Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)

Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 188 trang nguyenduy 10/10/2025 70
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)

Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)
á thịt thì ao nuôi ở Cần Thơ có tỷ lệ 
nhiễm vi bào tử trùng cao nhất là 77,7%, kế đến là An Giang và thấp nhất là các 
ao nuôi ở Vĩnh Long với 51,1% mẫu cá nhiễm vi bào tử trùng. Tỷ lệ nhiễm vi 
bào tử trùng trên cá thịt ở các tỉnh thu mẫu khác biệt không có ý nghĩa thống kê 
(p>0,05). Từ Hình 4.11 có thể thấy ở cả 3 tỉnh thu mẫu thì giai đoạn cá giống 
luôn có tỷ lệ nhiễm cao hơn (có ý nghĩa thống kê ở mức p<0,05) giai đoạn cá 
thịt. Kết quả cho thấy tỉ lệ nhiễm vi bào tử trùng Microsporidia của đề tài cao 
74 
hơn nghiên cứu trước đó của Nguyễn Thị Thu Hằng và Đặng Thị Hoàng Oanh 
(2011), tỷ lệ nhiễm dao động từ 40,0-85,7% tùy theo giai đoạn cá. 
Hình 4.11: Tỷ lệ nhiễm vi bào tử trùng Microsporidia ở cá giống và cá thịt 
của tổng số mẫu phân tích ở 3 tỉnh 
Ghi chú: các cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) 
Các kết quả thu được khá phù hợp với nhận định của Woo (2006); Weiss 
và Becnel (2014). Ở giai đoạn cá giống do sức đề kháng và khả năng vận động 
của cá khá thấp nên các vi bào tử trùng dễ dàng xâm nhập vào cơ thể cá và phát 
triển thành bệnh. Nếu như ở giai đoạn cá thịt, Microsporidia chỉ là giảm chất 
lượng cơ thịt và gây hao hụt lớn thì ở giai đoạn cá giống, Microsporidia có thể 
gây hao hụt lớn cho đàn cá nếu không được điều trị hiệu quả. 
Kết quả ghi nhận có sự khác nhau về cường độ nhiễm giữa giai đoạn cá và 
các tỉnh thu mẫu. Ở cả 3 tỉnh, mẫu cá giống luôn có cường độ nhiễm cao hơn cá 
thịt. Tỉ lệ nhiễm giữa các ao cá giống ở Cần Thơ dao động từ 70,0-83,3%, cường 
độ nhiễm từ 1-181 bào nang/cá. Các ao cá giống ở An Giang có tỉ lệ nhiễm khá 
cao, chiếm từ 86,6-96,6% và cường độ nhiễm từ 1-129 bào nang/cá. Ao cá ở 
Vĩnh Long có tỉ lệ nhiễm từ 73,3-96,6% và cường độ nhiễm từ 1-83 bào nang/cá. 
Ngược lại, cường độ nhiễm ở các ao cá thịt thấp hơn cá giống, tỉ lệ nhiễm các 
ao thu ở Cần Thơ từ 66,6-86,6%, cường độ nhiễm từ 1-70 bào nang/cá. Tỉ lệ 
nhiễm trong các ao ở An Giang chiếm từ 46,6-86,6% và cường độ nhiễm từ 1-
75 
44 bào nang/cá. Riêng các ao cá ở Vĩnh Long có tỉ lệ nhiễm từ 40-73,3% và 
cường độ nhiễm từ 1-76 bào nang/cá. 
Bảng 4.2: Cường độ nhiễm vi bào tử trùng Microsporidia 
Tỉnh 
Giai đoạn 
cá 
Tổng số 
mẫu 
Số mẫu 
nhiễm 
Tỷ lệ 
nhiễm (%) 
CĐN 
(thấp-cao) 
An 
Giang 
Cá giống 150 139 92,6±5,5 1-129 
Cá thịt 30 20 66,6±28,3 1-44 
 Cá hương 30 28 93,3±0,0 2-14 
Cần Thơ Cá giống 138 107 78,7±4,9 1-181 
 Cá thịt 45 35 77,7±10,2 1-70 
Vĩnh 
Long 
Cá giống 140 121 88±9,0 1-83 
Cá thịt 45 22 51,1±19,2 1-76 
Ghi chú: CĐN: cường độ nhiễm Microsporidia (bào nang/cá) 
Nhìn chung, tỉ lệ nhiễm ở các ao cá giống dao động từ 70,0-96,6% và 
cường độ nhiễm từ 1-181 bào nang/cá. Trên cá nuôi thương phẩm, tỉ lệ nhiễm 
ở các ao thấp nhất là 40%, cao nhất là 86,6%; cường độ nhiễm từ 1-76 bào 
nang/cá. Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm 
vi bào tử trùng Microsporidia nhiễm trong cơ cá tra khá cao, điều này là do đề 
tài không thu mẫu ngẫu nhiên mà chỉ tập trung thu mẫu ở những ao đã nhiễm 
bệnh gạo, vì vậy mức độ nhiễm trong đề tài cao hơn kết quả ghi nhận tỷ lệ nhiễm 
(dao động từ 40,0-85,7%) và (cường độ nhiễm từ 0-9 bào nang/cá) của Nguyễn 
Thị Thu Hằng và Đặng Thị Hoàng Oanh (2011). 
Qua kết quả phân tích cho thấy sự cần thiết trong kiểm tra dịch bệnh cá 
giống trước khi được thu mua để chuyển sang nuôi thịt nhằm đề phòng dịch 
bệnh do vi bào tử trùng gây ra, làm giảm chất lượng thịt cá và giá thành thu 
hoạch. Ngoài ra, các hộ ương nuôi cá giống cần áp dụng các quy trình kiểm soát 
nguồn nước và thức ăn, cần chú ý kiểm tra cá để phát hiện kịp thời loại bỏ cá 
nhiễm bệnh, tránh những thiệt hại lớn do vi bào tử trùng gây ra khi bùng phát 
bệnh. 
4.1.4 Kết quả phân tích mô bệnh học mẫu cơ cá tra nhiễm vi bào tử trùng 
Microsporidia 
Mẫu cơ cá tra được phân tích mô học là loại cơ vân phân bố dọc hai bên 
thân cá. Tổng cộng có 195 mẫu mô cơ cá tra thu được từ các vùng cơ nhiễm bào 
76 
nang gạo. Tuy nhiên, đề tài chọn ngẫu nhiên 65 mẫu cơ cá giống và cá thịt theo 
tỉ lệ mẫu thu được để phân tích mô học. Đặc điểm mô học được trình bày trong 
Bảng 4.3. 
Bảng 4.3: Đặc điểm mô học của cá bị nhiễm vi bào tử trùng theo từng giai 
đoạn cá 
Tỉnh 
Giai 
đoạn 
Số 
mẫu 
Số mẫu 
cắt mô 
Đặc điểm mô học 
Cần Thơ 
Cá giống 46 15 
Hoại tử, mất cấu trúc tế bào, xuất hiện các bào nang 
tiên khởi 
Cá thịt 12 4 
Hoại tử, vùng cơ bị ly giải, xuất hiện các bào nang 
tiên khởi 
Vĩnh 
Long 
Cá giống 44 15 Ly giải các tế bào cơ, màng bào nang dày, lan tỏa 
Cá thịt 9 3 
Hoại tử, vùng cơ bị ly giải, xuất hiện các bào nang 
tiên khởi 
An 
Giang 
Cá giống 75 25 
Xuất hiện các bào nang tiên khởi, ly giải vùng cơ bên 
trong bào nang, bào nang hình thoi, màng dày 
Cá thịt 9 3 
Các bào nang hình thoi đến tròn, màng dày, lan tỏa 
nhiều hướng, bó cơ mất cấu trúc và bị phân hủy 
Tổng 195 65 
Kết quả phân tích mô bệnh học của 65 mẫu mô cơ cá bị nhiễm bào nang 
gạo (Bảng 4.3) ghi nhận được hình dạng bào nang và cấu trúc mô cơ khi bị 
nhiễm bào tử. Đối với các bào nang mới hình thành có dạng hình tròn, kích 
thước đường kính từ 1-2 mm, bên trong bào nang chứa bào tử dày đặc, vùng mô 
cơ bị trương phồng và mất cấu trúc tế bào, bào nang lúc này được bảo vệ bởi 
một lớp màng mỏng, không có dấu hiệu xuất huyết xung quanh (Hình 4.12A và 
B). Trong khi đó, đối với các bào nang đã phát triển đến giai đoạn cuối, thì bào 
nang có dạng hình thoi thon dài hoặc đa giác, kích thước chiều dài từ 3-4 mm. 
Bào nang lúc này được bảo vệ bởi lớp màng dày, phần rìa lan tỏa. Bên trong 
bào nang, các cấu trúc mô cơ bắt đầu bị ly giải, phân rã và mật độ bào tử giảm 
thấp. Xung quanh bào nang lúc này xuất hiện các vùng cơ bị phân hủy (Hình 
4.12C). 
77 
Hình 4.12: Tiêu bản cắt mô cơ cá tra nhiễm bào nang gạo (20x) 
A: Bào nang mới hình thành (mũi tên) - mô cá giống; B: Bào nang chứa các bào tử 
xuất hiện trên da của cá thịt; C: Bào nang ở giai đoạn cuối, mô cơ bị phân giải, màng 
bào nang rất dầy (M); D: Bào tử trùng lây nhiễm qua vùng cơ lân cận, vùng cơ xuất 
huyết xung quanh bào nang - mô cá thịt 
Quan sát ở tất cả các mẫu mô nhiễm trên cá thịt đều cho thấy sự xuất hiện 
của bào nang gạo trong cơ cá tra làm cho vùng cơ này bị mất cấu trúc và bên 
trong bào nang có dấu hiệu hoại tử, các tế bào mô bị vi bào tử ký sinh và bắt 
đầu bị ly giải hoàn toàn. Xung quanh các bào nang xuất hiện nhiều vùng xuất 
huyết và mất cấu trúc với mức độ nặng hơn khi vào sâu trong vùng cơ chứa bào 
nang. Những tổn thương về mặt cấu trúc này có thể phát triển nặng hơn, thường 
đối với cá thịt. Khi đó, chúng bắt đầu hình thành các bào nang trong lớp biểu 
mô của da, hình thành các vết loét hoặc các túi rỗng, dẫn đến da cá bị tổn thương, 
viêm loét, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập gây bệnh (Hình 4.12D). 
78 
Tiêu bản mô Hình 4.13A cho thấy có sự xuất hiện bào nang tiên khởi 
(sporophorocyst) trong các bó cơ. Từ lát cắt của tiêu bản rất dễ dàng nhận thấy 
các bào nang tiên khởi bắt đầu hình thành ngay từ bên trong của các bó cơ vân. 
Bào nang ký sinh làm tổn thương nghiêm trọng cho các bó cơ vân, vi bào tử 
trùng được bào nang bảo vệ và chúng phát triển lớn dần bên trong bào nang. 
Tuy nhiên, quan sát kỹ có thể thấy các bào nang tiên khởi có mật độ bào tử rất 
ít và chúng chưa được bao bọc bởi màng liên kết dày. Các bào nang mới bắt đầu 
phân hủy các tế bào cơ trong từng sợi cơ, chưa gây ra các biểu hiện như xuất 
huyết và trương phồng các bó cơ. Vì vậy, khi cá nhiễm ở giai đoạn này thường 
không có các dấu hiệu bệnh lý, rất khó để chẩn đoán. Ngoài ra, ở giai đoạn khởi 
phát này không quan sát thấy sự xuất hiện các đại thực bào. Vì vậy, mức độ gây 
tổn thương mô học trong giai đoạn này thấp và bào tử dễ dàng bị tiêu diệt bởi 
các tác nhân lý hóa học từ bên ngoài. 
Quan sát tiêu bản mô cắt ngang có thể thấy bên ngoài bào nang có một 
lớp màng là mô liên kết để bao bọc vi bào tử trùng Microsporidia, giúp bảo vệ 
các bào tử bên trong (Hình 4.13B và C). Khi nhuộm mẫu cơ với H và E thì bào 
tử sẽ bắt màu xanh tím của Haematocyline. Ngoài ra, trong tiêu bản mô còn 
nhận thấy màng bao bọc bào nang gồm một lớp mô liên kết khá dầy, chúng bao 
bọc bảo vệ xung quanh các vi bào tử trùng Microsporidia bên trong và tỏa rộng 
ra nhiều phía nối với các bó cơ để giữ vững chắc các bào nang này. Vì vậy, 
trong giai đoạn bào nang, các vi bào tử trùng Microsporidia rất khó bị tiêu diệt 
bởi các tác nhân vật lý hay hóa học từ bên ngoài. 
Kết quả ghi nhận sự biến đổi cấu trúc mô học của đề tài khá tương đồng 
với các kết quả của nhiều nghiên cứu trước đây trên các loài cá nhiễm 
Microsporidia (Dykova và Lom, 1980; Shaw và Kent, 1999). Các tiêu bản mô 
cơ cho thấy bào tử hình thành từ bên trong tế bào, chúng tấn công và phân giải 
các thành phần của tế bào trong khi cấu trúc bên ngoài của các sợi cơ vẫn giữ 
nguyên vẹn. Các sợi cơ bị phá hủy nghiêm trọng trong một thời gian dài sau khi 
tất cả các tế bào chất của tế bào trong các sợi cơ bị phân giải. Trong giai đoạn 
cuối cùng, cấu trúc bên trong sợi cơ bị phá hủy hoàn toàn và được thay thế bằng 
79 
các bào tử, các bào tử nằm trong bào nang và được bảo vệ bởi chính màng sợi 
cơ đó. 
Hình 4.13: Tiêu bản cắt mô cơ cá tra nhiễm bào nang gạo (20x) 
A: Bào nang tiên khởi (mũi tên) - mô cá giống; B và C: Bào nang chứa các bào tử với 
vùng cơ bị ly giải (mũi tên) - mô cá thịt; D: Vi bào tử trùng lây nhiễm qua vùng cơ lân 
cận, cơ mất cấu trúc và bị phân hủy - mô cá thịt 
Kết quả nghiên cứu đặc điểm mô bệnh học của đề tài tương tự với kết 
quả nghiên cứu mô học của Dykova và Lom (2000) trên cá Pangasius sutchi ở 
Thái Lan nhiễm loài Kabatana arthuri, các bào tử K. Arthuri gây ra những thay 
đổi thoái hóa nghiêm trọng trong các bó cơ xung quanh thân cá. Các dấu hiệu 
của sự hoại tử phát triển trong các sợi cơ và xung quanh các bào nang của bào 
tử. Tương tự, phản ứng miễn dịch của cá là hoạt động thực bào của các đại thực 
bào. Nghiên cứu cho thấy các đại thực bào chứa đầy các bào tử ở bên trong bào 
nang. 
Nghiên cứu gần đây trên loài cá chình Anguilla japonica ở Hàn Quốc 
nhiễm Heterosporis anguillarum cũng ghi nhận sự xuất hiện các bào nang tiên 
khởi trong các sợi cơ ở giai đoạn đầu của quá trình nhiễm bệnh. Joh et al. (2007) 
80 
phát hiện quá trình ly giải các sợi cơ trên các tiêu bản mô cơ nhiễm bệnh và sự 
xuất hiện rải rác các bào nang tiên khởi với kích thước và hình dạng khác nhau 
bên trong các bó cơ. Các bào nang này chứa rất ít bào tử và chưa có màng bảo 
vệ. Ngoài ra, không có sự xuất hiện các đại thực bào bên trong các bào nang. 
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng ghi nhận có những bào nang tiên khởi bị phá hủy, 
giải phóng các bào tử ra bên ngoài và các đại thực bào xuất hiện để tiêu diệt 
chúng. 
Nghiên cứu của Tourtip et al. (2009) ghi nhận một loài Microsporidia 
mới được phát hiện gây bệnh cá là loài Enterocytozoon hepatopenaei. Các kết 
quã ghi nhận được cũng cho thấy mức độ phá hủy cấu trúc tế bào củ E. 
hepatopenaei tương tự như những ghi nhận của đề tài. Kết quả cho thấy các bào 
tử xuất hiện trong các cấu trúc ưa acid bị giới hạn trong các không bào của tế 
bào chất, các tế bào dự trữ, phôi, fibrillar. Cấu trúc mô gan tụy bị phá hủy với 
số lượng lớn các bào tử của loài Enterocytozoon hepatopenaei. Tuy nhiên, ruột 
và các tế bào biểu mô ruột hoặc các tế bào của các mô và các cơ quan khác 
không bị ảnh hưởng. Phần mô học cho thấy nhiều giai đoạn phát triển của bào 
tử trong tế bào cơ cá. 
Ngoài các trường hợp gây bệnh trên các loài cá, vi bào tử trùng cũng gây 
ra những biến đổi mô học nghiêm trọng trên tôm thẻ. Nghiên cứu mô bệnh học 
trên tôm thẻ Litopenaeus vannamei nhiễm vi bào tử trùng Thelohania sp. ghi 
nhận sự xâm nhiễm và gây hại của các bào tử Thelohania sp. ở nhiều cơ quan 
quan trọng của tôm như gan tụy, cơ vân, hạch bạch huyết, tế bào thần kinh, 
mang, tim và cả dạ dày. Tương tự như các trường hợp nhiễm Kabatana sp. trên 
cá tra, loài Thelohania sp. cũng hình thành các bào nang màu trắng, trương to 
trong các cấu trúc mô. Các bào nang này phá hủy cấu trúc các mô và phân hủy 
các tế bào mà chúng ký sinh trong đó. Ngoài ra, xung quanh các bào nang còn 
biểu hiện các dấu hiệu xuất huyết, viêm nhiễm do bội nhiễm vi khuẩn. Những 
kết quả này cho thấy rõ ràng mức độ nghiêm trọng của nhiễm vi bào tử trùng sẽ 
ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển và tồn tại của tôm thẻ chân trắng (Prasertsri 
et al., 2009). 
81 
Nghiên cứu về bệnh gạo trên các tra ở ĐBSCL của Nguyễn Thị Thu Hằng 
và Đặng Thị Hoàng Oanh (2011) cũng ghi nhận các thay đổi cấu trúc mô học 
của các vùng bị xâm nhiễm. Các mẫu cơ cá tra nhiễm bào nang của 
Microsporidia được nhuộm Haematoxylin và Eosin. Kết quả phân tích mô bệnh 
học ghi nhận được hình dạng bào nang và vùng cơ bị hoại tử. Những thay đổi 
chính về mô học gây ra bởi Microsporidia được tìm thấy ở cơ bên, cơ lưng, cơ 
bụng. Hầu hết các khối cơ bên bị che kín bởi các bào tử. Những thay đổi nghiêm 
trọng về cấu trúc trong mô cơ đi kèm với sự nhân lên của Microsporidia và sự 
lây lan của sự truyền nhiễm đều chiếm ưu thế trong các mẫu được quan sát. 
Thêm vào đó sự thay đổi về cấu trúc của những sợi cơ đặc trưng như sự mất đi 
của những sợi cơ, hoại tử cơ được quan sát ở tất cả các giai đoạn phát triển cũng 
như ở ngoại vi thay vào đó tập hợp các bào tử khổng lồ tăng kích thước. 
Tương tự loài Kabatana sp., loài Nosema sp. cũng gây ra các tổn thương 
cho tế bào cơ trơn và cả các tế bào biểu mô da, biểu mô thành ruột. Loài 
Barbronia assiuti được phát hiện nhiễm vi bào tử trùng Nosema sp. trong hầu 
hết các cơ quan quan trọng. Bào tử trưởng thành cũng hình thành các bào nang 
gây trương phồng các mô cơ quan. Trong đó, chúng hình thành các túi rỗng và 
xơ hóa làm thay đổi cấu trúc các mô cơ quan. Xung quanh các bào nang, kết 
qua mô bệnh học cũng quan sát thấy sự xuất hiện của các đại thực bào, các tế 
bào sắc tố và các tế bào sợi, để chống lại sự xâm nhiễm của các vi bào tử trùng 
Nosema sp. qua các tế bào khác (Gouda, 2013). 
Nghiên cứu của West et al., (2014) ghi nhận các đặc điểm mô bệnh học 
của loài cá Danio rerio nhiễm vi bào tử trùng Pseudoloma neurophilia cũng có 
những điểm tương đồng với loài Kabatana sp. Kết quả quan sát thấy các tổn 
thương như thoái hóa cấu trúc cơ, sự trương phồng của tế bào cơ, các vết hoại 
tử xung quanh và trong các bào nang chứa dày đặc bào tử. Xung quanh các bào 
nang còn xuất hiện các dấu hiệu viêm nhiễm của các tế bào cơ. Trong trường 
hợp nhiễm loài này, các mẫu mô bệnh học không xác định được sự xuất hiện 
của các bào nang tiên khởi cũng như các phản ứng miễn dịch là sự xuất hiện của 
các đại thực bào. Không giống như bào tử Kabatana sp., loài vi bào tử trùng 
này hình thành các bào nang có hình dạng không xác định và không có lớp màng 
82 
dày bảo vệ bên ngoài. Các bào tử xuất hiện dầy đặc bên trong bào nang nhưng 
chúng không phân giải các bó cơ mà chỉ gây ra sự biến đổi tương tự ở các bó cơ 
xung quanh bào nang. 
Các đặc điểm biến đổi cấu trúc cơ cũng xảy ra tương tự ở các loài rắn 
biển (Hydrophiinae) khi nhiễm vi bào tử trùng Heterosporis anguillarum. 
Nghiên cứu của Gillet et al. (2016) trên loài rắn biển cho thấy H. anguillarum 
nhiễm trên các nhóm cơ trơn dọc hai bên thân, nhiễm trong xương, gây ra hiện 
tượng gãy xương và thoái hóa các đốt sống. Kết quả phân tích mô bệnh học cho 
thấy sự thoái hóa và phân hủy của các sợi cơ bị nhiễm bào tử H. anguillarum. 
Các bào tử hình thành các bào nang trong cơ rắn biển được bảo vệ bởi một lớp 
màng mỏng chứ không dầy như đối với loài Kabatana sp. gây ra trên cá tra. Các 
bào tử có dạng hình trứng và kích thước trong khoảng 2,0-2,6x1,0-1,5 μm. Các 
mẫu mô bệnh học cũng có sự xuất hiện của các đại thực bào và bạch cầu trung 
tính nằm rải rác trong các bào nang với mật độ bào tử dầy đặc. Trong trường 
hợp nhiễm bệnh, không có các biểu hiện xuất huyết xung quanh các bào nang, 
tuy nhiên các bào nang gây trương phồng và thay đổi cấu trúc của da, cơ và 
xương của các cá thể nhiễm bệnh. 
Tóm lại: những biến đổi mô học của cá tra nhiễm vi bào tử trùng 
Microsporidiaở các giai đoạn cá giống và cá nuôi thương phẩm giống nhau. So 
sánh với các kết quả được công bố trước đây ở khía cạnh mô bệnh học cho thấy 
mức độ gây hại nghiêm trọng của vi bào tử trùng Microsporidia đối với cấu trúc 
các mô cơ của cá. Tuy nhiên, qua những kết quả này cũng đã mở ra khả năng 
điều trị hiệu quả nếu như phát hiện sớm sự lây nhiễm của vi bào tử trùng 
Microsporidia trong cơ cá ở giai đoạn hình thành bào nang tiên khởi. 
4.1.5 Kết quả định danh bào tử trùng Microsporidia nhiễm trong cơ cá tra 
4.1.5.1 Xác định đặc điểm hình thái 
Kết quả quan sát tiêu bản tươi cho thấy các bào tử có cấu tạo bên ngoài 
dạng hình quả lê hoặc hình trứng, hơi thon nhỏ ở cả 2 đầu. Các bào tử này có 
kích thước rất nhỏ, nhỏ hơn gần 10 lần so với kích thước của các loài vi bào tử 
trùng khác (Hình 4.14A). Bên trong có thể quan sát thấy 1 sợi cực dạng xoắn 
83 
nối liền với 1 cực nang ở phần sau của bào tử. Số vòng xoắn của sợi cực khá 
nhiều nên rất khó phân biệt được sợi cực khi quan sát ở cùng một thị trường 
kính hiển vi. Ngoài ra, bên dưới sợi cực có không bào với kích thước nhỏ. Quan 
sát tiêu bản nhuộm Giemsa ở vật kính 100X nhận thấy phần cực nang của các 
bào tử bắt màu xanh tím của thuốc nhuộm Giemsa (Hình 4.14B). 
Hình 4.14: (A) mẫu soi tươi - 40x; (B) mẫu nhuộm Giemsa - 100x 
Nhìn chung, qua kết quả soi tươi, dựa vào khóa phân loại và mô tả và 
của Lom và Dykova (1992), Woo (2006) và Barber et al. (2009) có thể xác định 
vi bào tử trùng ký sinh trong bào nang gạo ở cơ các tra thuộc giống vi bào tử 
trùng Kabatana. 
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu ghi nhận sự hiện diện của giống 
Kabatana trong cơ cá. Kết quả phân tích hình thái vi bào tử trùng của đề tài khá 
tương đồng với kết quả của nhiều nghiên cứu trước đây ghi nhận trên giống vi 
bào tử trùng này. Theo Lom et al. (2001), Dykova và Lom (2000), Kabatana 
sp. nội ký sinh trong các mô cơ vân, cơ trơn của cá, bào tử có kích thước nhỏ 
nhất (dao động từ 2x3 µm) trong nhóm vi bào tử trùng. Không bào có kích thước 
khá nhỏ, chiều dài bằng 1/3 chiều dài bào tử. Ngoài ra, số vòng xoắn của sợi 
cực là 4-7 vòng xoắn. Kabatana sp. tạo những bào nang hình thoi, màu trắng 
đục, kích thước từ 1,5-6,0 mm bên trong các sợi cơ của cá (Sprague et al., 1992; 
Lom và Nilsen, 2003). 
84 
Bảng 4.4: Đặc điểm của bào tử Kabatana sp.gây bệnh gạo trên cá tra 
Chỉ tiêu Đặc điểm 
Hình dạng bào tử Hình trứng, quả lê 
Chiều dài bào tử 3,1±1,5 µm 
Đường kính bào tử 2,3±1,2 µm 
Sợi cực của bào tử Cấu tạo liền mạch, xoắn và khó phân biệt rõ 
Không bào của bào tử Nhỏ, chiếm 1/3 chiều dài bào tử 
Bào nang Hình thoi hoặc bầu dục 
Màu sắc bào nang Màu trắng sữa, vàng kem 
Kích thước bào nang 0,5-10,0 mm 
Hình 4.15: Cấu trúc của bào tử Kabatana sp. (A) mẫu tươi - 200x và (B) 
mẫu chụp trên kính hiển vi điện tử SEM 
Kết quả tổng hợp của các tác giả Sprague (1992), Lom và Nilsen (2003), 
Lom và Dykova (2005), Weiss và Becnel (2014), cho thấy giống vi bào tử trùng 
Kabatana là giống nội ký sinh trong cơ của cá có kích thước nhỏ nhất trong tất 
cả các giống vi bào tử trùng. Cấu tạo bên ngoài của bào tử Kabatana sp. có 
màng gồm 3 lớp: vách ngoại bào, vách nội bào trong suốt ở giữa và 1 màng 
plasma trong cùng; cấu tạo bên trong gồm có: cực nang, bên trong có sợi cực 
xoắn dạng cuộn lò xo, phần đỉnh của bào tử là 1 lớp đĩa neo, nhân tế bào và 
không bào ở phía sau. Giống vi bào tử trùng này được ghi nhận gây bệnh nguy 
hiểm trên nhiều loài cá nuôi tại Nhật Bản và các loài cá biển (Woo, 2006; Lom 
85 
et al., 2001). Bên cạnh đó, theo những kết quả phân tích cho thấy loài vi bào tử 
trùng này gây bệnh khá phổ biến cho đàn cá hồi ở giai đoạn cá giống từ 10-30 
ngày tuổi, với tỷ lệ chết rất cao từ 70-90% đàn cá (Lom và Dykova, 2005). 
Theo tổng hợp của Weiss và Becnel (2014), các giốn

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_vi_bao_tu_trung_microsporidia_nhiem_trong.pdf
  • docThongtinluanan-en.doc
  • docThongtinluanan-vi.doc
  • pdfTomtatluanan-en.pdf
  • pdfTomtatluanan-vi.pdf