Luận án Nghiên cứu tính kháng kháng sinh ở mức độ phân tử của salmonella spp. phân lập từ thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh

Luận án Nghiên cứu tính kháng kháng sinh ở mức độ phân tử của salmonella spp. phân lập từ thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu tính kháng kháng sinh ở mức độ phân tử của salmonella spp. phân lập từ thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu tính kháng kháng sinh ở mức độ phân tử của salmonella spp. phân lập từ thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu tính kháng kháng sinh ở mức độ phân tử của salmonella spp. phân lập từ thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu tính kháng kháng sinh ở mức độ phân tử của salmonella spp. phân lập từ thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu tính kháng kháng sinh ở mức độ phân tử của salmonella spp. phân lập từ thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu tính kháng kháng sinh ở mức độ phân tử của salmonella spp. phân lập từ thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu tính kháng kháng sinh ở mức độ phân tử của salmonella spp. phân lập từ thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu tính kháng kháng sinh ở mức độ phân tử của salmonella spp. phân lập từ thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu tính kháng kháng sinh ở mức độ phân tử của salmonella spp. phân lập từ thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 145 trang nguyenduy 17/10/2025 150
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu tính kháng kháng sinh ở mức độ phân tử của salmonella spp. phân lập từ thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu tính kháng kháng sinh ở mức độ phân tử của salmonella spp. phân lập từ thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh

Luận án Nghiên cứu tính kháng kháng sinh ở mức độ phân tử của salmonella spp. phân lập từ thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh
ủa Katoh và ctv (2015) là (90,2%). Tỷ lệ này cao hơn so với kết quả của Nguyễn 
Thanh Việt và ctv (2018) là (36%); so với báo cáo của Nguyen và ctv (2016) là 
(41,1%); Choi và ctv (2015) là (29%). Sự khác biệt này có thể được lý giải là do tình 
hình sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi và điều trị khác nhau giữa các vùng, điều 
này làm tăng áp lực chọn lọc, dẫn tới sự xuất hiện và tồn tại các vi khuẩn kháng kháng 
sinh với tỷ lệ khác nhau. Việt Nam là nước đông dân thứ 15 trên thế giới và thứ 03 
trong khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia và Philipines). Bên cạnh đó, với một nền 
kinh tế có độ mở cao, Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp nhiều tác động tích cực 
lẫn tiêu cực đến từ bên ngoài, trong đó nổi bật là việc tiếp cận dễ dàng với kháng sinh 
mà chưa được kiểm soát hiệu quả, điều này cùng với gánh nặng bệnh truyền nhiễm 
đã làm cho Việt Nam trở thành điểm nóng tiềm ẩn cho sự xuất hiện vi khuẩn đa kháng 
(Nguyen và ctv, 2013). Các nghiên cứu tiếp theo về tỷ lệ kháng và đa kháng với quy 
mô và phạm vi lớn hơn là điều hết sức cần thiết. 
49 
3.2.3 Khả năng kháng từng loại kháng sinh của các chủng Salmonella spp. theo 
nguồn phân lập 
Số liệu từ Bảng 3.9. cho thấy Salmonella spp. có nguồn gốc từ thịt heo và gà 
kháng tất cả 11 loại kháng sinh thử nghiệm, trong đó các chủng Salmonella spp. từ 
thịt gà có tỷ lệ kháng với từng loại kháng sinh cao hơn các nguồn khác. Riêng AMC 
và CAZ nhạy hoàn toàn với các chủng Salmonella spp. từ thịt bò. Tuy nhiên, xét riêng 
từng loại kháng sinh thì Salmonella spp. từ thịt gà có tỷ lệ kháng cao hơn. 
Bảng 3.9. Mức độ kháng từng loại kháng sinh của Salmonella spp. từ heo, gà, 
bò 
 Thịt heo (n=38) Thịt gà (n=36) Thịt bò (n=18) Chung (n=92) 
Kháng 
sinh 
Số chủng 
kháng 
% 
Số chủng 
kháng 
% 
Số chủng 
kháng 
% 
Số chủng 
kháng 
% 
AMC 02 5,26 01 2,78 00 0 03 3,26 
AMP 14 36,84 19 52,78 04 22,22 37 40,22 
CAZ 02 5,26 03 8,33 00 0 05 5,43 
C 12 31,58 22 61,11 02 11,11 36 39,13 
NA 05 13,16 11 30,56 01 5,56 17 18,48 
CIP 04 10,53 03 8,33 01 5,56 08 8,70 
OFX 02 5,26 03 8,33 01 5,56 06 6,52 
GM 03 7,89 06 16,67 01 5,56 10 10,87 
STR 09 23,68 20 55,56 06 33,33 35 38,04 
TE 21 55,26 23 63,89 07 38,89 51 55,43 
SXT 12 31,58 20 55,56 03 16,67 35 38,04 
Fisher’s Exact test = 10,004; p = 0,989 
Đối với kháng sinh TE thì Salmonella spp. từ thịt gà có tỷ lệ kháng là 63,89% 
cao hơn 55,26% từ thịt heo, SXT có tỷ lệ 55,56% so với 31,58%, STR 55,56% so với 
23,68%, C có tỷ lệ 61,11% so với 31,58%, AMP có tỷ lệ 52,78% so với 36,84%. Các 
chủng Salmonella spp. từ thịt bò có tỷ lệ kháng thấp nhất so với các chủng từ thịt gà 
50 
và heo. Xét về phương diện thống kê thì khả năng kháng từng loại kháng sinh của 
Salmonella spp. không có mối quan hệ với các nguồn phân lập (p>0,05). 
So sánh với kết quả của Lê văn Du và Hồ Thị Kim Hoa (2017), tỷ lệ Salmonella 
spp. từ thịt heo kháng với C (79,17%), AMP (70,83%) và SXT (66,67%) cao hơn kết 
quả của chúng tôi lần lượt 31,58%, 36,84%, 31,58%; không kháng với CIP (một 
kháng sinh cephalosporin thế hệ thứ 3) tỷ lệ này thấp hơn báo cáo của chúng tôi là 
10,53%. Trong khi đó, tỷ lệ kháng CIP của các Salmonella spp. từ thịt gà là 60% cao 
hơn nhiều so với kết quả của chúng tôi 8,33%. Đối với các chủng Salmonella spp. từ 
nhóm thủy hải sản thì tỷ lệ kháng thấp hơn so với các chủng từ nhóm thịt, được trình 
bày tại Bảng 3.10. 
Bảng 3.10. Mức độ kháng từng loại kháng sinh của Salmonella spp. từ cá, mực, 
tôm 
 Cá (n=43) Mực (n=05) Tôm (n=10) Chung (n=58) 
Kháng 
sinh 
Số chủng 
kháng 
% 
Số chủng 
kháng 
% 
Số chủng 
kháng 
% 
Số chủng 
kháng 
% 
AMC 01 2,33 00 0 02 20,00 03 5,17 
AMP 22 51,16 02 40,00 01 10,00 25 43,10 
CAZ 01 2,33 00 0 01 10,00 02 3,45 
C 17 39,53 00 0 00 0 17 29,31 
NA 19 44,19 00 0 01 10,00 20 34,48 
CIP 11 25,58 00 0 01 10,00 12 20,69 
OFX 07 16,28 00 0 00 0 07 12,07 
GM 13 30,23 01 20,00 00 0 14 24,14 
STR 19 44,19 02 40,00 00 0 21 36,21 
TE 25 58,14 02 40,00 00 0 27 46,55 
SXT 14 32,56 02 40,00 01 10,00 17 29,31 
Fisher’s Exact test = 25,071; p = 0,052 
Salmonella spp. từ mẫu cá có khả năng kháng nhiều loại kháng sinh hơn từ mẫu 
tôm và mực. Kháng sinh có nhiều Salmonella spp. kháng vẫn là TE (cá: 58,14%, 
51 
mực: 40,00%), riêng các Salmonella spp. từ tôm hoàn toàn nhạy với loại kháng sinh 
này. Kháng sinh có tỷ lệ Salmonella spp. kháng đứng thứ hai là AMP (cá: 51,16%, 
mực: 40,00%, tôm: 10,00%) và thứ 3 là SXT (cá: 32,56%, mực: 40,00%, tôm: 
10,00%). Không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê về khả năng kháng từng 
loại kháng sinh của Salmonella spp. với các nguồn phân lập từ nhóm mẫu thủy hải 
sản (p>0,05). 
Từ kết quả thu được chúng tôi nhận thấy, việc sử dụng cũng như kiểm soát có 
hiệu quả một số nhóm kháng sinh được phép sử dụng hoặc cấm sử dụng cho mục 
đích chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản hiện nay vẫn chưa được quản lý, kiểm soát một 
cách triệt để, điều này rất báo động cho việc sẽ làm gia tăng về mặt số lượng kháng 
sinh bị các chủng Salmonella spp. phân lập được từ thực phẩm kháng. Vì vậy, cần có 
nhiều chính sách định hướng và sự vào cuộc quyết liệt từ phía cơ quan quản lý nhà 
nước trong việc giám sát sử dụng kháng sinh một cách bền vững và lâu dài. 
3.2.4 Kiểu hình kháng kháng sinh của các chủng Salmonella spp. 
Từ kết quả xác định tính nhạy từng loại kháng sinh chúng tôi đã xác định được 
kiểu hình kháng chung của Salmonella spp., kết quả này được trình bày tại Phụ lục 
B2. Cho thấy kiểu hình đa kháng phổ biến là AMP, C, TE, SXT chiếm 8,51% (8/94); 
thứ hai là AMP, C, NA, GM, STR, TE, SXT chiếm 6,38% (6/94) và sau cùng là kiểu 
hình STR, TE 5,32% (5/94). Tuy nhiên, kiểu hình đa kháng với nhiều nhóm kháng 
sinh nhất là AMP, CAZ, C, NA, CIP, OFX, GM, STR, TE, SXT và AMP, C, NA, 
CIP, OFX, GM, STR, TE, SXT chiếm 3,19% (3/94). Điều này cho thấy có thể đây là 
xu thế gia tăng tính đa kháng của Salmonella spp. 
Số liệu từ Phụ lục B3 thể hiện, trong số các chủng Salmonella spp. từ thịt gà và 
cá tươi thì có kiểu hình đa kháng với nhiều nhóm kháng sinh nhất. Các chủng 
Salmonella spp. từ thịt heo và gà có cùng kiểu hình đa kháng là AMP, C, TE, SXT 
chiếm tỷ lệ lần lượt là 13,16% (5/38) và 8,33% (3/36). Trong đó chỉ các chủng 
Salmonella spp. từ mẫu cá và thịt heo mới có kiểu hình đa kháng với nhiều loại kháng 
sinh khác nhau (10 loại). Về số lượng Salmonella spp. có kiểu hình đa kháng nhiều 
thì phải kể đến các Salmonella spp. từ mẫu cá. Cụ thể 03 chủng có kiểu hình AMP, 
52 
C, NA, CIP, OFX, GM, STR, TE, SXT; 02 chủng có kiểu hình AMP, C, NA, CIP, 
OFX, GM, STR, TE và 03 chủng có kiểu hình AMP, C, NA, GM, STR, TE, SXT. 
Kiểu hình kháng phổ biến của chúng tôi (AMP, C, TE, SXT) tương tự như báo 
cáo của Hoàng Hoài Phương và ctv (2008). Tuy nhiên, điều này khác với công bố của 
Lê Văn Du và Hồ Thị Kim Hoa (2017); Nguyễn Thanh Việt và ctv (2018). Kết quả 
trên có thể nhận định rằng kiểu hình kháng phổ biến có khác nhau giữa các nghiên 
cứu. Việc xác định kiểu hình kháng, kết hợp với kết quả giải trình tự và công cụ phân 
tích tin sinh học sẽ cho biết gen nào, cũng như các đột biến có hay không liên quan 
đến tình trạng đa kháng. 
Nhiều công trình trên thế giới cho thấy Salmonella spp. phân bố khác nhau theo 
quốc gia, vùng lãnh thổ, địa lý và theo nguồn bệnh. Vì vậy, tỷ lệ kháng và đa kháng 
cũng khác nhau theo từng khu vực. Do đó, việc khảo sát tỷ lệ nhiễm Salmonella spp. 
ở thực phẩm và nghiên cứu đặc điểm kháng kháng sinh của chúng là hoàn toàn phù 
hợp và cần thiết. Kết quả nghiên cứu có thể là nguồn dẫn liệu khoa học trong việc 
xây dựng các mô hình đánh giá nguy cơ và ngăn ngừa lây truyền Salmonella spp. từ 
thực phẩm sang người ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung. 
Đặc biệt, chúng tôi luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải giám sát chặt chẽ tình hình sử 
dụng kháng sinh, theo dõi xu hướng kháng kháng sinh ở các chủng Salmonella spp., 
nâng cao nhận thức và thúc đẩy các biện pháp làm giảm tỷ lệ kháng kháng sinh của 
Salmonella spp. trong tương lai. 
3.3 Kết quả xác định serovar của Salmonella spp. đa kháng 
Sau khi phân lập và xác định được kiểu hình đa kháng của các chủng Salmonella 
spp. từ các mẫu thu thập, chúng tôi lựa chọn 21 chủng Salmonella spp. có khả năng 
kháng từ 07 loại kháng sinh trở lên để xác định serovar của chúng bằng phương pháp 
theo mục 2.5.2. Kết quả định type kháng huyết thanh và số lượng các serovar được 
trình bày ở Bảng 3.11. 
53 
Bảng 3.11. Kết quả xác định serovar các chủng Salmonella spp. đa kháng 
Nguồn 
phân 
lập 
Công thức kháng nguyên 
Công thức Serovar Ký hiệu Kháng 
nguyên O 
Kháng nguyên H 
Pha 1 Pha 2 
Thịt 
heo 
8 i 1,z6 8:i:1,z6 S. Kentucky SA11/19 3497 
4 z 1,7 4:1,7:z S. Indiana SA11/19 4221 
Thịt bò 7 r 1,5 7:1,5:r S. Infantis SA07/20 3335 
Thịt gà 
4 f,s,g 4:f,s,g S. Agona SA11/19 3498 
7 r 1,5 7:1,5:r S. Infantis SA12/19 1584 
7 l,v en,z15 7:L,v:en,z15 S. Potsdam SA05/20 1114 
8 i 1,z6 8:i:1,z6 S. Kentucky SA07/20 1066 
8 i 1,z6 8:i:1,z6 S. Kentucky SA07/20 1067 
Cá 
8 i 1,z6 8:i:1,z6 S. Kentucky SA11/19 3514 
4 eh 1,2 4:eh:1,2 S. Saintpaul SA11/19 3515 
7 e,h e,n,z15 7:e,h:e,n,z15 S. Braenderup SA11/19 4205 
8 i 1,z6 8:i:1,z6 S. Kentucky SA12/19 501 
8 i 1,z6 8:i:1,z6 S. Kentucky SA12/19 1600 
7 l,v en,z15 7:L,v:en,z15 S. Potsdam SA01/20 66 
8 i 1,z6 8:i:1,z6 S. Kentucky SA02/20 1524 
7 r 1,5 7:1,5:r S. Infantis SA05/20 210 
4 f,s,g 4:f,s,g S. Agona SA06/20 1808 
7 r 1,5 7:1,5:r S. Infantis SA06/20 1809 
OMF 1,z6 OMF:1,z6:UTa - SA07/20 460 
7 1,z6 7:1,z6:UTa - SA07/20 462 
8 i 1,z6 8:i:1,z6 S. Kentucky SA08/20 2058 
Ghi chú: a: không xác định 
Trong số 21 chủng Salmonella, cả ba nguồn phân lập có số lượng serovar khác 
nhau, trong đó các mẫu thịt heo xác định được hai serovar là Kentucky và Indiana; 
54 
các mẫu thịt bò chỉ phát hiện duy nhất một serovar là Infantis; mẫu thịt gà phát hiện 
được năm serovar trong đó số lượng một có Agona, Infantis, Potsdam và ba 
Kentucky; riêng mẫu cá có số lượng serovar được phát hiện nhiều nhất, trong đó 
serovar Kentucky (năm chủng), còn lại mỗi chủng cho các serovar Saintpaul, 
Braenderup, Potsdam, Infantis, Agona. Tuy nhiên, hai chủng Salmonella có ký hiệu 
SA07/20 460 và SA07/20 462 từ mẫu cá, chúng tôi không nhận diện được serovar 
nên chỉ ghi nhận công thức kháng huyết thanh, vì trong quá trình thử nghiệm ngưng 
kết với kháng nguyên H quá trình chuyển pha không xảy ra. Trong 08 mẫu thịt (heo: 
02; bò: 01; gà: 05) và 13 mẫu cá nhiễm Salmonella, serovar phổ biến nhất là Kentucky 
(8 chủng), thứ hai là Infantis (4 chủng), thứ ba là Agona và Potsdam (2 chủng), thấp 
nhất là Saintpaul, Braenderup và Indiana (1 chủng). 
Chúng tôi nhận thấy, ở các nghiên cứu khác nhau thì serovar phổ biến cũng khác 
nhau. Ví dụ, Nguyễn Thanh Việt và ctv (2018) phân lập Salmonella từ thịt, 
Typhimurium là serovar duy nhất phân lập được ở cả ba nguồn thịt. Trong 11 mẫu 
thịt gà nhiễm Salmonella spp., serovar phổ biến là Typhimurium với 4 chủng, phổ 
biến thứ hai là Warragul, Indiana và Rissen với 2 chủng. Ngược lại, Derby phổ biến 
trong các mẫu thịt heo với 4 chủng, Typhimurium với 2 chủng. Thịt bò nhiễm 
Salmonella spp. ít nhất với 5 mẫu và tất cả đều là Typhimurium. Moe và ctv (2017) 
phân lập Salmonella từ thịt gà bán lẻ ở Myanmar thì S. Albany phổ biến nhất (38%). 
Patchanee và ctv (2016) đánh giá tỷ lệ nhiễm Salmonella trên các mẫu thịt heo bán lẻ 
ở Thái Lan, kết quả là S. Rissen phổ biến nhất. Ngoài ra còn nhiều công bố khác trên 
thế giới cũng cho kết quả khác nhau về các serovar phổ biến nhất phân lập được. Điều 
này hoàn toàn phụ thuộc vào khu vực địa lý và thời gian thu thập mẫu. 
3.4 Mức độ kháng từng loại kháng sinh của serovar theo nguồn phân lập 
Tỷ lệ các serovar đa kháng theo nguồn phân lập được xác định trong Bảng 3.12. 
55 
Bảng 3.12. Số lượng serovar đa kháng kháng sinh theo nguồn phân lập 
Serovar 
Thịt heo 
(n=2) 
Thịt bò 
(n=1) 
Thịt gà 
(n=5) 
Cá 
(n=13) 
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
(%) 
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
(%) 
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
(%) 
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
(%) 
S. Kentucky 01 50,0 - - 02 40,0 05 38,46 
S. Indiana 01 50,0 - - - - - - 
S. Infantis - - 01 100,0 01 20,0 02 15,38 
S. Agona - - - - 01 20,0 01 7,69 
S. Saintpaul - - - - - - 01 7,69 
S. Braenderup - - - - - - 01 7,69 
S. Potsdam - - - - 01 20,0 01 7,69 
OMF:1,z6:UTa - - - - - - 01 7,69 
7:1,z6:UTa - - - - - - 01 7,69 
Tổng (n=21) 2/21 9,52 1/21 4,76 5/21 23,81 13/21 61,90 
Kết quả từ Bảng 3.12, cho thấy Salmonella spp. từ mẫu cá có số lượng serovar 
đa kháng nhiều nhất, 61,90% (13/21 chủng). Tiếp theo là các chủng từ thịt gà 23,81% 
(5/21 chủng), thịt heo 9,52% (2/21), cuối cùng là thịt bò 4,76% (1/21). S. Kentucky 
là serovar chiếm đa số ở cả ba nguồn phân lập (thịt heo: 01; thịt gà: 02; cá: 05 chủng), 
chỉ duy nhất Salmonella từ thịt bò không phát hiện serovar Kentucky. 
Mức độ kháng từng loại kháng sinh của các serovar phân lập từ các nguồn khác 
nhau được xác định và trình bày trong Phụ lục B4. Qua đó cho thấy 100% serovar 
phân lập được kháng STR và TE. Kháng sinh có tỷ lệ serovar kháng ít nhất là AMC 
9,52% (2/21), kế đến là CAZ 23,81% (5/21). Điều này cho thấy AMC và CAZ vẫn 
còn tác dụng đối với các serovar đa kháng phân lập được. Các S. Indiana, S. Infantis, 
S. Saintpaul, S. Braenderup có tỷ lệ nhạy với AMC là 100,0%, S. Agona 50,0%, S. 
Kentucky 5,26%. Riêng S. Kentucky có ký hiệu 07/20 1066; 07/20 1067 và 12/19 
1600 có số lượng kháng sinh kháng là cao nhất (10 loại). 
56 
3.5 Sự hiện diện các nhóm integron của Salmonella 
Integron là yếu tố di truyền di động có vai trò quan trọng trong việc phát tán các 
gen kháng kháng sinh của vi khuẩn Gram âm, đặc biệt là chúng hiện diện phổ biến ở 
các vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae (Fluit và Schmitz, 1999). Cho đến nay, các 
integron đã được tìm thấy ở các loài vi khuẩn gây bệnh ở người, gia súc, gia cầm và 
các các loài vi khuẩn hiện diện trong các môi trường tự nhiên (Martinez, 2009; Yang 
và ctv, 2010; Koczura và ctv, 2014). Kết quả khảo sát chi thấy, integron nhóm 1, 2 
và 3 được tìm thấy ở các serovar Salmonella đa kháng phân lập được từ các nhóm 
thực phẩm lần lượt là 100%, 52,38% và 100%. Tỷ lệ phát hiện Salmonella mang cùng 
lúc ba nhóm integron là 52,38% (Hình 3.1). 
Kết quả từ Bảng 3.13, cho thấy tần suất hiện diện integron 1, 2 và 3 của chúng 
tôi có kết quả tương đối cao hơn so với các công trình trước đây. Jones và ctv (2003) 
cho rằng 47% các chủng Salmonella đa kháng phân lập được mang ít nhất một loại 
integron, chỉ có một chủng mang integron cả hai nhóm 1 và 2, trong khi đó integron 
3 không được phát hiện. Tuy nhiên, Asgharpour và ctv (2018) cho biết, integron nhóm 
1, 2 và 3 đã được tìm thấy trong số các serovar Salmonella Infantis phân lập từ thực 
phẩm tại Iran có tỷ lệ lần lượt là 36%, 42%, 22%, mang cả integron 1 và 2 là 4%. 
Ngoài ra, nhóm tác giả này còn cho biết khả năng kháng NA và TMP thường phổ 
biến nhất ở các serovar chứa các integron 1 và 2. 
Một kết quả khác của Irani và ctv (2018), công bố đã thực hiện trên 100 chủng 
Salmonella từ các mẫu gà thịt ở Iran. Tỷ lệ phát hiện của các integron 1, 2, 3 lần lượt 
là 50%, 28% và 48%. Dựa trên kết quả phân tích, nhóm tác giả đã nhận định, khả 
năng đề kháng với GM, TE và C tăng lên khi có sự hiện diện của các integron. Điều 
thú vị là 21,3% các chủng mang integron 3 có khả năng kháng GM trong khi các 
chủng không mang integron 3 nhạy với kháng sinh này. Ngoài ra, khả năng kháng 
TE đã tăng từ 2,4% ở các chủng không mang integron 3 lên 17% ở các chủng có 
mang integron 3. Kết quả của chúng tôi cho thấy, các integron 1 và 3 thường xuyên 
xuất hiện với các serovar Salmonella có kiểu hình kháng nhóm β-lactam, 
57 
aminoglycoside, tetracycline và sulfonamide. Trong đó, đáng quan tâm có ba serovar 
không còn khả năng nhạy với CAZ đó là Kentucky (03), Indiana (01) và Agona (01). 
Hình 3.1. Kết quả xác định các nhóm integron ở Salmonella 
Chú thích: M: Thang chuẩn 100bp plus; NC: Chứng âm; PC: Chứng dương [a: 
Int3 (600 bp), b: Int2 (233 bp), c: Int1 (164 bp)]; 1-21: các mẫu khảo sát 
Hiện tại, các integron 2 được tìm thấy chủ yếu ở vi khuẩn gây bệnh cho người, 
động vật và hiện diện trên các môi trường tự nhiên (Goldstein và ctv, 2001; White và 
ctv, 2001; Kim và ctv, 2010). Nghiên cứu của Saenz và ctv (2004) cho thấy 4/17 chủng 
(chiếm 23,53%) Salmonella có nguồn gốc từ người, động vật và thực phẩm có các 
integron 2. Sự hiện diện các integron có liên quan chặt chẽ đến khả năng kháng 
quinolon, aminoglycoside, sulfonamide, phenicol và kháng sinh nhóm β-lactam 
(Rijavec và ctv, 2006). Điều này phù hợp với kết quả thu được của chúng tôi. Sự tồn 
tại của integron 1, 2 và 3 trong các Salmonella có liên quan đáng kể đến khả năng 
kháng ở hầu hết các chủng phân lập từ thực phẩm và điều này chỉ ra vai trò của chúng 
góp phần trong việc lan truyền các gen kháng trong môi trường là rất rõ ràng và đáng 
quan tâm.
M NC PC 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 
a 
b 
c 
58 
Bảng 3.13. Sự hiện diện các nhóm integron của serovar Salmonella 
Ký hiệu Serovar Kiểu hình kháng kháng sinh Int1 Int2 Int3 
SA11/19 3497 S. Kentucky AMC/AM-C-NA/CIP/OFX-STR-TE + + + 
SA11/19 4221 S. Indiana CAZ-C-NA/CIP/OFX-STR/GM-TE-SXT + - + 
SA07/20 3335 S. Infantis AM-C-NA/CIP/OFX-STR-SXT + + + 
SA11/19 3498 S. Agona AMC/AM-CAZ-C-STR-TE-SXT + - + 
SA12/19 1584 S. Infantis AM-C-NA-STR/GM-TE-SXT + + + 
SA05/20 1114 S. Potsdam AM-C-NA-STR/GM-TE-SXT + - + 
SA07/20 1066 S. Kentucky AM-CAZ-C-NA/CIP/OFX-STR/GM-TE-SXT + - + 
SA07/20 1067 S. Kentucky AM-CAZ-C-NA/CIP/OFX-STR/GM-TE-SXT + - + 
SA11/19 3514 S. Kentucky AM-C-NA/CIP/OFX-STR/GM-TE-SXT + + + 
SA11/19 3515 S. Saintpaul AM-C-NA/CIP-STR/GM-TE-SXT + - + 
SA11/19 4205 S. Braenderup AM-C-NA-STR/GM-TE-SXT + + + 
SA12/19 501 S. Kentucky AM-C-NA/CIP/OFX-STR/GM-TE-SXT + + + 
SA12/19 1600 S. Kentucky AM-CAZ-C-NA/CIP/OFX-STR/GM-TE-SXT + + + 
SA01/20 66 S. Potsdam AM-NA/CIP-STR/GM-TE-SXT + - + 
SA02/20 1524 S. Kentucky AM-C-NA/CIP/OFX-STR/GM-TE-SXT + - + 
SA05/20 210 S. Infantis AM-C-NA-STR/GM-TE-SXT + + + 
SA06/20 1808 S. Agona AMC/AM-CAZ-C-STR-TE-SXT + + + 
59 
SA06/20 1809 S. Infantis AM-C-NA/CIP-STR/GM-TE + + + 
SA07/20 460 OMF:1,z6:UT AM-C-NA/CIP/OFX-STR/GM-TE-SXT + - + 
SA07/20 462 7:1,z6:UT AM-C-NA-STR/GM-TE-SXT + + + 
SA08/20 2058 S. Kentucky AM-C-NA/CIP/OFX-STR/GM-TE + - + 
60 
3.6 Đặc điểm vùng gen cassette của Salmonella dương tính với integron 1, 2 
Các gen cassette nằm giữa vùng 5’-CS và 3’-CS của các integron 1 và có kích 
thước thay đổi tùy thuộc vào các gen kháng được chèn vào. Đặc điểm vùng gen 
cassette của các serovar Salmonella được xác định tại Bảng 3.14. Đối với các integron 
1, kết quả khảo sát cho thấy vùng gen cassette được khuếch đại ở 18/21 chủng 
Salmonella (85,71%) với 08 kích thước khác nhau (> 1,0 kbp; 1,0 kbp; 0,9 kbp; 0,6 
kbp; 0,5 kbp; 0,4 kbp; 0,25 kbp; 0,2 kbp). Vùng gen cassette của integron 1 được 
khuếch đại nhiều nhất là vùng có kích thước 0,6 kbp (9/21, 42,86%), kế đến là 1,0 
kbp (7/21, 33,33%), 0,25 kbp (6/21, 28,57%), 0,9 kbp (5/21, 23,81%), > 1,0 kbp 
(4/21, 19,05%) 0,4 và 0,2 kbp (2/21, 9,53%) và thấp nhất là 0,5 kbp (1/21, 4,76%). 
Tỷ lệ các serovar của Salmonella không mang vùng gen cassette thuộc integron 1 là 
14,29% (3/21), mang cùng lúc 4 vùng là 4,76% (1/21), 3 và 2 vùng là 23,81% (5/21), 
1 vùng 33,33% (7/21). Vùng gen cassette có kích thước > 1,0 kbp chủ yếu hiện diện 
ở serovar Kentucky với tỷ lệ 50% (4/8), các serovar này mang chung các gen 
blaCTX/TEM là gen mã hóa enzyme β-lactamase 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_tinh_khang_khang_sinh_o_muc_do_phan_tu_cu.pdf
  • pdf1.QD CAP TRUONG NCS VU-20220418160534.pdf
  • pdf2.TB CAP TRUONG NCS VU-20220418160548.pdf
  • pdf4. TOM TAT LATS NCS VU.pdf
  • pdf5.THONG TIN DONG GOP MOI NCS VU-20220418161052.pdf
  • pdf6.TRICH YEU LUAN AN NCS VU-20220418161033.pdf