Luận án Nghiên cứu tổng hợp và biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng định hướng ứng dụng mang thuốc chống ung thư

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu tổng hợp và biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng định hướng ứng dụng mang thuốc chống ung thư", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu tổng hợp và biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng định hướng ứng dụng mang thuốc chống ung thư

hỉ tiêu còn lại, mẫu được chuẩn bị ở dạng rắn. 62 2.3.7. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic (F127) Phương pháp nghiên cứu Tương tự như mPEG, đối với Pluronic cũng cần được hoạt hóa với 4- Nitrophenyl chloroformate. Tuy nhiên, trong cấu trúc của Pluronic có hai nhóm –OH ở hai đầu, nên sau khi cả hai đầu được hoạt hóa với NPC thì tiếp tục cho phản ứng với 3-amino-1-propanol để tạo thành một nhóm –OH ở một đầu, sản phẩm tạo thành kí hiệu NPC-F127-OH. Tiếp theo, để biến tính bề mặt nano silica với Pluronic (HMSN-F127), sử dụng mẫu silica trên bề mặt có chứa nhóm amin phản ứng với Pluronic đã hoạt hóa để tạo thành HMSN-F127. Sơ đồ 2.10. Sơ đồ phản ứng tổng hợp NPC-F127-OH Quy trình tổng hợp a) Hoạt hóa Pluronic (F127) bằng 4-Nitrophenyl chloroformate (NPC) Cân 5 gam F127 cho vào bình cầu 250 mL làm nóng chảy ở nhiệt độ 65oC trong môi trường chân không khoảng 1 giờ 30 phút để F127 tan chảy hoàn toàn và đồng thời không có độ ẩm trong mẫu. Sau đó 0,18 g NPC cho vào bình cầu, khuấy ở nhiệt độ 65oC, môi trường khí N2 trong 5 giờ. Giảm nhiệt độ xuống 40oC, cho 10 ml THF vào khuấy ở nhiệt độ trong vòng 16 giờ. Cho 0,03 ml 3-amino-1-propanol (1,2 mmol và d = 0,982 gam/l) pha loãng bằng 10 ml THF, nhỏ giọt từ từ vào bình cầu, khuấy từ trong 5 giờ ở nhiệt độ phòng. Dung dịch thu được đem đi tủa trong 250 ml 63 diethyl ether. Sau đó, hỗn hợp được lọc hút chân không, sản phẩm được đem đi cô quay để loại hoàn toàn dung môi còn sót lại đến khối lượng không đổi. Sản phẩm thu được có màu trắng mịn. Sơ đồ 2.11. Sơ đồ hoạt hóa F127 bằng p-nitrophenyl chloroformate b) Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic Phân tán 50 mg HMSN-NH2 (mẫu chứa lượng amin cao nhất) trong 10ml nước khử ion, đánh siêu âm trong 15 phút và cho vào bình cầu, gọi là dung dịch A. Hòa tan NPC-F127-OH trong nước khử ion, khuấy đến tan, gọi là dung dịch B. Nhỏ từ từ dung dịch B vào dung dịch A, tiếp tục khuấy trong vòng 2 giờ với tốc độ 350 rpm. Sản phẩm thu được thẩm tách với nước cất bằng màng 12×14 KDa trong 2 ngày, thay nước 4 lần/ngày, sau đó đông khô thu được mẫu HMSN-F127 dạng bột màu trắng. Phương pháp đánh giá Mẫu NPC-F127-OH, HMSN-F127 được phân tích bằng FTIR. Ngoài ra mẫu HMSN-F127 được đánh giá hình thái qua ảnh SEM, TEM. Đánh giá kích thước hạt và thế zeta, đánh giá diện tích bề mặt - thể tích lỗ xốp, XRD, XPS và TGA. 64 Chuẩn bị mẫu: Mẫu sau khi đông khô (các thông số cài đặt như sau: nhiệt độ -38,1oC, áp suất 29,5 Pa) trong 3 ngày thì được phân tán lại trong nước khử ion đã được lọc qua màng 0,45µm với nồng độ 1000 ppm. Đối với mẫu chụp hình TEM, sau khi dung dịch được siêu âm thì tráng ngay lên bề mặt lưới đồng và làm khô. Riêng đối với mẫu đo kích thước hạt, thế zeta thì dung dịch được để ổn định khoảng 1 giờ sau khi siêu âm. Đối với các chỉ tiêu còn lại, mẫu được chuẩn bị ở dạng rắn. 2.3.8. Nghiên cứu hiệu quả nang hóa thuốc chống ung thư Doxorubicin (Dox) của các chất mang nano HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127 Để đánh giá khả năng nang hóa thuốc của nano silica rỗng và mẫu chức hóa bề mặt, phương pháp khuếch tán qua màng được sử dụng. Theo phương pháp này hệ chất mang – thuốc được khuấy tại nhiệt độ phòng, sau đó cho vào màng thẩm tách và đặt vào môi trường trường thích hợp để loại thuốc tự do. Thuốc tự do được định lượng bằng phương pháp trắc quang UV-Vis. Khả năng mang thuốc của vật liệu được đánh giá qua thông số: Hiệu suất tải thuốc – DLE (Drug loading efficency) và khả năng mang thuốc – DLC [95, 143]: Hiệu suất tải thuốc DLE (%) = Lượng thuốc chứa trong mẫu Tổng lượng thuốc ban đầu x 100% Khả năng mang thuốc của hạt DLC (%) = Lượng thuốc chứa trong mẫu Tổng lượng mẫu và lượng thuốc ban đầu x 100% Quy trình thực hiện: Phân tán 20 mg mỗi chất mang trong 8 ml nước khử ion, đánh siêu âm 15 phút, cho vào lọ thủy tinh màu nâu. Tiếp theo thêm dung dịch Doxorubicin 1000 ppm vào và khuấy hỗn hợp trong 24 giờ tại nhiệt độ phòng (riêng đối với chất mang HMSN-F127 thì khuấy tại 20oC do đây là polymer nhạy nhiệt), mẫu được đặt trong bóng tối. Sau đó chia thành 3 phần, tương ứng với ba nghiệm thức. Cho mỗi phần vào một túi màng cellulose 6×8 KDa, thẩm tách trong 10 ml nước khử ion trong 6 giờ. Thay nước bên ngoài màng 3 lần, mỗi lần cách nhau 2 giờ. Nước cất ngoài màng ứng với mỗi lần thay được đem đi đo UV-Vis để xác định hàm lượng Dox tự do tương ứng. Sau khi loại thuốc dư, dung dịch bên trong màng ngay lập tức được đông khô để mang đánh giá khả năng phóng thích thuốc. Kí hiệu hệ chất mang – thuốc gồm HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox. 65 Sơ đồ 2.12. Sơ đồ nang hóa thuốc Doxorubicine của hệ chất mang 2.3.9. Khảo sát tốc độ phóng thích thuốc Doxorubicin của hệ HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox Đệm PBS là một dung dịch đẳng trương có pH 7,4 giống với pH trong cơ thể người, pH 5,5 là pH của tế bào ung thư, đây là dung dịch điển hình để thẩm tách các chất tương hợp sinh học. Phương pháp màng thẩm tách được sử dụng để khảo sát sự nhả chậm thuốc Dox từ hệ. Túi thẩm tách có khối lượng phân tử 3.5 KDa chứa mẫu được treo lơ lửng trong dung dịch phosphate-buffered saline (PBS) có pH 7,4 và pH 5,5 được đặt trong bể điều nhiệt và khuấy ở 37 ± 10C. Ở mỗi khoảng thời gian khác nhau một lượng mẫu được rút ra, đồng thời thêm vào một lượng tương ứng dung dịch PBS được rút ra để đảm bảo thể tích dung dịch đệm không đổi. Hàm lượng Dox được giải phóng ra được xác định bằng phương pháp quang phổ tử ngoại khả kiến UV-Vis. Thí nghiệm nhả chậm Dox được làm lặp lại 3 lần với khoảng tin cậy lớn hơn 95%. Phần trăm Dox giải phóng ra được tính bằng công thức (Wendy H. Chern). Q = CnVs + Vt ∑ Cn−1 n−1 i=1 Trong đó: Q: lượng Dox được giải phóng từ chất mang nano Cn: nồng độ ở thời điểm t. 66 Vs: thể tích của PBS Vt: thể tích mẫu. ∑ Cn−1 n−1 i=1 : nồng độ của Dox được giải phóng theo thời gian. Quy trình thực hiện: Phân tán một lượng xác định hệ chất mang – thuốc gồm HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox vào 1 ml nước cất. Chuyển các mẫu thử vào màng cellulose 6×8 KDa riêng biệt. Đặt các màng thẩm tách vào 20 ml dung dịch đệm photsphate (PBS) có pH lần lượt 7,4 và 5,5. Tiến hành khuấy dung dịch tại nhiệt độ sinh lý 37oC với tốc độ 100 rpm. Tại các thời điểm định trước gồm 1, 3, 6, 9, 12, 24, 36, 48 và 72 giờ thì 2 ml dung dịch bên ngoài màng được lấy ra và 2ml đệm được thêm vào. Đo độ hấp thụ của các dung dịch ngoài màng bằng phương pháp trắc quang UV-Vis, sau đó vẽ biểu đồ phóng thích thuốc của các mẫu tương ứng. Sơ đồ 2.13. Sơ đồ phóng thích thuốc của hệ chất mang – thuốc 67 2.3.10. Nghiên cứu độc tính tế bào đối với các hệ chất mang nano HMSN, HMSN- NH2, HMSN-PEG, HMSN-F127, HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN- mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox Sử dụng các phương pháp MTT để đánh giá độ độc tế bào của hệ mang thuốc và hiệu quả diệt tế bào ung thư của hệ chất mang khi mang thuốc chống ung thư. Các tế bào ung thư dự kiến sử dụng là tế bào ung thư gan HCC J5 và được thực hiện tại Viện Khoa học vật liệu ứng dụng thành phố Hồ Chí Minh. Nguyên tắc MTT là phương pháp phản ánh số lượng tế bào thông qua các sản phẩm trao đổi chất của chúng. Cụ thể, các enzyme oxidoreductase phụ thuộc NADPH (NADPH- dependent oxidoreductase) phản ánh số lượng tế bào sống hiện diện. Những enzyme này có khả năng khử muối 3-(4,5-dimethylthiazol-2-yl)-2,5-diphenyltetrazolium bromide (viết tắt là MTT, thuộc loại muối tetrazolium) tạo thành tinh thể formazan không tan, có màu tím. Sau đó, formazan được hòa tan bằng dung dịch isopropanol đã được axit hóa trước bằng HCl 0,01N tạo thành dung dịch màu tím. Dung dịch này được định lượng (xác định nồng độ formazan) bằng cách đo mật độ quang (optical density, hay OD) của nó, sử dụng máy đo quang phổ ở bước sóng 500 – 600 nm. Từ giá trị này, tính toán ngược lại số lượng tế bào sống, từ đó đánh giá hoạt tính của đối tượng đã thử nghiệm. Nuôi cấy tế bào Dòng tế bào ung thư gan (HCC J5) được nuôi cấy trong môi trường DMEM có bổ sung L-glutamin (2 mM), 1,5 g/L NaHCO3, penicillin (100 U/mL), streptomycin (100 μg/mL), 10% (v/v) huyết thanh bào thai bò FBS và ủ ở 37oC, 5% CO2. Quy trình khảo sát hoạt tính gây độc bằng phương pháp MTT Tế bào đơn được cấy trên những đĩa nuôi cấy 96 giếng với mật độ là 5×104 tế bào/giếng. Sau 24 giờ nuôi cấy, quần thể tế bào được ủ với chất khảo sát lần lượt Dox, HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127, HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox và HMSN-F127/Dox ở các nồng độ khác nhau trong 48 giờ. Sau đó, 20 µl dung dịch MTT (5 mg/mL) được thêm vào mỗi giếng và ủ 4 giờ ở 37oC. Môi trường nuôi cấy được loại bỏ, 100 µl dung dịch DMSO được thêm vào mỗi giếng và khuấy nhẹ trong 2 phút. Các đĩa sau đó được 68 đo độ hấp thụ quang tại bước sóng 570 nm. Các thí nghiệm được lặp lại ba lần và kết quả được trình bày dưới dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. Xử lý kết quả Sau khi có giá trị mật độ quang ở bước sóng 570nm (ký hiệu là OD570 ) - Tính OD570 = ODtb - ODblank - Tính tỉ lệ (%) gây độc tế bào theo công thức: TN C OD % I= 1- ×100 % OD Với - ODtb: giá trị OD của giếng có chứa tế bào - ODblank: giá trị OD của giếng blank (không có tế bào) - ODTN: giá trị OD của mẫu thử - ODC: giá trị OD của mẫu chứng (control) Dữ liệu được tính toán dựa trên giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn và đánh giá thống kê thực hiện bằng Microsolf Excell. 69 CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ - THẢO LUẬN 3.1. Kết quả khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến kích thước hạt nano silica rắn 3.1.1. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ TEOS Theo báo cáo của Stober và cộng sự, lượng TEOS không ảnh hưởng đến kích thước hạt [10]. Ngược lại, Bogush và cộng sự cho rằng kích thước hạt lớn hơn do tăng nồng độ của TEOS [12] và trong khi Van Helden và cộng sự thì cho rằng kích thước hạt giảm [144]. Đồ thị 3.1. Ảnh hưởng của nồng độ TEOS đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của NH3 (0,41 mol/l) và H2O (7,23 mol/l) Quan sát Đồ thị 3.1 nhận thấy tại nồng độ của dung dịch NH3 0,41 mol/l và nồng độ H2O 7,23 mol/l, kích thước hạt tăng khi tăng nồng độ của TEOS cho đến khi nồng độ TEOS 0,61 mol/l thì kích thước hạt ổn định khoảng 239,63 ± 3,50 nm. Cơ chế tạo thành các hạt gồm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất (giai đoạn tạo mầm) tại dung dịch quá bão hòa ban đầu, sự tạo thành các hạt mầm diễn ra để hình thành các hạt sơ cấp. Giai đoạn thứ hai (giai đoạn phát triển mầm) là sự kết tụ các hạt sơ cấp tạo thành các hạt thứ cấp bền hơn [12, 145]. Trong giai đoạn tạo mầm, nồng độ của TEOS sẽ quy định lượng mầm/ hạt sơ cấp. Do đó khi tăng nồng độ của TEOS thì nồng độ của hạt sơ cấp tại giai đoạn tạo mầm (tạo thành do phản ứng thủy phân) cũng tăng lên, kết quả là hạt sẽ tăng kích thước nhanh chóng ở giai đoạn phát triển mầm. Tuy nhiên, khi nồng độ TEOS lớn hơn 0,6 mol/l thì kích thước hạt giảm do nồng độ TEOS quá cao thì vai trò xúc tác của NH3 trong phản ứng thủy phân và phản ứng trùng ngưng không hiệu quả nên kích thước hạt giảm. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Rahman và cộng sự [110]. 70 Đồ thị 3.2. Ảnh hưởng của nồng độ TEOS đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của NH3 (0,41 mol/l) và H2O (7,23 mol/l) Sự phân bố kích thước kích thước hạt (SD) thể hiện trong Đồ thị 3.2, tại tất cả các nồng độ đường cong phân bố khá rộng và có hình dạng giống nhau thuộc kiểu hình chuông. Tuy nhiên, khi nồng độ TEOS lớn hơn 0,22 mol/l thì đường SD rộng hơn. Điều này do khi nồng độ TEOS tăng thì sự tạo thành các hạt sơ cấp tại giai đoạn quá bão hòa cao hơn tốc độ tiêu thụ (consumption) các hạt này (do nồng độ chất xúc tác giảm) theo cơ chế Ostwald [146, 147]. Do đó, các hạt sơ cấp này kết hợp với nhau một cách tự nhiên để tạo thành các hạt thứ cấp bền hơn, kết quả là sẽ tồn tại nhiều kích thước hạt [148]. Ngoài ra, kết quả ảnh TEM Hình 3.1 cho thấy các hạt nano silica tạo thành tại nồng độ TEOS cao nhất 1,2 mol/l có sự kết tụ và kích thước hạt không đều. Hình 3.1. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nồng độ của TEOS: (A) 0,07 mol/l and (B) 1,20 mol/l tại điều kiện cố định 3.1.2. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ ammonia Nhìn chung phản ứng thủy phân diễn ra rất chậm, mặc dù axit hoặc bazơ được dùng như là chất xúc tác. Ammonia được dùng làm chất xúc tác cho phản ứng thủy 71 phân và ngưng tụ của TEOS trong ethanol. Nếu không có ammonia thì silica tạo thành có hình dạng hạt không đều và không có dạng hình cầu khi quan sát dưới kính hiển vi. Do đó, ammonia ảnh hưởng đến hình thái của các hạt và tạo thành các hạt có dạng hình cầu. Khi tăng nồng độ ammonia thì kích thước hạt sẽ tăng và hạt hình cầu lớn nhất được tạo thành khi hỗn hợp phản ứng bão hòa với ammonia [10]. Đồ thị 3.3. Ảnh hưởng của nồng độ ammonia đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (0,36 mol/l) và H2O (6,90 mol/l) Đồ thị 3.4. Ảnh hưởng của nồng độ amonia đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (0,36 mol/l) và H2O (6,90 mol/l) Quan sát Đồ thị 3.3 và 3.4 nhận thấy khuynh hướng chung về kích thước hạt và sự phân bố kích thước hạt (SD) khi tăng nồng độ của ammonia. Sự có mặt của ammonia làm tăng tốc độ phản ứng thủy phân TEOS cũng như tốc độ phản ứng trùng ngưng các monomer, kết quả làm tăng kích thước hạt. Kết luận này tương tự như công bố của Matsoukas và Gulari [11, 17, 149], nhưng theo nghiên cứu của Rao thì cho kết quả ngược lại tức là kích thước hạt giảm [111]. Tuy nhiên, tại nồng độ NH3 72 thấp 0,17 mol/l thì sự phân bố kích thước hạt tương đối hẹp so với các nồng độ còn lại. Và khi quan sát ảnh TEM thì bề mặt các hạt nano silica tạo thành tương đối nhẵn hơn so với nồng độ cao nhất 2,90 mol/l (Hình 3.2). Hình 3.2. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nồng độ của NH3: (A) 0,17 mol/l and (B) 2,90 mol/l tại điều kiện cố định. 3.1.3. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của ethanol Vì khả năng hòa tan giữa orthosilicate và nước thấp nên một dung môi được dùng để trộn lẫn hai chất phản ứng này trong quá trình phản ứng như ethanol đã được sử dụng [11, 113]. Ngoài ra, ethanol còn ảnh hưởng đến độ phân tán và kích thước hạt nano silica [111]. Quan sát Đồ thị 3.5 nhận thấy ảnh hưởng của nồng độ ethanol đến kích thước hạt, khi nồng độ ethanol tăng thì kích thước hạt giảm. Tại nồng độ ethanol khảo sát cao nhất là 15,19 mol/l thì sự phân bố kích thước hạt (SD) hẹp hơn thể hiện qua Đồ thị 3.6. Tuy nhiên quan sát ảnh TEM trong Hình 3.3 cho thấy hạt không đều, hình dạng hạt không phải dạng hình cầu. Điều này có thể do khi nồng độ ethanol cao thì vai trò xúc tác của NH3 trong phản ứng thủy phân và phản ứng trùng ngưng không hiệu quả nên kích thước hạt giảm [110]. Đồ thị 3.5. Ảnh hưởng của nồng độ ethanol đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (1,49 mol/l) và H2O (28,90 mol/l) 73 Đồ thị 3.6. Ảnh hưởng của nồng độ ethanol đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (1,49 mol/l) và H2O (28,90 mol/l) Hình 3.3. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nồng độ của ethanol: (A) 8.68 mol/l và (B) 15.19 mol/l tại điều kiện cố định. 3.1.4. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của thời gian phản ứng Ảnh hưởng của thời gian phản ứng từ 0,5 giờ đến 5 giờ được thực hiện tại nồng độ các chất tham gia phản ứng TEOS 0,22 mol/l, NH3 0,39 mol/l và ethanol 13,48 mol/l. Đồ thị 3.7. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (0,22 mol/l) và H2O (6,87 mol/l) 74 Đồ thị 3.8. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (0,22 mol/l) và H2O (6,87 mol/l) Hình 3.4. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai thời gian phản ứng: (A) 0,5 giờ và (B) 5 giờ tại điều kiện cố định. Trong quá trình thực hiện phản ứng nhận thấy màu của dung dịch trong bình cầu chuyển sang hơi đục sau 15 phút thêm dung dịch TEOS. Điều này có thể do sau khi phản ứng thủy phân TEOS tạo thành silicic axit, sau đó là sự ngưng tụ của silicic axit ở trạng thái siêu bão hòa nên dung dịch trở nên có màu đục hơn so với ban đầu [10]. Sau hơn 1 giờ tiếp theo thì dung dịch có màu trắng đục và không nhận thấy sự thay đổi màu cho đến kết thúc phản ứng. Điều này phù hợp với kết quả kích thước hạt tăng khi thời gian phản ứng tăng thể hiện trong Đồ thị 3.7 và phù hợp với nghiên cứu đã công bố của Li và cộng sự [150]. Đồ thị 3.8 cho thấy sự phân bố kích thước hạt thu được khi phản ứng từ 3 ÷ 5 giờ là tương đối giống nhau với đường phân bố khá rộng so với của hạt thu được khi phản ứng 2 giờ. Tuy nhiên, quan sát ảnh TEM Hình 3.4 nhận thấy, tại thời gian phản ứng 0,5 giờ (hình A), sau hai phản ứng thủy phân và trùng ngưng thì các hạt sơ cấp chưa đủ thời gian ngưng tụ và hình thành các hạt nano có dạng hình cầu như tại thời gian phản ứng 5 giờ (hình B). 75 3.1.5. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ Kết quả nghiên cứu của Bogush và cộng sự về ảnh hưởng của nhiệt độ từ 9oC- 55oC đến kích thước hạt cho thấy kích thước hạt giảm khi nhiệt độ phản ứng tăng. Đặc biệt tại nhiệt độ thấp nhất thì các hạt đơn phân tán không được tạo thành [12]. Dựa vào Bảng 3.1 nhận thấy kích thước hạt giảm khi nhiệt độ tăng tại nồng độ các chất tham gia phản ứng TEOS 0,22 mol/lít, NH3 0,39 mol/l và ethanol 13,48 mol/l, kích thước hạt thể hiện rõ trong hình TEM (Hình 3.5), kết quả này tương ứng với nghiên cứu của Rahman và cộng sự [110]. Tại nhiệt độ 50oC và 65oC thì kích thước hạt thay đổi không đáng kể. Theo Kota Sreenivasa Rao và cộng sự thì ảnh hưởng của nhiệt độ liên quan đến nồng độ bão hòa của dung dịch NH3, nồng độ của NH3 giảm khi nhiệt độ tăng ảnh nên ảnh hưởng đến tốc độ phản ứng thủy phân và ngưng tụ [111]. Bảng 3.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến kích thước hạt Hình 3.5. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nhiệt độ: (A) 350C và (B) 650C tại điều kiện cố định 76 3.1.6. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của tốc độ thêm dung dịch ammonia Hình 3.6. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với tốc độ nhỏ của NH3: (A) nhanh và (B) 100μl/phút tại điều kiện cố định. Để kiểm soát kích thước hạt tạo thành, hầu hết các công bố nghiên cứu tốc độ thêm dung dịch TEOS vào hỗn hợp H2O, NH3 và ethanol trong quá trình tổng hợp nano silica [112, 151]. Tuy nhiên, tốc độ thêm dung dịch NH3 vào hỗn hợp phản ứng cũng ảnh hưởng đáng kể đến kích thước hạt. Dựa vào Hình 3.6 nhận thấy khi cho nhanh dung dịch NH3 đặc vào hỗn hợp ethanol, nước, TEOS thì tốc độ phản ứng thủy phân, kết quả tạo nồng độ các hạt sơ cấp tăng nhanh. Đồng thời, tốc độ phản ứng cũng tăng nhanh tương tự nên các hạt sơ cấp sẽ ngưng tụ nhanh chóng, do đó kích thước hạt tăng nhanh [110]. Như vậy các yếu tố ảnh hưởng đến kích thước hạt gồm nồng độ TEOS, NH3, ethanol và nhiệt độ đều có những quy luật riêng nên không thể cố định các yếu tố này để tạo thành một bộ số liệu cho tổng hợp hạt nano theo kích thước đã dự định. Các yếu tố này sẽ được tối ưu theo mô hình BBD. Dựa vào Đồ thị 3.7 nhận thấy tại thời gian phản ứng nhỏ hơn 2 giờ thì hạt nano được tạo thành. Do đó, để rút ngắn thời gian phản ứng sẽ cố định thời gian phản ứng là 3 giờ cho các thí nghiệm trong mô hình BBD. Tương tự, theo Hình 3.6, khi thêm nhanh dung dịch NH3 thì hạt tương đối đồng đều và bề mặt nhẵn hơn, như vậy sẽ chọn thêm nhanh dung dịch NH3 cho các thí nghiệm sau. 3.2. Kết quả tổng hợp hạt nano silica rắn bằng phương pháp đáp ứng bề mặt 3.2.1. Kết quả tổng hợp hạt nano silica rắn SSN Dựa vào kết quả của Bảng 3.2, ta thấy yếu tố đáp ứng kích thước hạt phụ thuộc chặt chẽ vào các biến số độc lập (nồng độ TEOS, NH3, EtOH và nhiệt độ). Kích thước hạt lớn nhất là 250.8 nm và kích thước hạt nhỏ nhất là 43.5 nm. 77 Bảng 3.2. Giá trị kết quả thực nghiệm và dự đoán bởi Minitab 16 STT V TEOS (ml) V NH3
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_tong_hop_va_bien_tinh_be_mat_nano_silica.pdf
2. Tom tat LA-Tieng Viet- NCS Nguyen Thi Ngoc Tram.pdf
3. Tom tat LA-Tieng Anh-NCS Nguyen Thi Ngoc Tram.pdf
Dong gop moi tieng Viet - Tieng Anh - Ngoc Tram.pdf