn chung, với đặc thù của vùng sâu, vùng xa, dân số chủ yếu lại là người DTTS thuộc cộng đồng người Bru - Vân Kiều, nhưng dù trong điều kiện không được thuận lợi, hoàn cảnh cuộc sống còn khó khăn nhưng người dân nơi đây luôn chấp hành 57 pháp luật, sống đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau vượt qua khó khăn để cùng tồn tại và phát triển. 3.1.2.3. Việc làm Với lực lượng lao động chiếm hơn 50% trong tổng dân số, bên cạnh các việc làm được nhà nước quan tâm, tạo điều kiện, người dân nơi đây còn chủ động tìm kiếm các công việc từ rừng để nâng cao đời sống hàng ngày. Nằm trong vùng mục tiêu của Chương trình 135, thời gian qua trên địa bàn luôn được chính quyền các cấp quan tâm thực hiện nhiều biện pháp tạo việc làm như: Chuyển giao khoa học công nghệ, mở lớp chăn nuôi thú y, lớp nuôi trồng thủy sản nước ngọt, lớp trồng trọt, cho vay vốn đầu tư trồng rừng sản xuất...với nỗ lực tạo việc làm cho người dân, nhất là lao động trẻ. Việc tận dụng nguồn lao động nhàn rỗi tại các địa phương của các đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn cũng đã góp phần giải quyết về nhu cầu lao động của người dân nơi đây. Tuy vậy, nhìn tổng thể, lực lượng lao động nơi đây vẫn còn bị động, việc làm chưa tương xứng với nguồn lao động hiện có, còn xuất hiện lực lượng lao động trẻ nhàn rỗi, không chịu khó, một số địa phương vẫn còn tồn tại việc canh tác theo phong tục, tập quán lạc hậu của người DTTS, ảnh hưởng đến việc sử dụng hiệu quả trong lực lượng lao động tại chỗ. 3.1.2.4. Y tế Đến năm 2016, mạng lưới y tế trên địa bàn nghiên cứu tương đối đầy đủ, với 05/05 xã có trạm y tế và bác sĩ. Hàng năm hoạt động khám chữa bệnh được duy trì tốt, lượt khám trung bình hàng năm tại mỗi trạm y tế xã trên 1 000 lượt bệnh nhân. Công tác giám sát, phòng chống các loại dịch bệnh được triển khai khá tốt, thực hiện tốt chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ và phụ nữ mang thai theo kế hoạch. Thường xuyên cử các đoàn y tế về các thôn, bản để khám chữa bệnh. Công tác khám chữa bệnh cho người nghèo, đối tượng chính sách luôn được quan tâm, quản lý tốt các nguồn thuốc được cấp đảm bảo khám chữa bệnh cho người dân.Với đặc thù là khu vực vùng biên, thời gian qua mô hình quân dân y đã được triển khai hiệu quả tại một số địa phương góp phần nâng cao chất lượng y tế tại đây. Tuy nhiên, do điều kiện địa hình hiểm trở, giao thông đến một số thôn bản còn khó khăn, bị chia cắt, có nhiều thôn, bản ở sâu trong khu vực đồi núi nên đôi khi công tác thăm khám y tế vẫn còn hạn chế, chưa đầy đủ kịp thời. Việc xây dựng trạm y tế đạt tiêu chí nông thôn mới còn khó khăn do điều kiện kinh tế - xã hội chậm phát triển, nguồn lực đầu tư hạn chế. 58 3.1.2.5. Giáo dục - Đào tạo Với vị trí nằm xa các trung tâm hành chính, địa bàn vùng cao nên hệ thống giáo dục - đào tạo ở đây còn nhiều hạn chế so với các khu vực khác trong địa phương. Tuy nhiên, trong những năm trở lại đây, cùng với sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, các tổ chức trong và ngoài nước đã có nhiều chương trình hỗ trợ, đầu tư đáng kể cho hệ thống giáo dục và đào tạo nơi đây, vì vậy công tác giáo dục - đào tạo ngày càng được nâng lên. Kết quả, đến nay toàn bộ 05/05 xã đều có trên 04 điểm trường trung tâm gồm: Mầm non, tiểu học, 02 trường Trung học và Trung học sơ sở. Chất lượng giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh được nâng cao. Điều kiện cơ sở vật chất các trường được nâng cấp, các phòng học được xây mới để đảm bảo điều kiện học tập cho học sinh. Nhiều hộ gia đình, cá nhân tham gia xây dựng trường, lớp và thành lập quỹ khuyến học. Đã huy động tối đa số lượng học sinh đến trường, đặc biệt quan tâm các cháu học sinh đồng bào DTTS. Mạng lưới trường lớp được mở rộng đến các bản sâu, xa, các điểm định canh, định cư, tại một số địa phương đã phối hợp với lực lượng Biên phòng mở, dạy các lớp xóa mù chữ. Chương trình phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở được chú trọng, thực hiện hiệu quả đề án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ dưới 5 tuổi. Hoàn thành công tác xóa mù chữ. Với điều kiện là các địa phương có đông người DTTS nên hầu hết các xã đều có trường Phổ thông Dân tộc bán trú để phục vụ và tạo điều kiện cho việc học tập của đồng bào DTTS. [75] Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn, bên cạnh những kết quả đạt được của hệ thống giáo dục - đào tạo nơi đây, đến nay tại một số địa phương, nhiều điểm trường còn thiếu về cơ sở vật chất, dụng cụ phục vụ dạy và học, hiện tượng thiếu giáo viên vẫn còn phổ biến, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp Trung học sơ sở lên Trung học phổ thông, Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp còn thấp. 3.1.2.6. Giao thông Hệ thống giao thông trên địa bàn nghiên cứu bị ảnh hưởng và chịu tác động lớn bởi điều kiện địa hình nơi đây. Điều kiện địa hình dốc, đồi núi hiểm trở đã gây khó khăn cho việc di chuyển các phương tiện và phát triển giao thông trên địa bàn. Trước năm 2005, khi đường Hồ Chí Minh nhánh Tây đi qua tỉnh Quảng Bình chưa được thi công, hệ thống đường giao thông lên các vùng phía Tây huyện Quảng Ninh và huyện Lệ Thủy dường như bị chia cắt hoàn toàn. Tuyến giao thông duy nhất nối xã Trường Sơn với các địa phương khác là tuyến giao thông đường thủy trên sông Long Đại; phía Tây huyện Lệ Thủy, xã Lâm Thủy chưa được thành lập, là khu vực dường như còn nguyên sinh chưa kết nối với hệ thống giao thông. Bên cạnh đó, các tuyến đường tỉnh 59 lộ 10 và tỉnh lộ 16 đi đến các xã Kim Thủy, Ngân Thủy chưa được nâng cấp, việc di chuyển của con người và phương tiện giao thông gặp nhiều khó khăn. Đến năm 2016, đường Hồ Chí Minh nhánh Đông và nhánh Tây đã hoàn thành và đi qua địa bàn các vùng nghiên cứu, hệ thống giao thông ở đây đã được kết nối và phát triển. Với ưu thế có chiều dài 102,9 km của đường Hồ Chí Minh nhánh Tây đi qua trên tổng số 160,86 km trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, đường Hồ Chí Minh đã góp phần rất quan trọng làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội nơi đây. Ngoài vai trò là động lực phát triển kinh tế, đường Hồ Chí Minh như một trục "xương sống" để kết nối, phát triển hệ thống giao thông trong vùng. Đến nay, các tuyến đường tỉnh lộ 10, tỉnh lộ 16 và tỉnh lộ 11 đã trở thành những tuyến đường huyết mạch nối liền các địa phương phía Tây với vùng đồng bằng ở hạ du cũng như với các khu trung tâm kinh tế, chính trị của huyện. Ngoài các tuyến đường tỉnh lộ và quốc lộ, nằm trong chương trình mục tiêu về xây dựng nông thôn mới, hệ thống đường giao thông trong khu vực nghiên cứu đã được nâng cấp, bê tông kiên cố, thuận lợi cho phương tiện di chuyển trong vùng. 3.1.3. Đặc điểm văn hoá, tín ngưỡng và phong tục tập quán canh tác của người DTTS trên địa bàn nghiên cứu Phong tục tập quán địa phương luôn có tác động đến việc đảm bảo tính thực thi của chính sách pháp luật nhà nước. Thực tế cho thấy ở một số nơi, việc triển khai thực hiện chính sách của Nhà nước nói chung và chính sách đất đai nói riêng đến các vùng sâu, vùng xa, vùng người DTTS còn gặp không ít khó khăn, bởi ngoài rào cản về mức độ nhận thức pháp luật thì các phong tục, hủ tục của bản địa có ảnh hưởng rất lớn đến những kết quả mà chính sách mang lại cho cuộc sống của nhân dân. Mặc dù Việt Nam có một số lượng lớn các thể chế và chính sách về đất cũng như các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhưng cho tới nay chưa có một điều luật nào công nhận quyền đối với đất đai và các nguồn tài nguyên khác dựa trên phong tục của người dân tộc thiểu số [25]. Địa bàn nghiên cứu được thực hiện tại các xã vùng sâu, vùng xa của hai huyện Quảng Ninh và huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình là nơi sinh sống và cư trú chủ yếu của người DTTS là người Bru - Vân Kiều. Ở đây đồng bào DTTS sống theo bản làng rải rác trong các thung lũng vùng sâu hoặc ở dọc ven khe, suối và quần tụ thành từng bản làng. Các bản làng của người Bru - Vân Kiều tuy không có mốc địa giới nhưng trong ý thức của người dân nó có giới hạn cụ thể. Các bản khác nhau chỉ có thể canh tác trong ranh giới của bản làng mình, nếu cứ vi phạm sẽ bị phạt nặng [24]. Trong các nền văn hóa của người DTTS tỉnh Quảng Bình, có thể nói văn hóa, phong tục của người Bru - Vân Kiều không có nhiều điểm đặc sắc nổi bật nhưng với những bản sắc 60 riêng, văn hóa của người dân tộc Bru - Vân Kiều cũng đã góp phần làm đa dạng nền văn hóa của đồng bào DTTS trong toàn tỉnh nói chung. Điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh sống là những yếu tố chính giúp hình thành nên văn hóa tín ngưỡng của người Bru - Vân Kiều. Trong tâm thức của người Bru - Vân Kiều, việc thờ cúng tổ tiên rất được coi trọng, họ tin rằng tổ tiên ở thế giới bên kia nhưng lúc nào cũng dõi theo và hướng về cuộc sống của họ phù hộ cho họ vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống [40]. Vì vậy, trong hoàn cảnh cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả, hàng ngày phải đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt nhưng tinh thần của người Bru - Vân Kiều luôn lạc quan, vui vẻ. Đối với người Bru - Vân Kiều ở Quảng Bình, mỗi một làng bản thường là một cộng đồng có mối quan hệ bà con móc xích lẫn nhau, do vậy trong cuộc sống người dân ở đây có một tập quán tốt là họ sẵn sàng đùm bọc nhau, chia sẻ nhau những lúc khó khăn hoạn nạn [24]. Một trong những nét làm nên đặc trưng văn hóa của tộc người đó là lễ hội, đây là hình thức sinh hoạt văn hóa có nhiều ý nghĩa, là sự thiêng liêng và niềm hãnh diện cho cả cộng đồng. Hầu hết các lễ hội của người Bru - Vân Kiều nơi đây đều gắn với họat động sản xuất nông nghiệp. Hơn bao giờ hết nó thể hiện văn minh nông nghiệp trình độ thấp rất rõ nét. Trong một năm (âm lịch) người Vân Kiều có tất cả 5 lễ chính thức. Bao gồm: Lễ mở cửa rừng; Lễ trỉa lúa; Lễ Cầu bồng, cầu Chén; Lễ mừng lúa mới và Lễ ăn cơm mới [40]. Điều dễ nhận thấy là văn hóa, tín ngưỡng của người Bru - Vân Kiều luôn hướng về tổ tiên và thần linh, vấn đề đó tác động rất lớn đến phong tục, tập quán canh tác nông nghiệp người dân. Với suy nghĩ rằng lúa tẻ hay lúa nếp đều do chính thần đất, thần mặt trời, mặt trăng tăng ban cho, mỗi người phải có trách nhiệm gìn giữ và trân quý những hạt ngọc quý báu ấy [31]. Ở đây, cây rừng và đất rừng luôn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống sinh tồn hàng ngày, vì vậy trong các lễ hội, Lễ mở cửa rừng rất được người dân quan tâm. Bởi lẽ, người dân tộc Bru - Vân Kiều ở đây từ xa xưa đã được coi là đứa con của núi rừng và có niềm tin rất lớn và vững chắc đối với thần linh. Đối với họ, rừng chính là máu thịt, là lá chắn chở che, là hoa lợi từ đất trời ban cho để duy trì và phát triển giống nòi. Thế nên họ luôn trân trọng và biết ơn màu xanh bạt ngàn nơi những cánh rừng già. Họ coi đó là địa hạt của sự linh thiêng và bất cứ thời khắc nào cũng có thần linh trú ngụ và cai quản rừng rú. Để khởi động cho những chuyến vào rừng kiếm kế sinh nhai, đầu năm mới họ tổ chức lễ mở cửa rừng, trước hết để cầu thần linh độ trì năm nay làm ăn thuận lợi, xin phép thần rừng để được đốn gỗ về dựng nhà, hái câu dược liệu về làm thuốc, ngắt rau rừng, quả rừng làm lương thực hàng ngày [32]. Qua nghiên cứu và điều tra khảo sát, từ nguồn gốc sinh sống lâu đời dọc theo dãy Trường Sơn đến nay người Bru - Vân Kiều vẫn sống chủ yếu nhờ làm nương rẫy và ruộng nước với hình thức canh tác lạc hậu. Hoạt động kinh tế để duy trì cuộc sống 61 của mình của người Bru - Vân Kiều ở Quảng Bình là hoạt động kinh tế canh tác nương rẫy và săn bắt hái lượm. Lối canh tác này vừa không thể tăng năng suất cây trồng vừa không thể giảm thiểu diện tích đất rừng hàng năm nếu muốn duy trì cuộc sống hiện tại [24]. Trồng trọt nương rẫy vẫn là hoạt động kinh tế thường ngày. Ruộng nước đã xuất hiện nhưng diện tích và quy mộ còn nhỏ bé, kỷ thuật canh tác nương rẫy chủ yếu là “phát, đốt, cốt, trỉa” với công cụ sản xuất còn thô sơ nên năng suất thấp. Hoạt động khai thác các nguồn lợi từ rừng như săn bắt, đánh cá, thu hái các loại rau, củ, quả là nguồn cung cấp thức ăn hết sức quan trọng. Bên cạnh nương rẫy việc khai thác nguồn lợi tự nhiên từ rừng, chăn nuôi và trao đổi là hoạt động kinh tế giúp nâng cao đời sống, chăn nuôi gia súc, gia cầm trước hết phục vụ cho lễ cúng rồi sau đó mới cải thiện bữa ăn [42]. Chính vì vậy, để giải quyết được vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế rừng ở đây, đòi hỏi các chính sách về giao đất, giao rừng cho người dân phải được thực hiện một cách hiệu quả, gắn với văn hóa, phong tục tập quán lâu đời của người Bru - Vân Kiều, góp phần xây dựng cuộc sống của người DTTS giàu bản sắc và phát triển bền vững. 3.1.4. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội 3.1.4.1. Ảnh hưởng tiêu cực đến công tác giao đất sản xuất lâm nghiệp cho đồng bào DTTS Công tác giao đất sản xuất lâm nghiệp có liên quan chặt chẽ với điều kiện địa hình thực địa. Khu vực nghiên cứu hầu hết có địa hình hiểm trở, bị chia cắt sâu bởi nhiều dãy núi cao, một số khu vực có độ dốc lớn ảnh hưởng đến việc triển khai công tác giao đất cũng như quá trình thực hiện sản xuất canh tác của người dân. Bên cạnh đó, với điều kiện khí hậu tương đối khắc nghiệt, hệ thống thủy văn phức tạp, mùa mưa kéo dài và lượng mưa tương đối lớn là nguyên nhân gây ra các đợt lũ lớn diễn ra khá thường xuyên hàng năm, trong khi công tác giao đất lâm nghiệp đòi hỏi thực hiện trong điều kiện thời tiết thuận lợi để đảm bảo được hiệu quả đề ra. Với độ che phủ 93% đất lâm nghiệp, trên địa bàn nghiên cứu đang đứng trước áp lực vừa gia tăng giao đất sản xuất lâm nghiệp cho hộ gia đình nhưng phải vừa đảm bảo tính cân bằng hệ sinh thái lâm nghiệp, không vì phát triển trồng rừng sản xuất mà làm giảm diện tích đất rừng tự nhiên, nơi gắn liền với đặc tính tâm linh của người DTTS và là khu vực đóng vai trò quan trọng trong việc chống xói lở, bảo vệ môi trường sinh thái. Vì vậy, việc triển khai công tác giao đất sản xuất lâm nghiệp luôn bị ảnh hưởng bởi vấn đề đảm bảo diện tích đất được giao đúng theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và quản lý loại rừng. Trên khu vực nghiên cứu, đồng bào DTTS sống quần tụ theo từng bản làng phân bố rải rác, xa trung tâm. Vì vậy, việc tuyên truyền phổ biến các chính sách của 62 nhà nước nói chung và chính sách về giao đất lâm nghiệp nói chung bị hạn chế, quá trình triển khai giao đất lâm nghiệp mất nhiều thời gian hơn khi cần phải có sự phối hợp của người dân cùng tham gia. Bên cạnh đó, điều kiện kinh tế khó khăn có ảnh hưởng rất lớn đến việc người dân nhận đất để sản xuất canh tác, thiếu kinh phí để đầu tư sản xuất dẫn đến đất không được sử dụng hiệu quả, hoang hóa và nảy sinh các vấn đề về tranh chấp đất đai. Trình độ văn hóa còn thấp và phong tục, tập quán canh tác của người DTTS còn lạc hậu có tác động rất lớn đến công tác giao đất sản xuất lâm nghiệp cho đồng bào DTTS. Với nhận thức các chính sách pháp luật về đất đai hạn chế dẫn đến việc phối hợp cũng như thực hiện các quyền, nghĩa vụ của người dân trong quá trình triển khai giao đất gặp không ít khó khăn. Bên cạnh đó, tập quán sản xuất, canh tác tương đối lạc hậu đã không phát huy hết giá trị sử dụng đất trên diện tích đất được giao. 3.1.4.2. Tác động tích cực đến công tác giao đất sản xuất lâm nghiệp cho đồng bào DTTS Một số điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội sẵn có của vùng nghiên cứu lại có tác động tích cực đến công tác giao đất sản xuất lâm nghiệp cho đồng bào DTTS, góp phần việc thực hiện chính sách của nhà nước cho người DTTS nói chung và chính sách giao đất nói riêng được thuận lợi và đạt kết quả tốt, cụ thể: - Đa số các địa phương có vị trí địa lý tương đối thuận lợi cho việc triển khai công tác giao đất lâm nghiệp. Một số xã nằm liền kề vùng trung du đồng bằng, có xã cách Thành phố Đồng Hới, khu vực trung tâm tỉnh khoảng 30 km, do đó không gian, vị trí địa lý trở thành điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ có thể theo dõi, bám sát địa bàn một cách thường xuyên trong quá trình thực hiện giao đất lâm nghiệp cho người dân. - Đặc điểm thổ nhưỡng khu vực nghiên cứu có ảnh hưởng tích cực đến công tác giao đất lâm nghiệp: Với diện tích 147 387,6 ha đất xám Feralit (Xf), chiếm 81,09% tổng diện tích tự nhiên khu vực nghiên cứu, đây là điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện canh tác hiệu quả trên diện tích đất được giao, bởi đất xám Feralit (Xf) ở vùng trung du và miền núi là loại đất tốt, thích hợp cho việc sử dụng vào mục đích nông lâm nghiệp, thích nghi cho trồng cây lâm nghiệp. Sự phù hợp về thổ nhưỡng trong canh tác sẽ thúc đẩy người dân trong vấn đề nhận đất để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống. - Hệ thống đường giao thông tương đối thuận lợi cho việc thực hiện chính sách giao đất lâm nghiệp: Hệ thống đường giao thông tại các địa phương trong khu vực nghiên cứu hầu hết đã được kiên cố đến tận trung tâm xã. Điểm thuận lợi nổi bật là hai 63 hệ thống giao thông đường Hồ Chí Minh nhánh Tây và nhánh Đông đều đi qua các địa phương, góp phần thúc đẩy quá trình giao thương, vận chuyển các sản phẩm gỗ từ rừng trồng. Vì vậy, hạ tầng giao thông là một trong những yếu tố có tác động tích cực và giúp công tác ngoại nghiệp được thuận lợi trong quá trình thực hiện giao đất lâm nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn. 3.2. PHÂN TÍCH SỰ BIẾN ĐỘNG ĐẤT LÂM NGHIỆP GIAI ĐOẠN NĂM 2005 - 2015 TẠI KHU VỰC PHÍA TÂY CÁC HUYỆN LỆ THỦY VÀ HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH Để góp phần làm rõ quá trình quản lý đất lâm nghiệp theo không gian và thời gian, nghiên cứu đã ứng dụng công nghệ GIS và Viễn thám để thực hiện đánh giá, phân tích sự biến động các loại hình sử dụng đất, đặc biệt là đất lâm nghiệp trong thời kỳ từ năm 2005 đến năm 2015 trên địa bàn phía Tây các huyện Lệ Thủy và huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Theo đó, tiến hành thành lập các loại bản đồ hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp năm 2005 và năm 2015, bản đồ biến động sử dụng đất giai đoạn 2005 - 2015 để thấy được xu hướng phát triển và vai trò quan trọng của kinh tế trồng rừng, đồng thời phát hiện được vấn đề chuyển đổi, mở rộng diện tích đất rừng trồng trong công tác quản lý nhà nước về giao đất lâm nghiệp trên địa bàn nghiên cứu. 3.2.1. Dữ liệu nghiên cứu Ảnh viễn thám sử dụng trong nghiên cứu được cung cấp từ Cục Viễn thám Quốc gia - Bộ Tài nguyên và Môi trường. Với các loại ảnh SPOT 5, độ phân giải 2,5m, chụp ngày 26/4/2004; VNRED-SAT1, độ phân giải 2,5m chụp các ngày 05/01/2015 và 04/7/2015 trên kênh phổ Panchromatic. Dữ liệu ảnh Vệ tinh đạt chuẩn mức độ 3, đạt mức độ phân giải cao theo chuẩn của Bộ Tài nguyên và Môi trường, được hiệu chỉnh phổ và nắn chỉnh hình học theo hệ tọa độ Quốc gia VN - 2000, ranh giới ảnh cắt theo đường địa giới hành chính khu vực nghiên cứu được thành lập theo Chỉ thị 364 của Chính phủ. Ngoài dữ liệu ảnh viễn thám, để có cơ sở phân tích và so sánh sự phù hợp các đối tượng giữa các nguồn dữ liệu, nghiên cứu đã thu thập và kết hợp sử dụng các loại dữ liệu bản đồ chuyên đề liên quan trên địa bàn khu vực nghiên cứu như: Bản đồ địa hình tỷ lệ 1:10 000, Bản đồ địa chính đất lâm nghiệp tỷ lệ 1: 10 000, bản đồ quy hoạch 3 loại rừng, bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2005 và 2015, bản đồ địa giới hành chính. Để chuẩn dữ liệu năm 2005, trên cơ sở các loại bản đồ chuyên đề năm 2005, tiến hành phân tích, so sánh sự biến động hiện trạng sử dụng đất trong giai đoạn từ thời điểm dữ liệu ảnh SPOT 5 chụp ngày 26/4/2004 đến mốc nghiên cứu năm 2005. 64 Cho thấy hiện trạng sử dụ
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_thuc_trang_va_de_xuat_giai_phap_hop_ly_tr.pdf
Dong_gop_moi_LA_DHHue.pdf
Dong_gop_moi_LA_English.pdf
LuanAn_NCS_2018_TomTat_DHHue.pdf
LuanAn_NCS_TomTat_English.pdf