Luận án Nghiên cứu và chế tạo pin mặt trời Cu(Zn,Sn)(S,Se)₂ VÀ Cu(In,Ga)(S,Se)₂

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu và chế tạo pin mặt trời Cu(Zn,Sn)(S,Se)₂ VÀ Cu(In,Ga)(S,Se)₂", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu và chế tạo pin mặt trời Cu(Zn,Sn)(S,Se)₂ VÀ Cu(In,Ga)(S,Se)₂

tôi đặt ý tưởng sẽ chế tạo lớp đệm dày 100 nm với áp suất phún xạ 13 mtorr; lớp này đóng vai trò chuyển tiếp và làm giảm chênh lệch ứng suất giữa đế thuỷ tinh và lớp Mo trên nó và giúp toàn bộ màng Mo có thể bám dính tốt; chi tiết trong mục 2.3. 2.3 Chế tạo màng Mo 2 lớp bằng phún xạ nguồn DC, lớp đệm 100 nm 2.3.1 Quy trình chế tạo màng Mo 2 lớp, bằng phún xạ nguồn DC, lớp đệm 100 nm Màng Mo được chế tạo thông qua qui trình 2 bước phún xạ bằng nguồn DC trên đế thủy tinh đã được làm sạch như mô tả phần trước. Trong giai đoạn phún xạ thứ nhất, lớp đệm Mo với bề dày khoảng 100 nm được phún xạ ở công suất 150 WDC; áp suất phún xạ 13 mtorr; nhiệt độ đế 200 °C và khoảng cách giữa bia và đế thủy tinh là 8 cm. Giai đoạn thứ hai, lớp Mo dày khoảng 900 nm được phún xạ ở áp suất 5 mtorr; nhiệt độ và công suất như trong bước thứ nhất. Hình 2-4: Màng Mo 2 lớp, phún xạ bằng nguồn DC, lớp đệm dày 100 nm. Sau khi phún xạ, màng Mo 2 lớp này cũng được kiểm tra độ bám dính, kết quả là màng Mo hoàn toàn bền vững và không bị bong tróc. Điều này chứng tỏ áp suất phún xạ 13 mtorr đã tạo một lớp đệm Mo xốp hơn, ứng suất thấp của lớp này đã giúp toàn bộ các lớp màng Mo không bị đứt gãy và bong tróc khỏi đế thuỷ tinh. Để kiểm chứng vai trò của lớp đệm, chúng tôi tiến hành chế tạo một số mẫu với lớp thứ hai được phún xạ ở các áp suất: 2 mtorr, 3; 4 và 5 mtorr; tất các các điều kiện phún xạ khác được giữ nguyên (điều kiện phún xạ 2; 40 3; 4 và 5 mtorr này sẽ được sử dụng để gọi tên các mẫu màng cho các phân tích tiếp theo). Sau khi phún xạ các mẫu này đều không bị bong tróc. Hình 2-4 minh hoạ cấu trúc của màng Mo 2 lớp được chế tạo theo điều kiện này. Bề dày, cấu trúc micro và hình thái bề mặt của màng Mo được xác định thông qua ảnh FESEM; thành phần các nguyên tử trong màng Mo được kiểm tra bởi phổ EDS; các phép đo này được thực hiện trên hệ đo JSM-7600F-Jeol tại phòng thí nghiệm BKEMMA-Viện AIST - Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Định hướng tinh thể và pha của vật liệu được đo bởi giản đồ XRD dùng phát xạ Cu Ka -phép đo được thực hiện trên máy đo D8 Advance, Bruker tại phòng thí nghiệm Hoá phân tích - Trường Đại học Khoa học tự nhiên. Điện trở bề mặt của màng được đo bằng Hệ đo điện trở 4 mũi đo (four-probe)– tại phòng thí nghiệm công nghệ nano – Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc Gia Hà Nội. 2.3.2 Cấu trúc và hình thái bề mặt màng Mo 2 lớp Ảnh FESEM được dùng để phân tích cấu trúc micro và hình thái bề mặt của màng Mo. Hình 2-5 là ảnh mặt cắt và bề mặt của mẫu màng Mo phún xạ ở áp suất 2 mtorr (a,b) và 5 mtorr (c,d). So sánh các ảnh mặt cắt cho thấy màng phún xạ ở áp suất 5 mtorr có cấu trúc dạng cột rõ nét hơn so với màng phún xạ ở 2 mtorr. Hình 2-5: Ảnh FESEM mặt cắt và bề mặt của màng Mo 2 lớp phún xạ ở áp suất 2 mtorr (a,b) và 5 mtorr (c,d). 41 Có thể thấy rõ cấu trúc 2 lớp của màng Mo trên Hình 2-5(a;c); lớp dưới dày khoảng 100 nm lớp trên dày khoảng 900 nm. Lớp dưới chính là lớp được phún xạ với áp suất 13 mtorr, đóng vai trò làm lớp đệm, lớp này xốp hơn và làm giảm ứng suất, giúp cho toàn bộ màng Mo không bị đứt gãy và bám dính tốt hơn. Lớp trên chính là lớp được phún xạ với áp suất 2 mtorr trong Hình 2-5(a) và 5 mtorr trong Hình 2-5(c), có cấu trúc dạng cột rõ nét hơn. Sự khác biệt về cấu trúc cột này có thể là do tốc độ tạo màng của lớp trên nhanh hơn lớp dưới; tốc độ tạo màng nhanh đồng nghĩa với ứng suất lớn của các lớp phía trên là nguyên nhân của việc dễ đứt gãy và bong tróc màng như đã xảy ra khi phún xạ một lớp. Sự khác biệt về cấu trúc dạng cột khi màng được phún xạ với áp suất khác nhau được giải thích như sau: Ở điều kiện phún xạ áp suất nhỏ, 2 mtorr, do áp suất thấp nên mật độ dòng Ion khí Ar+ tác động lên bia chậm hơn và làm cho tốc độ phún xạ thấp hơn so với ở điều kiện phún xạ với áp suất 5 mtorr; chính vì vậy, màng Mo phún xạ ở áp suất 2 mtorr có tốc độ tạo màng thấp hơn và điều này có thể ảnh hưởng đến cấu trúc và chất lượng màng so với điều kiện phún xạ với áp suất 5 mtorr. Tuy nhiên, ở áp suất phún xạ cao hơn, 13 mtorr, các phân tử khí Ar và các ion khí Ar+ sẽ trở nên nhiều hơn sẽ cản trở và làm giảm động năng của vật liệu bay lên bám vào đế; việc giảm động năng của vật liệu khi bám vào đế sẽ làm cho lớp màng xốp hơn. 2.3.3 Cấu trúc và hình thái bề mặt màng Mo 2 lớp sau khi Selen hoá Trong quy trình chế tạo Pin mặt trời CZTSSe và CIGSSe của chúng tôi, lớp hấp thụ ánh sáng được chế tạo bằng phương pháp Selen hoá màng CZTS và CIGS; màng này được chế tạo trên lớp điện cực dưới Mo. Quá trình Selen hoá có thể gây ra những tác động mạnh đối với màng Mo; đặc biệt là vùng nhiệt độ trên 500 °C, nhiệt độ mà Se có thể phản ứng mạnh với Mo. Chính vì vậy, trong nghiên cứu này chúng tôi tiến hành Selen hoá các mẫu màng Mo vừa chế tạo bên trên; sau đó chúng tôi sẽ đánh giá ảnh hưởng của quá trình Selen hoá đến các mẫu màng Mo này. Quá trình Selen hóa các màng Mo được thực hiện như sau: Ban đầu màng Mo được đặt trong hộp carbon với 0,2 g bột selen và đậy nắp, tiếp đó hộp carbon sẽ được đưa vào ống thuỷ tinh và dùng khí Nitơ đẩy toàn bộ Oxi, sau đó đưa ống thuỷ tinh vào lò rồi nâng nhanh lên nhiệt độ 500 °C. Các mẫu được ủ trong khoảng thời gian 20 phút, 500 °C, dưới dòng khí Nitơ khoảng 200 sccm; sau đó mẫu sẽ được giảm nhanh về nhiệt độ phòng; quá trình Selen hoá kết thúc. 42 Hình 2-6: Ảnh FESEM mặt cắt và bề mặt sau Selen hóa của màng Mo 2 lớp, áp suất phún xạ 2 mtorr (a;b), 3 mtorr (c;d), 4 mtorr (e;f) và 5 mtorr (g;h). 43 Hình 2-6 là ảnh FESEM bề mặt và mặt cắt của màng Mo được phún xạ tại các áp suất khác nhau sau khi Selen hóa trong môi trường hơi Selen tại nhiệt độ 500 °C trong khoảng thời gian 20 phút. Thông qua ảnh FESEM mặt cắt của các màng Mo, có thể thấy phía trên của Mo là một lớp gồ ghề; lớp này dày khoảng từ 200 đến 600 nm. Hiện tượng này có thể quan sát khá dễ dàng với các mẫu phún xạ với điều kiện áp suất 2; 3 và 4 mtorr. Sự thay đổi bề mặt màng Mo này có thể thấy rõ khi so sánh mặt cắt của màng trước và sau khi Selen hoá ở điều kiện phún xạ 2 mtorr (Hình 2-5(a) so với Hình 2-6(a)). Sự gồ ghề trên bề mặt các màng Mo sau khi Selen hoá có thể là do các hạt Se còn dư trên bề mặt màng Mo; hoặc cũng có thể do Mo đã phản ứng với Se tạo thành 1 lớp MoSex. Ngoài ra, khi so sánh ảnh bề mặt FESEM của các màng Mo sau khi Selen hoá với nhau, ta cũng cho thấy có sự khác biệt khá rõ; ở các mẫu phún xạ áp suất thấp, phía trên lớp màng Mo có sự biến dạng nhiều hơn so với các mẫu được phún xạ ở áp suất lớn hơn. Sự khác biệt này có thể do mức độ tác động của Se lên các màng Mo là không giống nhau khi Selen hóa các mẫu màng Mo khác nhau. 2.3.4 Thành phần nguyên tử trong màng phún xạ Mo 2 lớp sau khi Selen hoá Sự thay đổi thành phần của Se trên các mẫu màng Mo 2 lớp sau khi Selen hóa với các điều kiện áp suất phún xạ khác nhau được xác định thông qua phép đo EDS trên bề mặt mẫu, kết quả được thể hiện trong Hình 2-7. Thành phần Se khác nhau trên các mẫu khác nhau có thể là do lượng Se còn dư trên các bề mặt mẫu khác nhau là khác nhau; hoặc cũng có thể là do lượng Se đã phản ứng với Mo để tạo thành MoSex giữa các mẫu không giống nhau. Hình 2-7: Thành phần Se sau khi Selen hóa trong các màng Mo 2 lớp. 44 Thành phần Se trên màng Mo được phún xạ ở áp suất thấp cao hơn rất nhiều so với khi được lắng ở áp suất cao. Thành phần Se trên màng Mo phún xạ ở áp suất 2 và 3 mtorr tương ứng là 60,5 và 43,0%, trong khi đó thành phần Se ở các màng Mo được phún xạ ở áp suất 4 và 5 mtorr chỉ vào khoảng 1,8%. Sự tăng của thành phần Se trên màng ở điều kiện phún xạ áp suất thấp có thể là do màng Mo kém bền vững hơn khi phún xạ với áp suất thấp hơn và Se đã thâm nhập và phản ứng với Mo ở sâu bên trong màng. Sự biến thiên thành phần Se trên màng Mo ở điều kiện phún xạ áp suất khác nhau khá tương đồng với sự thay đổi cường độ tại các đỉnh Mo (110) như các kết quả sẽ được đề cập đến trong phần giản đồ XRD ở mục 2.3.5. Ngoài ra, để xác định các hạt trên bề mặt của màng Mo sau khi Selen hoá là hạt gì, chúng tôi thực hiện phép phân tích thành phần thông qua phép đo EDS line-scan, phép đo được thực hiện trên máy FESEM và kết quả cho thấy như trong Hình 2-8. Thành phần mạng nền Mo tương đối đồng đều tại các điểm đo, trong khi đó thành phần Se tăng cao hơn tại vị trí hạt. Điều này cho thấy các hạt trên bề mặt màng Mo sau khi Selen hoá là các hạt Se. Hình 2-8: Ảnh EDS line-Scan bề mặt sau khi Selen hóa của màng Mo 2 lớp. 45 2.3.5 Giản đồ XRD của màng Mo 2 lớp sau khi Selen hoá Hình 2-9 là giản đồ XRD của các mẫu màng Mo 2 lớp sau khi Selen hóa ở nhiệt độ 500 °C trong khoảng 20 phút. Với các mẫu được phún xạ ở áp suất 2 mtorr, cường độ các đỉnh nhiễu xạ tại các vị trí 23,06; 31,8; 40,54; 56,1 và 73,8° là yếu và chúng tương ứng các đỉnh của Se(100); Se(101); Mo(110); MoSe2(110) và Mo(212) [40-42,46]. Đối với các mẫu được phún xạ ở áp suất 3; 4 và 5 mtorr có thêm 2 đỉnh xuất hiện tại vị trí 26,06 và 37,02° (các đỉnh này không xuất hiện được đối với mẫu Mo phún xạ ở áp suất 2 mtorr). Các đỉnh ở vị trí 26,06 và 37,02° này, tương ứng với đỉnh của Mo9Se11(113) và MoSe2(103) [43]. Hình 2-9: Giản đồ XRD của màng Mo 2 lớp sau khi Selen hóa với áp suất phún xạ 2 mtorr (a), 3 mtorr (b), 4 mtorr (c), và 5 mtorr (d). Việc xuất hiện của đỉnh Se trên giản đồ XRD của màng Mo được phún xạ tại áp suất 2 và 3 mtorr sau khi Selen hoá có thể là do sự tồn tại của các hạt Se trên bề mặt màng, việc này cũng đã được đề cập trong phần ảnh FESEM. Các giản đồ XRD trên các mẫu cũng chỉ ra rằng Mo đã phản ứng với Se trong quá trình Selen hoá để tạo các pha Mo9Se11 và MoSe2. Khi so sánh cường độ nhiễu xạ tại đỉnh chính Mo (110), ta nhận thấy cường độ đỉnh Mo (110) giảm dần khi áp suất phún xạ giảm từ 5 đến 2 mtorr; hiện tượng này có thể do các màng Mo được phún xạ ở áp suất thấp dễ bị Se thâm nhập vào trong màng và phản ứng với Mo tạo nên vật liệu MoSex và phá vỡ cấu trúc của màng Mo và làm giảm cường độ đỉnh nhiễu xạ. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với kết quả đo EDX đã trình bày trong Hình 2-7 và cũng thể hiện trên ảnh FESEM mặt cắt của màng Mo sau Selen hoá, lớp bên trên của 46 màng Mo được phún xạ ở áp suất 2 mtorr (Hình 2-6(a)) so với màng Mo được phún xạ ở áp suất 5 mtorr (Hình 2-6(g)). 2.3.6 Điện trở bề mặt màng Mo 2 lớp trước và sau khi Selen hoá Trong chế tạo Pin mặt trời, điện trở bề mặt và điện trở suất của điện cực dưới đóng vai trò quan trọng do nó có ảnh hưởng nhiều đến đặc tính của Pin. Để khảo sát ảnh hưởng của việc Selen hóa đến các đặc tính điện của màng Mo, chúng tôi tiến hành đo điện trở bề mặt và điện trở suất của màng Mo trước và sau khi Selen hóa và kết quả được thể hiện trong Hình 2-10. Hình 2-10(a), điện trở bề mặt trước khi Selen hóa tăng theo áp suất phún xạ và sự biến thiên của điện trở bề mặt vào khoảng từ 0,3 đến 1,5 W/. Điện trở suất của màng Mo trước và sau khi Selen hóa được tính dựa trên điện trở bề mặt và nhân với độ dày của màng, kết quả như Hình 2-10(b). Tương tự với điện trở bề mặt, điện trở suất cũng tăng khi áp suất phún xạ tăng. Các màng Mo trước khi Selen hóa có điện trở suất thấp nhất vào khoảng 30 µW.cm ứng với áp suất phún xạ 2 mtorr; trong khi đó ở áp suất phún xạ 5 mtorr, điện trở suất vào khoảng 150 µW.cm. Hình 2-10: Điện trở của các màng Mo 2 lớp: điện trở bề mặt (a) và điện trở suất (b). Có thể dễ dàng quan sát thấy khi áp suất phún xạ tăng từ 2 đến 5 mtorr, điện trở bề mặt và điện trở suất của màng Mo tăng dần. Đây có thể là hệ quả của cấu trúc hình cột mạnh hơn ở điều kiện phún xạ áp suất cao như đã trình bày trong phần phân tích ảnh FESEM. Điện trở bề mặt và điện trở suất của màng Mo sau khi Selen hóa cao hơn so với trước khi Selen hóa; tuy nhiên sự khác biệt này không rõ rệt. Các giá trị điện trở của các màng Mo 47 tăng sau khi Selen hóa là do lớp phía trên với sự có mặt của một số vật liệu dẫn điện kém như MoSex và Se còn dư trên bề mặt màng như đã giải thích trong thông qua phổ EDS và giản đồ XRD. 2.3.7 Khả năng bám dính của màng Mo 2 lớp trước và sau khi Selen hoá Sau khi Selen hóa chỉ có màng Mo được phún xạ ở áp suất 5 mtorr là không bị bong tróc toàn bộ nhưng cũng rất thiếu ổn định, trong khi đó các mẫu được phún xạ ở áp suất 2, 3, và 4 mtorr đều bị bong. Đặc biệt là màng Mo được phún xạ với áp suất 2 và 3 mtorr rất yếu sau khi Selen hóa và dễ dàng bong tróc. Điều này được giải thích dựa vào Hình 2-6, có thể thấy toàn bộ các màng Mo có cấu trúc dạng cột, do đó, Se dễ dàng phản ứng với Mo dọc theo biên của các cột và làm phá vỡ cấu trúc màng Mo. Chính vì vậy nó làm giảm khả năng bám dính giữa Mo và đế thủy tinh dẫn đến các màng Mo sau khi Selen hóa dễ dàng bị bong. Đối với các màng Mo được phún xạ với áp suất 2 và 3 mtorr, các màng này có thể yếu hơn do tốc độ phún xạ chậm như đã giải thích bên trên và sẽ dễ phá khi bị Selen hóa. 2.4 Chế tạo Màng Mo 3 lớp, với 200 nm phún xạ bằng nguồn RF bên trên Để khắc phục ảnh hưởng cấu trúc dạng cột khi phún xạ bằng nguồn DC như trên đã trình bày, chúng tôi tiến hành phún xạ thêm một lớp Mo dày 200 nm bằng nguồn RF với áp suất 4 mtorr lên bề mặt của màng Mo sau khi đã phún xạ bằng DC như trên. Màng Mo chế tạo bằng phún xạ RF có đặc điểm của là kích thước các hạt nhỏ và xếp ngẫu nhiên trong màng [4], nên chúng tôi hy vọng lớp này có thể ngăn chặn được sự xâm nhập của Se vào sâu bên trong màng Mo. 2.4.1 Quy trình phún xạ tạo màng Mo 3 lớp, với 200 nm phún xạ bằng nguồn RF Trong quy trình này, màng Mo được chế tạo thông qua qui trình 2 bước phún xạ bằng nguồn DC và 1 bước phún xạ bằng nguồn RF. Bước thứ nhất, tạo 1 lớp đệm Mo với bề dày khoảng 100 nm được phún xạ với áp suất 13 mtorr, với công suất 150 W, nguồn DC và nhiệt độ đế 200 °C, khoảng cách giữa bia và đế thủy tinh là 8 cm. Bước thứ hai, lớp Mo dày 700 nm được phún xạ với áp suất 5 mtorr; nhiệt độ và công suất và khoảng cách giữa bia và đế thủy tinh là không thay đổi. Sau khi kết thúc 2 bước trên ta tiếp tục phún xạ 1 lớp Mo với bề dày khoảng 200 nm, áp suất 4 mtorr, nguồn RF, với công suất 80 W và nhiệt độ đế 200 °C. Hình 2-11 minh hoạ cấu trúc của màng Mo được phún xạ theo điều kiện này. 48 Hình 2-11: Màng Mo 3 lớp phún xạ bằng nguồn RF. 2.4.2 Kết quả đạt được Hình 2-12 là ảnh FESEM của mặt cắt và bề mặt của mẫu màng Mo 3 lớp này trước và sau khi Selen hóa. Lớp phía trên cùng là lớp được phún xạ bởi nguồn RF; lớp này không có cấu trúc dạng cột. Bề mặt lớp này khá phẳng và hình dáng các hạt trên bề mặt là ngẫu nhiên. Hình dáng của các mầm tinh thể trong mẫu này hoàn toàn khác so với các màng được phún xạ bằng nguồn DC (Hình 2-5(d)). Sau khi Selen hóa, bề mặt của các màng Mo 3 lớp này vẫn phẳng và không còn quan sát thấy một lớp gồ ghề phía trên màng (hiện tượng gồ ghề này sinh ra do Se thâm nhập sâu vào bên trong màng và phản ứng với Mo như đã phân tích ở mục 2.3) so với các mẫu màng Mo 2 lớp được chế tạo trước đó (Hình 2-6). Phổ EDS trên bề mặt của màng Mo 3 lớp này được đo để khảo sát mức độ Selen hóa của màng, và kết quả cho thấy thành phần Se chỉ là 1,7%. Điện trở bề mặt của mẫu này khoảng 1,2 W/. Đặc biệt, màng Mo này có khả năng bám dính tốt trên đế thủy tinh; cả trước và sau khi Selen hóa đều không bị bong tróc. Điều này chứng tỏ ảnh hưởng của quá trình Selen hoá khi màng Mo khi được phún xạ thêm một lớp bằng nguồn RF bên trên ít hơn so với khi màng Mo chỉ được phún xạ bởi 2 lớp bằng nguồn DC. Lý do mà mẫu có được khả năng bám dính tốt ngay cả sau khi Selen hóa có thể được giải thích là nhờ ảnh hưởng của lớp Mo được phún xạ bằng nguồn RF phía trên cùng. Lớp Mo phún xạ bằng nguồn RF này dày đặc và không có cấu trúc dạng cột; và đã hạn chế được Se thâm nhập sâu vào bên trong màng Mo. Cấu trúc màng Mo 3 lớp này để chế tạo Pin mặt trời CZTSSe và CIGSSe khi mà nó bền vững và ổn định ngay cả khi đã Selen hoá ở nhiệt độ trên 500 °C. 49 Hình 2-12: Ảnh FESEM bề mặt và mặt cắt màng Mo 3 lớp: trước khi Selen hoá (a,b) và sau Selen hoá (c,d). 2.5 Kết luận Màng Mo dày khoảng 1000 nm 3 lớp đã được chế tạo thành công bằng phương pháp phún xạ có điện trở bề mặt khoảng 1,2 W/màng ổn định và được ứng dụng làm lớp điện cực dưới cho Pin mặt trời CZTSSe và CIGSSe của chúng tôi, cấu trúc màng như sau: - Lớp đệm dưới dày 100 nm (phún xạ: nguồn 150 WDC; áp suất 13 mtorr), lớp này xốp và giữ cho toàn bộ màng không bị bong tróc bởi sự chênh lệch ứng suất; - Lớp giữa dày 700 nm (phún xạ: nguồn 150 WDC; áp suất 5 mtorr), tốc độ phún xạ lớp này nhanh. - Lớp trên cùng dày 200 nm (phún xạ: nguồn 80 WRF; áp suất 4 mtorr), lớp này dày đặc và không có cấu trúc dạng cột nên giữ cho Se không thâm nhập vào màng Mo khi Selen hoá ở nhiệt độ trên 500 °C, giúp màng ổn định và không bị bong tróc sau khi Selen hoá. 50 CHƯƠNG 3 3 NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO LỚP ĐIỆN CỰC CỬA SỔ Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày nội dung nghiên cứu chế tạo màng điện cực cửa sổ AgNW/ZnO; màng này được chế tạo bằng phương pháp lắng đọng lớp phân tử ALD (Atomic Layer Deposition) để phủ một lớp ZnO lên màng dây nano Bạc (AgNW) (màng được chế tạo bằng phương pháp in gạt dây nano Bạc). Việc phủ lớp ZnO bằng ALD đã tạo liên kết Ag-Zn-Ag và tác động mạnh, làm giảm điện trở bề mặt của màng AgNW còn khoảng 7 đến 15 W/, trong khi độ truyền qua suy giảm không nhiều trong vùng ánh sáng từ 300 đến 2400 nm, còn trên 70%. Ngoài ra màng được bằng phương pháp ALD còn có một số ưu điểm nổi trội như không yêu cầu chân không cao, màng ít bị đứt gãy, và tránh được tác động của dòng plasma đến lớp màng phía trên so với phương pháp phún xạ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã được công bố trong Tạp chí [Nanotechnology (2016), DOI 10,1088/0957- 4484/27/33/335202]. Ngoài ra, chúng tôi cũng nghiên cứu chế tạo màng điện cực cửa sổ ZnO/ITO bằng phương pháp phún xạ ở phần cuối của chương. 3.1 Chế tạo lớp điện cực cửa sổ AgNW/ZnO bằng phương pháp ALD 3.1.1 Giới thiệu phương pháp tạo màng bằng ALD Phương pháp chế tạo màng mỏng bằng ALD là một phương pháp thuộc nhóm phương pháp lắng đọng hơi hóa học để chế tạo màng với chiều dày có thể kiểm soát được lên đến cỡ nano mét. Các tiền chất được dùng trong ALD phải có khả năng hoạt động bề mặt và có khả năng bám một lớp phân tử trên bề mặt đế. Màng chế tạo theo phương pháp này sẽ từng bước được hình thành thông qua các chu kỳ hoạt động ALD. Nguyên lý hoạt động của một chu kỳ hoạt động của ALD được mô tả như sau (với A, B là ký hiệu các tiền chất được dùng trong ALD): Ban đầu, tiền chất A được đưa vào buồng ALD, tại đây do tiền chất này có tính chất và khả năng hoạt động bề mặt nên nó sẽ được hấp phụ và tạo một lớp phân tử trên bề mặt đế. Hình 3-1 minh hoạ giai đoạn này, các phân tử tiền chất A (màu xanh) và sẽ được phủ một lớp trên đế. Tiếp theo, phần dư của tiền chất A sau đó sẽ được đẩy ra ngoài buồng ALD, và tiền chất B được đưa vào buồng ALD. Hình 3-2, minh hoạ giai đoạn này, các tiền chất B có màu đỏ và một lớp tiền chất A đã được phủ trên bề mặt đế trong giai đoạn trước đó có màu xanh. 51 Hình 3-1: Nguyên lý ALD, giai đoạn tiền chất A được đưa vào buồng ALD. Hình 3-2: Nguyên lý ALD, giai đoạn tiền chất B được đưa vào buồng ALD. Hình 3-3: Nguyên lý ALD, giai đoạn phản ứng các tiền chất để tạo lớp vật liệu cần phủ. Ở giai đoạn này, tiền chất B sẽ phản ứng với tiền chất A để hình thành một lớp vật liệu cần phủ trên bề mặt mẫu như trong Hình 3-3. Sau đó, tiền chất B và các sản phẩm phụ của phản ứng sẽ được làm sạch khỏi buồng phản ứng. Một chu trình hoạt động của ALD kết thúc và kết quả là cho ta một lớp vật liệu mọc trên đế. Tiếp tục như vậy, các chu trình hoạt động của ALD khác lần lượt được thực hiện và quá trình lặp lại cho đến khi mẫu màng được phủ bằng ALD đã đạt được độ dày mong muốn như minh hoạ tron
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_va_che_tao_pin_mat_troi_cuznsnsse_va_cuin.pdf
Thong tin moi cua luan an (tieng anh).pdf
Thong tin moi cua luan an (tieng viet).pdf
Tomtat_LUANAN_PhamAnhTuan.pdf