Luận án Nghiên cứu ứng dụng hình thức đối tác công tư trong quản lý đầu tư xây dựng công trình giao thông đô thị
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu ứng dụng hình thức đối tác công tư trong quản lý đầu tư xây dựng công trình giao thông đô thị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu ứng dụng hình thức đối tác công tư trong quản lý đầu tư xây dựng công trình giao thông đô thị
ợc lựa chọn để thực hiện theo hình thức đối tác công tư (như là đường giao thông, dịch vụ công ích, ). Các dự án không có hiệu quả tài 90 chính, không có khả năng thu hồi vốn đầu tư thì nên để nhà nước đầu tư theo hình thức truyền thống (như là đường giao thông nông thôn, dịch vụ môi trường, công trình công ích xã hội,). Kinh nghiệm của Vương quốc Anh, Hà Lan còn cho thấy để lựa chọn dự án tốt thì việc phân tích, đánh giá kiểm soát của cơ quan quản lý phải minh bạch nhằm lựa chọn được dự án có các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật tốt nhất. Việc lựa chọn dự án cũng như lựa chọn Nhà đầu tư tư nhân cần phải dựa trên sự công bằng, cạnh tranh mà không chịu bất kỳ lý do chủ quan, tác động của con người trong quá trình lựa chọn dự án. 2.4.2. Đơn vị chuyên trách về đối tác công tư Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về hình thức đối tác công tư là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự thành công của dự án. Các học giả trên thế giới đều cho rằng để thực hiện dự án đối tác công tư hiệu quả phải quy định rõ cơ quan nhà nước đầu mối nào chịu trách nhiệm thực hiện các dự án. Xét trên khía cạnh quản lý đầu tư xây dựng công trình thì cần có một chủ thể chung và chuyên trách để thực hiện chức năng quản lý đối với tất cả các quá trình và hoạt động của hình thức đối tác công tư. Ấn Độ là một trong những ví dụ tiêu biểu cho việc xây dựng cơ quan chuyên trách về hình thức đối tác công tư. Trong giai đoạn 1990-2005, các dự án đối tác công tư được thực hiện trong bối cảnh hành lang pháp lý chưa hoàn thiện và chủ yếu vận hành theo các cơ chế ưu đãi của Chính phủ [22]. Do vậy, Chính phủ đã thành lập Ủy ban cơ sở hạ tầng (COI) trực thuộc sự điều hành trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ. Đây là đơn vị quản lý, giám sát các dự án đối tác công tư, nghiên cứu ban hành các chính sách nhằm phát triển tối đa ưu điểm của hình thức đối tác công tư, như là Văn bản hướng dẫn xây dựng, thẩm định và phê duyệt dự án PPP, hướng dẫn thực hiện dự án PPP, Hồ sơ mẫu dự án PPP (mẫu Hồ sơ mời thầu, mẫu Hồ sơ mời đề xuất, mẫu Hợp đồng nhượng quyền (MAC), mẫu Yêu cầu về năng lực tham gia dự án, ...). 91 Bên cạnh đó, Chính phủ thành lập Ban thẩm định Hợp tác Nhà nước - Tư nhân (PPPAC) giúp thẩm định dự án, phê duyệt hợp đồng dự án đối tác công tư đảm bảo tính đồng nhất trong cơ chế và hướng dẫn thực hiện [86]. Cơ quan nhà nước có thể đề xuất dự án tuy nhiên phải được Ban thẩm định Hợp tác Nhà nước - Tư nhân thông qua về nguyên tắc trước khi đấu thầu lựa chọn các Nhà đầu tư tư nhân. Trong giai đoạn ban đầu áp dụng hình thức đối tác công tư gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại do chính sách cũng như tính pháp lý chưa hoàn thiện, Ủy ban cơ sở hạ tầng do Thủ tướng điều hành được coi là một yếu tố then chốt đóng góp vào việc ứng dụng thành công hình thức đối tác công tư tại Ấn Độ. Thủ tướng Chính phủ với quyền hạn và khả năng của mình có thể giải quyết được các xung đột pháp lý và vấn đề liên quan vượt ra ngoài chính sách hiện thời. Ban thẩm định Hợp tác Nhà nước - Tư nhân đóng vai trò như một đơn vị quản lý giúp Chính phủ kiểm soát chất lượng và giám sát việc ứng dụng hình thức đối tác công tư một cách hiệu quả. Từ kinh nghiệm các nước có thể nhận thấy một đặc điểm chung là việc hình thành đơn vị chuyên trách, như là Hội đồng quốc gia về đối tác công tư ở Mỹ, Trung tâm kiến thức đối tác công tư ở Hà Lan, Ủy ban PPP ở Canada, Trung tâm quản lý đầu tư công tư ở Hàn Quốc, sẽ có vai trò như một đơn vị kết nối và giải quyết các vấn đề trong việc đề xuất, thẩm định và triển khai dự án theo hình thức đối tác công tư. Do vậy, thành phố Hà Nội cần phải nghiên cứu thành lập một đơn vị chuyên môn, chuyên trách làm đầu mối để quản lý và thúc đẩy việc áp dụng hình thức đối tác công tư. Đơn vị đối tác công tư được hình thành sẽ khắc phục những bất cập trong việc đề xuất, thực hiện dự án đối tác công tư một cách hiệu quả. Tùy theo những điều kiện và đặc điểm khác nhau, đơn vị PPP có những chức năng tham mưu về chính sách, quản lý dự án, phát triển phù 92 hợp với mục tiêu của từng giai đoạn, đặc biệt là phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội, Việt Nam. 2.4.3. Đàm phán hợp đồng đối tác công tư Việc thực hiện thành công hay thất bại các dự án đối tác công tư trong lĩnh vực giao thông đô thị phụ thuộc rất lớn vào các điều khoản hợp đồng thực hiện dự án. Vì hợp đồng dự án đối tác công tư là căn cứ để xác định trách nhiệm, quyền hạn và phân chia lợi ích của các bên tham gia dự án. Ví dụ như trường hợp nghiên cứu dự án đường cao tốc SR-91 tại Bang California, Mỹ. Năm 1990, do thiếu hụt về vốn đầu tư nên dự án đường cao tốc SR-91 được thực hiện theo hình thức đối tác công tư (hợp đồng DBFO) giữa Sở giao thông California và Công ty Giao thông tư nhân California (CPTC). Đây là dự án PPP đường cao tốc đầu tiên trong lĩnh vực đường giao thông ở Mỹ với thời gian thực hiện hợp đồng là 35 năm và tổng mức đầu tư 135 triệu USD [25]. Điều kiện hợp đồng PPP cho phép Nhà đầu tư tư nhân được thu phí giao thông khi tuyến đường xây dựng xong, nên CPTC đã hoàn thành vượt tiến độ và đưa công trình vào vận hành, khai thác sớm hơn 2 năm so với kế hoạch. Tuy nhiên, sau khi dự án được xây dựng xong và đưa vào vận hành thì tình trạng tắc đường trầm trọng vẫn diễn ra. Theo điều khoản cạnh tranh thì Chính quyền bang California không được xây dựng các tuyến đường xung quanh trong phạm vi 4,8 km dọc theo tuyến đường SR-91 nhằm đảm bảo doanh thu và lợi nhuận cho CPTC. Bên cạnh đó, Sở giao thông California cũng không được can thiệp vào việc nâng cấp và mở rộng tuyến đường. Do vậy, người dân địa phương gặp khó khăn khi tham gia giao thông và đã có những phản ứng đối với chính quyền. Vì vậy, Sở giao thông California đã phải mua lại hợp đồng của CPTC với 208 triệu USD nhằm giải quyết những xung đột và bức xúc của xã hội về nhu cầu giao thông vận tải. Đây là một trong những ví dụ về việc đàm phán hợp đồng dự án PPP không phù hợp dẫn 93 đến Nhà đầu tư tư nhân được hưởng lợi trong khi đó Nhà nước và Người dân lại chịu phần thiệt thòi [25]. Ví dụ dự án Đường sắt cao tốc Bắc Nam (NSE) tại Malaysia được thực hiện trong bối cảnh Nhà nước “thí điểm” áp dụng hình thức đối tác công tư. Các điều kiện của hợp đồng cho phép công ty tư nhân Projek Lebuhraya Utara-Selatan Berhad (PLUS) được giao quyền thu phí theo mức đã thỏa thuận trong thời gian nhất định, để bù đắp chi phí thiết kế, xây dựng và duy tu công trình. Bên cạnh đó, Chính phủ còn cho phép PLUS có một số ưu đãi khác như là (1) Miễn phí tiền sử dụng đất và được phép sở hữu phần đất công của đường sắt; (2) PLUS được hỗ trợ vốn đầu tư; (3) PLUS được quyền phê duyệt thiết kế và thi công (bao gồm cả các thay đổi có liên quan); (4) Đảm bảo doanh thu của dự án; (5) Chính phủ Malaysia cho phép PLUS được kinh doanh các hoạt động dịch vụ, như là xây trạm xăng, đặt các panô quảng cáo dọc theo tuyến đường của dự án; (7) Trường hợp Nhà nước đơn phương chấm dứt hợp đồng thì phải có trách nhiệm thanh toán giá trị phần hoàn thành của công trình, bao gồm cả lợi nhuận trong tương lai cho PLUS. Tổng kết kinh nghiệm thực hiện dự án đối tác công tư, các chuyên gia kinh tế cho rằng các điều khoản trong hợp đồng có lợi quá nhiều cho khu vực tư nhân và “thiệt thòi” cho Chính phủ. Trong các dự án đối tác công tư sau đó, Chính phủ đã thay đổi các điều kiện hợp đồng và ràng buộc chặt chẽ hơn khi hợp tác với khu vực tư nhân, như: (i) Nhà đầu tư tư nhân phải đóng phí đất đai, thời điểm thu phí có thể được thỏa thuận tùy theo dự án (ii) Chính phủ có thể hỗ trợ vốn bằng các hình thức khác nhau với điều kiện không làm tăng ngân sách nhà nước; (iii) Phí đường bộ được Nhà nước kiểm soát và không cho phép tăng khi mà doanh thu thực tế cao hơn doanh thu dự kiến trong hợp đồng; (iv) Nhà nước quản lý chặt chẽ hơn khi kinh doanh các dịch vụ để tăng doanh thu [22]. 94 Một trong những yếu tố đảm bảo sự thành công cho dự án đối tác công tư trong quản lý đầu tư xây dựng các công trình giao thông đô thị là xây dựng hợp đồng hiệu quả để tăng giá trị vốn đầu tư và cam kết thực hiện dự án. Hợp đồng dự án cần được nghiên cứu ban hành theo mẫu tiêu chuẩn để các bên đối tác có thể tham khảo trong quá trình đàm phán nhằm thực hiện dự án với hiệu quả cao nhất. Ví dụ như mẫu mẫu Hợp đồng nhượng quyền (MCA) của Ấn Độ, Mẫu tiêu chuẩn hợp đồng sáng kiến tài chính tư nhân (SoPC) của Anh, ... Khi lựa chọn hình thức đối tác công tư trong quản lý đầu tư xây dựng công trình giao thông đô thị thì khuyến khích việc sử dụng mẫu hợp đồng và có những hướng dẫn điều chỉnh riêng, mang tính chất đặc thù của từng dự án. MAC và SoPC đã được áp dụng cho nhiều dự án đối tác công tư có giá trị hàng chục tỷ USD mỗi năm tại Ấn Độ và Vương quốc Anh. Đối với các dự án đối tác công tư có sử dụng MCA thì có nhiều điều kiện thuận lợi khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, phê duyệt vì biết rằng dự án đã tuân thủ pháp luật và có tiêu chuẩn rõ ràng. Tuy nhiên, MCA mang tính nguyên tắc và cứng nhắc nên hạn chế tính linh hoạt. Chính sách của Ấn Độ không cho phép bất cứ điều chỉnh nào sau khi hợp đồng dự án đối tác công tư được ký kết. Theo một số chuyên gia quốc tế và nhà đầu tư, việc cấm mọi hoạt động rà soát hay thương lượng điều chỉnh hợp đồng tạo ra cản trở cho nhiều dự án đối tác công tư tại Ấn Độ. Đây cũng là một trong bài học kinh nghiệm mà thành phố Hà Nội cần nghiên cứu khi ban hành các quy định liên quan đến việc quản lý hợp đồng thực hiện dự án theo hình thức đối tác công tư. 2.4.4. Quản lý đầu tư xây dựng công trình giao thông đô thị a. Trường hợp nghiên cứu đối với dự án xây dựng cầu QE2 Dartford bắc qua sông Thames được thực hiện vào năm 1986 theo hình thức đối tác công tư giữa Cơ quan đường cao tốc (Highways Agency) và công ty Trafalgar 95 theo mô hình nhượng quyền quản lý. Dự án có tổng chi phí đầu tư khoảng 230 triệu USD với thời gian nhượng quyền là 20 năm [50]. Đến năm 1988, sau khi hoàn thành công tác xây dựng và theo đạo luật Dartford Thurock Crossing Act, dự án được chuyển giao cho công ty Dartford River Crossing (Liên doanh do công ty Trafalgar thành lập để quản lý và thực hiện dự án). Các đối tác tham gia thực hiện dự án được thể hiện tại hình 2.8. Hình 2.8: Các đối tác tham gia dự án xây dựng cầu QE2 Dartford Nguồn: [50], [61] Theo điều khoản hợp đồng dự án đối tác công tư, công ty Dartford River Crossing được quyền thu phí để hoàn trả vốn đầu tư xây dựng cầu và chi phí vận hành của công trình. Mức phí được kiểm soát và chỉ được điều chỉnh khi có sự phê duyệt của cơ quan quản lý nhà nước. Xét trên khía cạnh đầu tư xây dựng, nhà nước đã tận dụng được tiềm lực tài chính, kinh nghiệm xây dựng, quản lý, vận hành công trình của Nhà đầu tư tư nhân. Nhà đầu tư tư nhân với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đã lựa chọn các đơn vị tư vấn xuất sắc, lựa chọn công nghệ tối ưu, hiện đại, như là áp dụng công nghệ thu phí điện tử Đối tác Công: Cơ quan quản lý đường cao tốc Đối tác Tƣ nhân: Công ty Dartford River Crossing - Tập đoàn Macquarie Infrastructure - Công ty Prudential Assurance - Công ty Kleinwort Benson - Ngân hàng Bank of America Nhà thầu xây dựng chính: Tập đoàn Cemetation Cleveland Nhà thầu quản lý: Công ty TNHH Kvaerner Construction Thiết kế: Công ty Dr-Ing Hellmut Homberg and Partner và Công ty Kvaerner Technology Đối tác cấp vốn: Ngân hàng Bank of America International Tư vấn tài chính: Công ty Cazenove và Công ty Ashurst Morris Crisp 96 giúp tăng nguồn thu từ phương tiện giao thông và thu hút được người dân sử dụng dịch vụ. Người dân được sử dụng công trình hiện đại, giảm thời gian di chuyển qua sông Thames với mức phí phù hợp với khả năng chi trả. b. Tại Hà Lan năm 1997 dự án xây dựng đường sắt đô thị đối ngoại HSL-Zuid (hình 2.9) là dự án đối tác công tư điển hình giữa Bộ Giao thông vận tải, Công trình công cộng và Quản lý nhà nước và Công ty Infraspeed BV (liên danh nhà thầu tư nhân Siemens Nederland, BAM Rail, Fluor Infrastructure). Dự án có chiều dài 147km bao gồm 3 làn đường ray, tốc độ tàu 300km/h, tổng mức đầu tư 3,4 tỷ Euro, được thực hiện theo mô hình nhượng quyền với thời hạn 30 năm, trong đó có 25 năm khai thác, vận hành [62], [77]. Trong dự án, công tác xây dựng được tách riêng với quản lý vận hành theo quy định của EU nhằm tăng tính cạnh tranh và tăng hiệu quả của dự án. Công tác quản lý vận hành được chia thành các công tác chuyên môn hoá như quản lý hệ thống điện (do công ty Siemens đảm trách), quản lý hệ thống điều khiển (do công ty Fluor Infrastructure đảm trách), .... Việc thiết kế, xây dựng, và bảo trì toàn bộ hệ thống đường sắt trong suốt thời gian thực hiện dự án được giao cho Nhà đầu tư tư nhân, việc này đã làm cho dự án có vốn đầu tư thấp do gắn liền nội dung chất lượng và chi phí bảo trì. Ngay từ giai đoạn thiết kế, xây dựng Nhà đầu tư đã phải nghiên cứu, tính toán để đảm bảo về Hình 2.9: Dự án tuyến đường sắt HSL-Zuid tại Hà Lan - Nguồn [77] 97 tính công năng và chất lượng xây dựng công trình nhằm giảm thiểu chi phí bảo trì của dự án, do yếu tố chất lượng tỷ lệ nghịch với chi phí bảo trì [88]. c. Dự án Tuyến tàu điện đô thị số 10 Bắc Kinh (BML10) là một ví dụ tiêu biểu cho việc thực hiện dự án theo hình thức đối tác công tư tại Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc cho phép các công ty liên danh với nhau theo mô hình kết hợp dịch vụ và mô hình quản lý vận hành nhằm phân bổ rủi ro và thực hiện dự án đạt hiệu quả. Dự án BML10 có chiều dài 32,9 km, với 28 ga hành khách vòng quanh thành phố Bắc Kinh, tổng mức đầu tư của dự án là 3 tỷ NDT [65]. Hai công ty thuộc sở hữu Nhà nước (BII, BMCC) được trúng thầu trong việc xây dựng và vận hành, quản lý dự án (hình 2.10). Hình 2.10: Cấu trúc dự án PPP tuyến tàu điện đô thị số 10 Bắc Kinh Nguồn: [65] Do cơ cấu nguồn vốn của dự án gồm vốn của chính quyền trung ương và vốn của chính quyền địa phương. Dưới sự bảo lãnh của Chính phủ, dự án được Ngân hàng và công ty bảo hiểm Taiping (TIC) cấp vốn. Đây là trường Chính quyền TW Cơ quan Nhà nước nhượng quyền quản lý Chính quyền Bắc Kinh Cơ quan Nhà nước nhượng quyền xây dựng Công ty bảo hiểm Taiping Công ty đầu tƣ hạ tầng k thuật Bắc Kinh (BII) Công ty xây dựng đƣờng hầm Bắc Kinh (BMCC) HĐ vận hành Ngân hàng Nhà thầu phụ HĐ xây dựng Chìa khóa trao tay Tài trợ vốn Bảo lãnh HĐ vay vốn HĐ xây dựng Bảo lãnh Vận hành và Quản lý Xây dựng Dự án Tuyến tàu điện đô thị Bắc Kinh số 10 98 hợp đầu tiên ở Trung Quốc khi dự án được cấp vốn trong giai đoạn vận hành và quản lý bởi công ty bảo hiểm thay vì ngân hàng như quy định. Bên cạnh đó, BII và BMCC thực hiện dự án theo hình thức chìa khóa trao tay, trong đó BII sẽ nghiệm thu từng giai đoạn và kiểm tra công trình do BMCC xây dựng theo thỏa thuận về chất lượng và tiến độ. Khi hoàn thành xây dựng, công trình sẽ được chuyển giao cho BII vận hành và quản lý. Do vậy, phần lớn trách nhiệm được chuyển giao cho BII thực hiện gắn liền với giai đoạn khai thác, sử dụng sau này [72]. Dự án BML10 được xem là dự án đối tác công tư thành công bởi các yếu tố chi phí xây dựng, tiến độ, chất lượng công trình và chất lượng dịch vụ được đánh giá hơn hẳn các công trình do Nhà nước thực hiện theo hình thức đầu tư truyền thống. Các dự án đối tác công tư được thực hiện thành công tại Trung Quốc trong thời gian qua do 7 nhân tố sau đây: Lựa chọn dự án phù hợp, tình hình kinh tế - chính trị ổn định, mức thuế phù hợp, phân bổ rủi ro hợp lý, lựa chọn các nhà thầu phụ phù hợp, kiểm soát và quản lý các dự án một cách chặt chẽ, chuyển nhượng công nghệ mới [72]. Việc Nhà nước chuyển giao chức năng đầu tư xây dựng cho Nhà đầu tư tư nhân theo hình thức đối tác công tư đã giải quyết được một số vấn đề tồn tại trong công tác quản lý đầu tư xây dựng công trình so với hình thức đầu tư truyền thống. Nhà đầu tư tư nhân có kinh nghiệm quản lý, công nghệ, khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật, cũng như năng lực xây dựng tốt hơn cơ quan nhà nước, ví dụ như về nguồn vốn đầu tư (dự án cầu QE2 Dartford), gắn trách nhiệm của quản lý vận hành với công tác chất lượng xây dựng (dự án đường sắt HSL-Zuid).... Do vậy, bản chất của hình thức đối tác công tư được thể hiện rõ nét thông qua việc Nhà nước tận dụng được thế mạnh của Tư nhân trong đầu tư xây dựng các công trình giao thông đô thị có chất lượng, hiệu quả kinh tế đầu tư và lợi ích xã hội tốt hơn. 99 2.4.5. Khai thác và nâng cấp công trình giao thông a. Dự án xây dựng đường cao tốc 407 (giao thông đô thị đối ngoại) tại Canada là một trong những dự án đối tác công tư tiêu biểu cho việc áp dụng mô hình quản lý ủy thác trong hình thức đối tác công tư. Đây là dự án được chính phủ nghiên cứu triển khai từ những năm 1950, nhưng vì nhiều lý do khác nhau mà đến năm 1993, dự án mới được chính quyền địa phương Ontario bắt đầu triển khai (theo hình thức đầu tư truyền thống). Năm 1997, dự án chính thức hoàn thành 68 km đầu tiên (đoạn C1-C7, hình 2.10). Đến năm 1998, sau khi hoàn thành công tác xây dựng, Nhà nước đã tổ chức đấu thầu quốc tế nhằm lựa chọn nhà đầu tư để quản lý, khai thác tuyến đường theo mô hình quản lý ủy thác nhằm thu hồi kinh phí đầu tư xây dựng để đầu tư vào các dịch vụ công cộng khác (hình 2.11). Hình 2.11: Dự án tuyến đường cao tốc 407 tại Canada - Nguồn: [53] Nhà đầu tư tư nhân (Công ty ETR 407) đã trúng thầu thực hiện dự án theo mô hình quản lý ủy thác trong thời hạn 99 năm. Bên cạnh việc nhà đầu tư phải trả cho chính quyền địa phương khoản chi phí (3,107 tỷ USD) về quyền khai thác công trình thì còn phải có trách nhiệm thu xếp nguồn vốn 100 (272 triệu USD) để tiếp tục xây dựng mới, nâng cấp, bảo trì và cung cấp các dịch vụ dọc theo tuyến đường để tăng hiệu quả khai thác công trình. Theo đó, nhà đầu tư đã đầu tư xây dựng thêm tuyến đường về phía Đông (15km x 4 làn xe) và phía Tây (24km x 6 làn xe) và tăng cường năng lực vận tải cho tuyến đường bằng cách mở rộng thêm nhiều làn xe ở các điểm giao thông có lưu lượng lớn và áp dụng công nghệ thu phí điện tử 100% trên toàn tuyến. Nhà đầu tư đã khai thác tuyến đường theo hình thức đối tác công tư với hiệu quả cao thể hiện qua chất lượng đường được cải thiện, lưu lượng phương tiện giao thông tăng nhanh qua các năm. Tại Canada dự án đường 407 được đánh giá là dự án đối tác công tư thành công vì đã đạt được sự hài hòa lợi ích giữa Nhà nước (tiết kiệm chi phí đầu tư xây dựng, quản lý khai thác), Nhà đầu tư tư nhân (lợi nhuận kinh tế cao, thu hồi được vốn đầu tư) và người dân sử dụng công trình (mức phí lưu thông được chấp nhận). b. Tuyến đường Chicago Skyway ở Bang Illinois với chiều dài 12,55km kết nối trung tâm Chicago Loop với tuyến đường Indiana là một trong số các dự án được thực hiện theo hình thức đối tác công tư với mô hình quản lý vận hành. Công trình do nhà nước xây dựng và vận hành đưa vào sử dụng năm 1958. Thời gian đầu, Chính quyền địa phương quản lý và vận hành công trình nhưng hiệu quả khai thác sử dụng kém dẫn đến nguồn thu không đảm bảo và không trả được khoản nợ vay xây dựng [45]. Do đó, Chính quyền bang Illinois đã đấu thầu và lựa chọn Nhà đầu tư tư nhân quản lý với thời hạn 99 năm. Nhà đầu tư tư nhân đã trả cho nhà nước 1,8 tỷ USD và có trách nhiệm nâng cấp, cải tạo tuyến đường và được quyền khai thác vận hành, thu phí. Sau đó Nhà đầu tư đã nâng cấp tuyến đường và áp dụng công nghệ thu phí điện tử nhằm tăng khả năng lưu thông của phương tiện (từ 300 lên 800 lượt xe/giờ) và thu hút người dân sử dụng tuyến đường Chicago Skyway thay cho các tuyến khác. 101 Từ kinh nghiệm thực tiễn tại Canada và Mỹ cho thấy Nhà nước không nhất thiết phải quản lý, vận hành công trình giao thông đô thị trong điều kiện Nhà đầu tư tư nhân có thể làm tốt hơn. V
File đính kèm:
- luan_an_nghien_cuu_ung_dung_hinh_thuc_doi_tac_cong_tu_trong.pdf