Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu vi bào tử trùng (Microsporidia) nhiễm trong cơ cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)

á thịt thì ao nuôi ở Cần Thơ có tỷ lệ nhiễm vi bào tử trùng cao nhất là 77,7%, kế đến là An Giang và thấp nhất là các ao nuôi ở Vĩnh Long với 51,1% mẫu cá nhiễm vi bào tử trùng. Tỷ lệ nhiễm vi bào tử trùng trên cá thịt ở các tỉnh thu mẫu khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Từ Hình 4.11 có thể thấy ở cả 3 tỉnh thu mẫu thì giai đoạn cá giống luôn có tỷ lệ nhiễm cao hơn (có ý nghĩa thống kê ở mức p<0,05) giai đoạn cá thịt. Kết quả cho thấy tỉ lệ nhiễm vi bào tử trùng Microsporidia của đề tài cao 74 hơn nghiên cứu trước đó của Nguyễn Thị Thu Hằng và Đặng Thị Hoàng Oanh (2011), tỷ lệ nhiễm dao động từ 40,0-85,7% tùy theo giai đoạn cá. Hình 4.11: Tỷ lệ nhiễm vi bào tử trùng Microsporidia ở cá giống và cá thịt của tổng số mẫu phân tích ở 3 tỉnh Ghi chú: các cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Các kết quả thu được khá phù hợp với nhận định của Woo (2006); Weiss và Becnel (2014). Ở giai đoạn cá giống do sức đề kháng và khả năng vận động của cá khá thấp nên các vi bào tử trùng dễ dàng xâm nhập vào cơ thể cá và phát triển thành bệnh. Nếu như ở giai đoạn cá thịt, Microsporidia chỉ là giảm chất lượng cơ thịt và gây hao hụt lớn thì ở giai đoạn cá giống, Microsporidia có thể gây hao hụt lớn cho đàn cá nếu không được điều trị hiệu quả. Kết quả ghi nhận có sự khác nhau về cường độ nhiễm giữa giai đoạn cá và các tỉnh thu mẫu. Ở cả 3 tỉnh, mẫu cá giống luôn có cường độ nhiễm cao hơn cá thịt. Tỉ lệ nhiễm giữa các ao cá giống ở Cần Thơ dao động từ 70,0-83,3%, cường độ nhiễm từ 1-181 bào nang/cá. Các ao cá giống ở An Giang có tỉ lệ nhiễm khá cao, chiếm từ 86,6-96,6% và cường độ nhiễm từ 1-129 bào nang/cá. Ao cá ở Vĩnh Long có tỉ lệ nhiễm từ 73,3-96,6% và cường độ nhiễm từ 1-83 bào nang/cá. Ngược lại, cường độ nhiễm ở các ao cá thịt thấp hơn cá giống, tỉ lệ nhiễm các ao thu ở Cần Thơ từ 66,6-86,6%, cường độ nhiễm từ 1-70 bào nang/cá. Tỉ lệ nhiễm trong các ao ở An Giang chiếm từ 46,6-86,6% và cường độ nhiễm từ 1- 75 44 bào nang/cá. Riêng các ao cá ở Vĩnh Long có tỉ lệ nhiễm từ 40-73,3% và cường độ nhiễm từ 1-76 bào nang/cá. Bảng 4.2: Cường độ nhiễm vi bào tử trùng Microsporidia Tỉnh Giai đoạn cá Tổng số mẫu Số mẫu nhiễm Tỷ lệ nhiễm (%) CĐN (thấp-cao) An Giang Cá giống 150 139 92,6±5,5 1-129 Cá thịt 30 20 66,6±28,3 1-44 Cá hương 30 28 93,3±0,0 2-14 Cần Thơ Cá giống 138 107 78,7±4,9 1-181 Cá thịt 45 35 77,7±10,2 1-70 Vĩnh Long Cá giống 140 121 88±9,0 1-83 Cá thịt 45 22 51,1±19,2 1-76 Ghi chú: CĐN: cường độ nhiễm Microsporidia (bào nang/cá) Nhìn chung, tỉ lệ nhiễm ở các ao cá giống dao động từ 70,0-96,6% và cường độ nhiễm từ 1-181 bào nang/cá. Trên cá nuôi thương phẩm, tỉ lệ nhiễm ở các ao thấp nhất là 40%, cao nhất là 86,6%; cường độ nhiễm từ 1-76 bào nang/cá. Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm vi bào tử trùng Microsporidia nhiễm trong cơ cá tra khá cao, điều này là do đề tài không thu mẫu ngẫu nhiên mà chỉ tập trung thu mẫu ở những ao đã nhiễm bệnh gạo, vì vậy mức độ nhiễm trong đề tài cao hơn kết quả ghi nhận tỷ lệ nhiễm (dao động từ 40,0-85,7%) và (cường độ nhiễm từ 0-9 bào nang/cá) của Nguyễn Thị Thu Hằng và Đặng Thị Hoàng Oanh (2011). Qua kết quả phân tích cho thấy sự cần thiết trong kiểm tra dịch bệnh cá giống trước khi được thu mua để chuyển sang nuôi thịt nhằm đề phòng dịch bệnh do vi bào tử trùng gây ra, làm giảm chất lượng thịt cá và giá thành thu hoạch. Ngoài ra, các hộ ương nuôi cá giống cần áp dụng các quy trình kiểm soát nguồn nước và thức ăn, cần chú ý kiểm tra cá để phát hiện kịp thời loại bỏ cá nhiễm bệnh, tránh những thiệt hại lớn do vi bào tử trùng gây ra khi bùng phát bệnh. 4.1.4 Kết quả phân tích mô bệnh học mẫu cơ cá tra nhiễm vi bào tử trùng Microsporidia Mẫu cơ cá tra được phân tích mô học là loại cơ vân phân bố dọc hai bên thân cá. Tổng cộng có 195 mẫu mô cơ cá tra thu được từ các vùng cơ nhiễm bào 76 nang gạo. Tuy nhiên, đề tài chọn ngẫu nhiên 65 mẫu cơ cá giống và cá thịt theo tỉ lệ mẫu thu được để phân tích mô học. Đặc điểm mô học được trình bày trong Bảng 4.3. Bảng 4.3: Đặc điểm mô học của cá bị nhiễm vi bào tử trùng theo từng giai đoạn cá Tỉnh Giai đoạn Số mẫu Số mẫu cắt mô Đặc điểm mô học Cần Thơ Cá giống 46 15 Hoại tử, mất cấu trúc tế bào, xuất hiện các bào nang tiên khởi Cá thịt 12 4 Hoại tử, vùng cơ bị ly giải, xuất hiện các bào nang tiên khởi Vĩnh Long Cá giống 44 15 Ly giải các tế bào cơ, màng bào nang dày, lan tỏa Cá thịt 9 3 Hoại tử, vùng cơ bị ly giải, xuất hiện các bào nang tiên khởi An Giang Cá giống 75 25 Xuất hiện các bào nang tiên khởi, ly giải vùng cơ bên trong bào nang, bào nang hình thoi, màng dày Cá thịt 9 3 Các bào nang hình thoi đến tròn, màng dày, lan tỏa nhiều hướng, bó cơ mất cấu trúc và bị phân hủy Tổng 195 65 Kết quả phân tích mô bệnh học của 65 mẫu mô cơ cá bị nhiễm bào nang gạo (Bảng 4.3) ghi nhận được hình dạng bào nang và cấu trúc mô cơ khi bị nhiễm bào tử. Đối với các bào nang mới hình thành có dạng hình tròn, kích thước đường kính từ 1-2 mm, bên trong bào nang chứa bào tử dày đặc, vùng mô cơ bị trương phồng và mất cấu trúc tế bào, bào nang lúc này được bảo vệ bởi một lớp màng mỏng, không có dấu hiệu xuất huyết xung quanh (Hình 4.12A và B). Trong khi đó, đối với các bào nang đã phát triển đến giai đoạn cuối, thì bào nang có dạng hình thoi thon dài hoặc đa giác, kích thước chiều dài từ 3-4 mm. Bào nang lúc này được bảo vệ bởi lớp màng dày, phần rìa lan tỏa. Bên trong bào nang, các cấu trúc mô cơ bắt đầu bị ly giải, phân rã và mật độ bào tử giảm thấp. Xung quanh bào nang lúc này xuất hiện các vùng cơ bị phân hủy (Hình 4.12C). 77 Hình 4.12: Tiêu bản cắt mô cơ cá tra nhiễm bào nang gạo (20x) A: Bào nang mới hình thành (mũi tên) - mô cá giống; B: Bào nang chứa các bào tử xuất hiện trên da của cá thịt; C: Bào nang ở giai đoạn cuối, mô cơ bị phân giải, màng bào nang rất dầy (M); D: Bào tử trùng lây nhiễm qua vùng cơ lân cận, vùng cơ xuất huyết xung quanh bào nang - mô cá thịt Quan sát ở tất cả các mẫu mô nhiễm trên cá thịt đều cho thấy sự xuất hiện của bào nang gạo trong cơ cá tra làm cho vùng cơ này bị mất cấu trúc và bên trong bào nang có dấu hiệu hoại tử, các tế bào mô bị vi bào tử ký sinh và bắt đầu bị ly giải hoàn toàn. Xung quanh các bào nang xuất hiện nhiều vùng xuất huyết và mất cấu trúc với mức độ nặng hơn khi vào sâu trong vùng cơ chứa bào nang. Những tổn thương về mặt cấu trúc này có thể phát triển nặng hơn, thường đối với cá thịt. Khi đó, chúng bắt đầu hình thành các bào nang trong lớp biểu mô của da, hình thành các vết loét hoặc các túi rỗng, dẫn đến da cá bị tổn thương, viêm loét, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập gây bệnh (Hình 4.12D). 78 Tiêu bản mô Hình 4.13A cho thấy có sự xuất hiện bào nang tiên khởi (sporophorocyst) trong các bó cơ. Từ lát cắt của tiêu bản rất dễ dàng nhận thấy các bào nang tiên khởi bắt đầu hình thành ngay từ bên trong của các bó cơ vân. Bào nang ký sinh làm tổn thương nghiêm trọng cho các bó cơ vân, vi bào tử trùng được bào nang bảo vệ và chúng phát triển lớn dần bên trong bào nang. Tuy nhiên, quan sát kỹ có thể thấy các bào nang tiên khởi có mật độ bào tử rất ít và chúng chưa được bao bọc bởi màng liên kết dày. Các bào nang mới bắt đầu phân hủy các tế bào cơ trong từng sợi cơ, chưa gây ra các biểu hiện như xuất huyết và trương phồng các bó cơ. Vì vậy, khi cá nhiễm ở giai đoạn này thường không có các dấu hiệu bệnh lý, rất khó để chẩn đoán. Ngoài ra, ở giai đoạn khởi phát này không quan sát thấy sự xuất hiện các đại thực bào. Vì vậy, mức độ gây tổn thương mô học trong giai đoạn này thấp và bào tử dễ dàng bị tiêu diệt bởi các tác nhân lý hóa học từ bên ngoài. Quan sát tiêu bản mô cắt ngang có thể thấy bên ngoài bào nang có một lớp màng là mô liên kết để bao bọc vi bào tử trùng Microsporidia, giúp bảo vệ các bào tử bên trong (Hình 4.13B và C). Khi nhuộm mẫu cơ với H và E thì bào tử sẽ bắt màu xanh tím của Haematocyline. Ngoài ra, trong tiêu bản mô còn nhận thấy màng bao bọc bào nang gồm một lớp mô liên kết khá dầy, chúng bao bọc bảo vệ xung quanh các vi bào tử trùng Microsporidia bên trong và tỏa rộng ra nhiều phía nối với các bó cơ để giữ vững chắc các bào nang này. Vì vậy, trong giai đoạn bào nang, các vi bào tử trùng Microsporidia rất khó bị tiêu diệt bởi các tác nhân vật lý hay hóa học từ bên ngoài. Kết quả ghi nhận sự biến đổi cấu trúc mô học của đề tài khá tương đồng với các kết quả của nhiều nghiên cứu trước đây trên các loài cá nhiễm Microsporidia (Dykova và Lom, 1980; Shaw và Kent, 1999). Các tiêu bản mô cơ cho thấy bào tử hình thành từ bên trong tế bào, chúng tấn công và phân giải các thành phần của tế bào trong khi cấu trúc bên ngoài của các sợi cơ vẫn giữ nguyên vẹn. Các sợi cơ bị phá hủy nghiêm trọng trong một thời gian dài sau khi tất cả các tế bào chất của tế bào trong các sợi cơ bị phân giải. Trong giai đoạn cuối cùng, cấu trúc bên trong sợi cơ bị phá hủy hoàn toàn và được thay thế bằng 79 các bào tử, các bào tử nằm trong bào nang và được bảo vệ bởi chính màng sợi cơ đó. Hình 4.13: Tiêu bản cắt mô cơ cá tra nhiễm bào nang gạo (20x) A: Bào nang tiên khởi (mũi tên) - mô cá giống; B và C: Bào nang chứa các bào tử với vùng cơ bị ly giải (mũi tên) - mô cá thịt; D: Vi bào tử trùng lây nhiễm qua vùng cơ lân cận, cơ mất cấu trúc và bị phân hủy - mô cá thịt Kết quả nghiên cứu đặc điểm mô bệnh học của đề tài tương tự với kết quả nghiên cứu mô học của Dykova và Lom (2000) trên cá Pangasius sutchi ở Thái Lan nhiễm loài Kabatana arthuri, các bào tử K. Arthuri gây ra những thay đổi thoái hóa nghiêm trọng trong các bó cơ xung quanh thân cá. Các dấu hiệu của sự hoại tử phát triển trong các sợi cơ và xung quanh các bào nang của bào tử. Tương tự, phản ứng miễn dịch của cá là hoạt động thực bào của các đại thực bào. Nghiên cứu cho thấy các đại thực bào chứa đầy các bào tử ở bên trong bào nang. Nghiên cứu gần đây trên loài cá chình Anguilla japonica ở Hàn Quốc nhiễm Heterosporis anguillarum cũng ghi nhận sự xuất hiện các bào nang tiên khởi trong các sợi cơ ở giai đoạn đầu của quá trình nhiễm bệnh. Joh et al. (2007) 80 phát hiện quá trình ly giải các sợi cơ trên các tiêu bản mô cơ nhiễm bệnh và sự xuất hiện rải rác các bào nang tiên khởi với kích thước và hình dạng khác nhau bên trong các bó cơ. Các bào nang này chứa rất ít bào tử và chưa có màng bảo vệ. Ngoài ra, không có sự xuất hiện các đại thực bào bên trong các bào nang. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng ghi nhận có những bào nang tiên khởi bị phá hủy, giải phóng các bào tử ra bên ngoài và các đại thực bào xuất hiện để tiêu diệt chúng. Nghiên cứu của Tourtip et al. (2009) ghi nhận một loài Microsporidia mới được phát hiện gây bệnh cá là loài Enterocytozoon hepatopenaei. Các kết quã ghi nhận được cũng cho thấy mức độ phá hủy cấu trúc tế bào củ E. hepatopenaei tương tự như những ghi nhận của đề tài. Kết quả cho thấy các bào tử xuất hiện trong các cấu trúc ưa acid bị giới hạn trong các không bào của tế bào chất, các tế bào dự trữ, phôi, fibrillar. Cấu trúc mô gan tụy bị phá hủy với số lượng lớn các bào tử của loài Enterocytozoon hepatopenaei. Tuy nhiên, ruột và các tế bào biểu mô ruột hoặc các tế bào của các mô và các cơ quan khác không bị ảnh hưởng. Phần mô học cho thấy nhiều giai đoạn phát triển của bào tử trong tế bào cơ cá. Ngoài các trường hợp gây bệnh trên các loài cá, vi bào tử trùng cũng gây ra những biến đổi mô học nghiêm trọng trên tôm thẻ. Nghiên cứu mô bệnh học trên tôm thẻ Litopenaeus vannamei nhiễm vi bào tử trùng Thelohania sp. ghi nhận sự xâm nhiễm và gây hại của các bào tử Thelohania sp. ở nhiều cơ quan quan trọng của tôm như gan tụy, cơ vân, hạch bạch huyết, tế bào thần kinh, mang, tim và cả dạ dày. Tương tự như các trường hợp nhiễm Kabatana sp. trên cá tra, loài Thelohania sp. cũng hình thành các bào nang màu trắng, trương to trong các cấu trúc mô. Các bào nang này phá hủy cấu trúc các mô và phân hủy các tế bào mà chúng ký sinh trong đó. Ngoài ra, xung quanh các bào nang còn biểu hiện các dấu hiệu xuất huyết, viêm nhiễm do bội nhiễm vi khuẩn. Những kết quả này cho thấy rõ ràng mức độ nghiêm trọng của nhiễm vi bào tử trùng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển và tồn tại của tôm thẻ chân trắng (Prasertsri et al., 2009). 81 Nghiên cứu về bệnh gạo trên các tra ở ĐBSCL của Nguyễn Thị Thu Hằng và Đặng Thị Hoàng Oanh (2011) cũng ghi nhận các thay đổi cấu trúc mô học của các vùng bị xâm nhiễm. Các mẫu cơ cá tra nhiễm bào nang của Microsporidia được nhuộm Haematoxylin và Eosin. Kết quả phân tích mô bệnh học ghi nhận được hình dạng bào nang và vùng cơ bị hoại tử. Những thay đổi chính về mô học gây ra bởi Microsporidia được tìm thấy ở cơ bên, cơ lưng, cơ bụng. Hầu hết các khối cơ bên bị che kín bởi các bào tử. Những thay đổi nghiêm trọng về cấu trúc trong mô cơ đi kèm với sự nhân lên của Microsporidia và sự lây lan của sự truyền nhiễm đều chiếm ưu thế trong các mẫu được quan sát. Thêm vào đó sự thay đổi về cấu trúc của những sợi cơ đặc trưng như sự mất đi của những sợi cơ, hoại tử cơ được quan sát ở tất cả các giai đoạn phát triển cũng như ở ngoại vi thay vào đó tập hợp các bào tử khổng lồ tăng kích thước. Tương tự loài Kabatana sp., loài Nosema sp. cũng gây ra các tổn thương cho tế bào cơ trơn và cả các tế bào biểu mô da, biểu mô thành ruột. Loài Barbronia assiuti được phát hiện nhiễm vi bào tử trùng Nosema sp. trong hầu hết các cơ quan quan trọng. Bào tử trưởng thành cũng hình thành các bào nang gây trương phồng các mô cơ quan. Trong đó, chúng hình thành các túi rỗng và xơ hóa làm thay đổi cấu trúc các mô cơ quan. Xung quanh các bào nang, kết qua mô bệnh học cũng quan sát thấy sự xuất hiện của các đại thực bào, các tế bào sắc tố và các tế bào sợi, để chống lại sự xâm nhiễm của các vi bào tử trùng Nosema sp. qua các tế bào khác (Gouda, 2013). Nghiên cứu của West et al., (2014) ghi nhận các đặc điểm mô bệnh học của loài cá Danio rerio nhiễm vi bào tử trùng Pseudoloma neurophilia cũng có những điểm tương đồng với loài Kabatana sp. Kết quả quan sát thấy các tổn thương như thoái hóa cấu trúc cơ, sự trương phồng của tế bào cơ, các vết hoại tử xung quanh và trong các bào nang chứa dày đặc bào tử. Xung quanh các bào nang còn xuất hiện các dấu hiệu viêm nhiễm của các tế bào cơ. Trong trường hợp nhiễm loài này, các mẫu mô bệnh học không xác định được sự xuất hiện của các bào nang tiên khởi cũng như các phản ứng miễn dịch là sự xuất hiện của các đại thực bào. Không giống như bào tử Kabatana sp., loài vi bào tử trùng này hình thành các bào nang có hình dạng không xác định và không có lớp màng 82 dày bảo vệ bên ngoài. Các bào tử xuất hiện dầy đặc bên trong bào nang nhưng chúng không phân giải các bó cơ mà chỉ gây ra sự biến đổi tương tự ở các bó cơ xung quanh bào nang. Các đặc điểm biến đổi cấu trúc cơ cũng xảy ra tương tự ở các loài rắn biển (Hydrophiinae) khi nhiễm vi bào tử trùng Heterosporis anguillarum. Nghiên cứu của Gillet et al. (2016) trên loài rắn biển cho thấy H. anguillarum nhiễm trên các nhóm cơ trơn dọc hai bên thân, nhiễm trong xương, gây ra hiện tượng gãy xương và thoái hóa các đốt sống. Kết quả phân tích mô bệnh học cho thấy sự thoái hóa và phân hủy của các sợi cơ bị nhiễm bào tử H. anguillarum. Các bào tử hình thành các bào nang trong cơ rắn biển được bảo vệ bởi một lớp màng mỏng chứ không dầy như đối với loài Kabatana sp. gây ra trên cá tra. Các bào tử có dạng hình trứng và kích thước trong khoảng 2,0-2,6x1,0-1,5 μm. Các mẫu mô bệnh học cũng có sự xuất hiện của các đại thực bào và bạch cầu trung tính nằm rải rác trong các bào nang với mật độ bào tử dầy đặc. Trong trường hợp nhiễm bệnh, không có các biểu hiện xuất huyết xung quanh các bào nang, tuy nhiên các bào nang gây trương phồng và thay đổi cấu trúc của da, cơ và xương của các cá thể nhiễm bệnh. Tóm lại: những biến đổi mô học của cá tra nhiễm vi bào tử trùng Microsporidiaở các giai đoạn cá giống và cá nuôi thương phẩm giống nhau. So sánh với các kết quả được công bố trước đây ở khía cạnh mô bệnh học cho thấy mức độ gây hại nghiêm trọng của vi bào tử trùng Microsporidia đối với cấu trúc các mô cơ của cá. Tuy nhiên, qua những kết quả này cũng đã mở ra khả năng điều trị hiệu quả nếu như phát hiện sớm sự lây nhiễm của vi bào tử trùng Microsporidia trong cơ cá ở giai đoạn hình thành bào nang tiên khởi. 4.1.5 Kết quả định danh bào tử trùng Microsporidia nhiễm trong cơ cá tra 4.1.5.1 Xác định đặc điểm hình thái Kết quả quan sát tiêu bản tươi cho thấy các bào tử có cấu tạo bên ngoài dạng hình quả lê hoặc hình trứng, hơi thon nhỏ ở cả 2 đầu. Các bào tử này có kích thước rất nhỏ, nhỏ hơn gần 10 lần so với kích thước của các loài vi bào tử trùng khác (Hình 4.14A). Bên trong có thể quan sát thấy 1 sợi cực dạng xoắn 83 nối liền với 1 cực nang ở phần sau của bào tử. Số vòng xoắn của sợi cực khá nhiều nên rất khó phân biệt được sợi cực khi quan sát ở cùng một thị trường kính hiển vi. Ngoài ra, bên dưới sợi cực có không bào với kích thước nhỏ. Quan sát tiêu bản nhuộm Giemsa ở vật kính 100X nhận thấy phần cực nang của các bào tử bắt màu xanh tím của thuốc nhuộm Giemsa (Hình 4.14B). Hình 4.14: (A) mẫu soi tươi - 40x; (B) mẫu nhuộm Giemsa - 100x Nhìn chung, qua kết quả soi tươi, dựa vào khóa phân loại và mô tả và của Lom và Dykova (1992), Woo (2006) và Barber et al. (2009) có thể xác định vi bào tử trùng ký sinh trong bào nang gạo ở cơ các tra thuộc giống vi bào tử trùng Kabatana. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu ghi nhận sự hiện diện của giống Kabatana trong cơ cá. Kết quả phân tích hình thái vi bào tử trùng của đề tài khá tương đồng với kết quả của nhiều nghiên cứu trước đây ghi nhận trên giống vi bào tử trùng này. Theo Lom et al. (2001), Dykova và Lom (2000), Kabatana sp. nội ký sinh trong các mô cơ vân, cơ trơn của cá, bào tử có kích thước nhỏ nhất (dao động từ 2x3 µm) trong nhóm vi bào tử trùng. Không bào có kích thước khá nhỏ, chiều dài bằng 1/3 chiều dài bào tử. Ngoài ra, số vòng xoắn của sợi cực là 4-7 vòng xoắn. Kabatana sp. tạo những bào nang hình thoi, màu trắng đục, kích thước từ 1,5-6,0 mm bên trong các sợi cơ của cá (Sprague et al., 1992; Lom và Nilsen, 2003). 84 Bảng 4.4: Đặc điểm của bào tử Kabatana sp.gây bệnh gạo trên cá tra Chỉ tiêu Đặc điểm Hình dạng bào tử Hình trứng, quả lê Chiều dài bào tử 3,1±1,5 µm Đường kính bào tử 2,3±1,2 µm Sợi cực của bào tử Cấu tạo liền mạch, xoắn và khó phân biệt rõ Không bào của bào tử Nhỏ, chiếm 1/3 chiều dài bào tử Bào nang Hình thoi hoặc bầu dục Màu sắc bào nang Màu trắng sữa, vàng kem Kích thước bào nang 0,5-10,0 mm Hình 4.15: Cấu trúc của bào tử Kabatana sp. (A) mẫu tươi - 200x và (B) mẫu chụp trên kính hiển vi điện tử SEM Kết quả tổng hợp của các tác giả Sprague (1992), Lom và Nilsen (2003), Lom và Dykova (2005), Weiss và Becnel (2014), cho thấy giống vi bào tử trùng Kabatana là giống nội ký sinh trong cơ của cá có kích thước nhỏ nhất trong tất cả các giống vi bào tử trùng. Cấu tạo bên ngoài của bào tử Kabatana sp. có màng gồm 3 lớp: vách ngoại bào, vách nội bào trong suốt ở giữa và 1 màng plasma trong cùng; cấu tạo bên trong gồm có: cực nang, bên trong có sợi cực xoắn dạng cuộn lò xo, phần đỉnh của bào tử là 1 lớp đĩa neo, nhân tế bào và không bào ở phía sau. Giống vi bào tử trùng này được ghi nhận gây bệnh nguy hiểm trên nhiều loài cá nuôi tại Nhật Bản và các loài cá biển (Woo, 2006; Lom 85 et al., 2001). Bên cạnh đó, theo những kết quả phân tích cho thấy loài vi bào tử trùng này gây bệnh khá phổ biến cho đàn cá hồi ở giai đoạn cá giống từ 10-30 ngày tuổi, với tỷ lệ chết rất cao từ 70-90% đàn cá (Lom và Dykova, 2005). Theo tổng hợp của Weiss và Becnel (2014), các giốn
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_vi_bao_tu_trung_microsporidia_nhiem_trong.pdf
Thongtinluanan-en.doc
Thongtinluanan-vi.doc
Tomtatluanan-en.pdf
Tomtatluanan-vi.pdf