Luận án Nghiên cứu vi khuẩn chuyển hóa Nitơ trong nền đáy vùng nuôi tôm hùm (Panulirus sp.) phục vụ nuôi trồng thủy sản

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu vi khuẩn chuyển hóa Nitơ trong nền đáy vùng nuôi tôm hùm (Panulirus sp.) phục vụ nuôi trồng thủy sản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu vi khuẩn chuyển hóa Nitơ trong nền đáy vùng nuôi tôm hùm (Panulirus sp.) phục vụ nuôi trồng thủy sản
55%. Khảo sát thời gian ảnh hưởng đến sinh khối các chủng vi khuẩn Thí nghiệm khảo sát thời gian nuôi cấy từ 36, 48, 60, 72, 84, 96 giờ cho 3 chủng vi khuẩn trên môi trường bán rắn cho thấy khoảng thời gian nuôi cấy tốt nhất trong khoảng 48 – 84 giờ. Kết quả thể hiện ở phụ lục 2.6.1 – bảng 2.20 Chủng vi khuẩn Bacillus licheniformis B85 phát triển tốt nhất với thời gian là 60 giờ có mật độ 9,2 x109 CFU/gam, theo xử lý thống kê thì mật độ vi khuẩn ở thời gian 60 giờ của chủng vi khuẩn B85 không có sự khác biệt có ý nghĩa với nghiệm thức thời gian 72 giờ (mật độ vi khuẩn là 8,5 x 109 CFU/gam), do đó để có hiệu quả kinh tế, chọn thời gian là 60 giờ để thu nhận mật độ vi khuẩn trong môi trường bán rắn cho vi khuẩn Bacillus licheniformis B85. Chủng vi khuẩn Pseudomonas stutzeri KL15 phát triển tốt nhất với thời gian 72 giờ có mật độ 5,1 x 109 CFU/mL. Xét thống kê, nghiệm thức 72 giờ này có sự 105 khác biệt có ý nghĩa với các nghiệm thức còn lại nên chọn thời gian cho chủng vi khuẩn P. stutzeri KL15 là 72 giờ. Tương tự chủng Rhodococcus rhodochrous T9 phát triển tốt nhất với thời gian 72 giờ có mật độ 4,9 x 109 CFU/mL. Xét thống kê, nghiệm thức 72 giờ này có sự khác biệt có ý nghĩa với các nghiệm thức còn lại nên chọn thời gian cho chủng vi khuẩn Rhodococcus rhodochrous T9 là 72 giờ. Tóm lại, thời gian nuôi cấy cho chủng vi khuẩn Bacillus licheniformis B85 là 60 giờ và chủng vi khuẩn Pseudomonas stutzeri KL15, Rhodococcus rhodochrous T9 là 72 giờ. Hình 3.29. Khảo sát thời gian nuôi cấy Tác giả Trần Hữu Tâm (2014), đã nghiên cứu qui trình pilot sản xuất sinh khối 3 chủng vi khuẩn Bacillus sp. để tạo probiotic cung cấp carotenoid với nguồn cơ chất là đậu nành trong môi trường có agar với thời gian 48h, sau đó đông khô tế bào vi khuẩn để tạo probiotic, thử nghiệm trên chuột. Do ứng dụng chế phẩm vi sinh cho hai mục đích khác nhau, nên thành phần và phương pháp làm khác nhau nên không thể so sánh kết quả. 3.2.2.2. Tạo chế phẩm vi khuẩn dạng bột Ba chủng vi khuẩn được nhân lên từ môi trường bán rắn theo điều kiện đã khảo sát, đem đi sấy ở điều kiện nhiệt độ 40o C – 45o C trong thời gian 2 -3 ngày. Các sản phẩm được sấy khô về độ ẩm 10 - 15%, sau đó nghiền mịn, được đếm lại mật độ vi khuẩn để có thể tiến hành trộn với các chất phụ gia. Mật độ vi khuẩn được đếm lại sau khi sấy khô và nghiền mịn. Sau khi sấy khô thì tế bào vi khuẩn mất nước nên sẽ có một số tế bào vi khuẩn bị chết đi. Nhóm vi khuẩn nào có khả năng tạo bào tử sẽ chuyển thành bào tử và khi có điều kiện dinh dưỡng và độ ẩm, nhiệt độ 106 phù hợp thì nhóm vi khuẩn sẽ phát triển, còn những chủng vi khuẩn không có khả năng tạo bào tử, tế bào sinh dưỡng khi qua giai đoạn sấy, một phần tế bào chết đi và mật độ vi khuẩn giảm. Giai đoạn nghiền cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến mật độ vi khuẩn vì có sử dụng nhiệt độ cao trong một thời gian ngắn. Các chế phẩm vi khuẩn dạng bột được tính toán trộn với nhau theo tỷ lệ phù hợp để đưa ra mật độ vi khuẩn cho hỗn hợp chế phẩm là 1x109 CFU/gam cho từng chủng vi khuẩn. Bảng 3.17. Mật độ vi khuẩn sau khi nghiền và sấy Stt Chủng vi khuẩn Mật độ vi khuẩn (CFU/gam) 1 Bacillus licheniformis B85 5,1 x 109 2 Pseudomonas stutzeri KL15 3,3 x 109 3 Rhodococcus rhodochrous T9 1,8 x 109 Theo tính toán lý thuyết, số lượng vi khuẩn Bacillus licheniformis B85 là 200 gam, Pseudomonas stutzeri KL15 là 300 gam và Rhodococcus rhodochrous T9 là 500 gam, trộn với nhau thành 1 kg sẽ cho mật độ 109 CFU/gam cho mỗi con vi khuẩn. Hỗn hợp chế phẩm vi sinh cũng được pha loãng theo các nồng độ và tiến hành đo OD600mm, từ đường cong tăng trưởng chuyển ra mật độ vi khuẩn là 1,2 x 109 CFU/gam. Hỗn hợp chế phẩm vi sinh tiếp tục được phối với chất phụ gia là dextrose, với tỷ lệ 150 gam hỗn hợp vi sinh với 850 gam dextrose, dùng phương pháp đo OD600nm, kết quả cho tổng mật độ vi khuẩn cho kết quả 1,5 x 108 CFU/gam, đem sử dụng cho nội dung 3. Khảo sát điều kiện bảo quản chế phẩm vi sinh Hình 3.30. Khảo sát điều kiện bảo quản của vi khuẩn B.licheniformis Hình 3.30, cho thấy vi khuẩn B. licheniformis B85, khi bảo quản ở nhiệt độ 4 - 8oC 107 trong 180 ngày, mật độ vi khuẩn giảm nhẹ, ban đầu từ 5,1 x 109 CFU/g xuống còn 7 x108 CFU/g. Sau 360 ngày, mật độ vi khuẩn giảm còn 3,5 x 107 CFU/g. Ở nhiệt độ 28-32o C, mật số vi khuẩn B. licheniformics B85 sau 120 ngày giảm xuống còn 8,3.108 CFU/g, sau 270 ngày mật số vi khuẩn tiếp tục giảm xuống còn 107 CFU/g và sau 360 ngày, mật số vi khuẩn giảm xuống còn 3,5 x 106 CFU/g. Hình 3.31. Khảo sát điều kiện bảo quản của vi khuẩn P. stutzeri KL15 Đối với vi khuẩn P. stutzeri KL15 ở hình 3.31, bảo quản ở mức nhiệt độ 4 - 8o C, 120 ngày thì mật độ vi khuẩn giảm xuống còn 108 CFU/g, sau 360 ngày mật độ vi khuẩn giảm xuống 106 CFU/g. Còn ở mức nhiệt độ 28-32oC, thì sau 90 ngày mật độ vi khuẩn của 2 chủng P. stutzeri KL15 giảm từ 109 CFU/g xuống còn 108 CFU/g và sau 360 ngày bảo quản, mật độ vi khuẩn giảm còn 105 CFU/g Hình 3.32. Khảo sát điều kiện bảo quản của vi khuẩn R.rhodochrous T9 Đối với vi khuẩn R.rhodochrous T9 ở hình 3.32 cho thấy bảo quản ở mức nhiệt độ 4 – 8oC, 120 ngày thì mật độ vi khuẩn giảm xuống còn 108 CFU/gam, sau 360 ngày mật độ vi khuẩn giảm xuống 106 CFU/g. Còn ở mức nhiệt độ 28-32oC, thì sau 90 ngày mật độ vi khuẩn của R.rhodochrous T9 giảm từ 109 CFU/g xuống còn 108 CFU/g và sau 360 ngày bảo quản, mật độ vi khuẩn giảm còn 105 CFU/g. Tóm lại, bảo quản ở điều kiện nhiệt độ từ 4 – 8oC, vi khuẩn được bảo quản tốt 108 hơn, mật độ vi khuẩn có giảm nhẹ sau 120 ngày bảo quản và sau 360 ngày, chủng vi khuẩn B. licheniformis B85 giảm còn 107 CFU/g, còn 2 chủng vi khuẩn còn lại là 106 CFU/g. Đối với bảo quản ở nhiệt độ 28-32oC, mật độ vi khuẩn giảm nhẹ sau 180 ngày và sau 360 ngày, mật số vi khuẩn B. licheniformis B85 giảm còn 106 CFU/g, hai chủng vi khuẩn giảm xuống còn 105 CFU/g. Đặc biệt, chủng vi khuẩn B. licheniformics B85 là nhóm vi khuẩn sinh bào tử nên sau thời gian bảo quản 360 ngày, có mật số vi khuẩn cao hơn so với 2 chủng vi khuẩn còn lại. 3.3. Nội dung 3: Đánh giá chuyển hóa nitơ của các chủng vi khuẩn trong nuôi trồng thủy sản. 3.3.1. Đánh giá sự chuyển hóa N của các chủng vi khuẩn trong nước nuôi tôm thẻ chân trắng (không có tôm) ở qui mô phòng thí nghiệm. 3.3.1.1. Đánh giá sự chuyển hóa N của các chủng vi khuẩn. Theo dõi pH môi trường nước ao nuôi tôm thẻ chân trắng (không có tôm) Nước nuôi tôm thẻ chân trắng được đem về từ Cần Giờ là 400L, chứa vào can 20L, có sụt khí oxy. Tiến hành bổ sung chế phẩm vi sinh theo các tỷ lệ 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5% với mật độ vi sinh vật là 108 CFU/gam. Hình 3.33. Chỉ tiêu pH theo dõi hàng ngày Theo dõi các chỉ tiêu pH, hàm lượng ammonia, nitrite, nitrate và tổng vi khuẩn hiếu khí, mật độ vi khuẩn AOB, NOB trong thời gian 5 ngày ở nhiệt độ phòng. Nhiệt độ nước trong can được đo vào các buổi sáng, do động từ 28 - 30oC và chiều trong khoàng 30 - 32oC. Tất cả các NT có bổ sung vi khuẩn sau 5 ngày đều có xu hướng pH giảm nhưng giảm rất ít, sau 5 ngày vẫn duy trì ở mức pH = 7,3 - 7,8. Nhìn chung, pH ở Hình 3.33 dù có giảm nhưng vẫn duy trì ở mức độ cho phép 109 với môi trường nước nuôi tôm thẻ chân trắng (7,0 – 8,5), pH có xu hướng giảm là hoàn toàn phù hợp với xu hướng giảm hàm lượng ammonia có trong nước ao. Khảo sát chuyển hóa ammonia trong ao nuôi tôm thẻ chân trắng Khi pH giảm, sự chuyển đổi từ NH4+ sang NH3 sẽ giảm, kết hợp với điều kiện sụt khí liên tục hợp thành tổ hợp điều kiện giúp nhóm vi khuẩn hiếu khí oxy hóa NH4+/NH3 thành NO2- dễ dàng hơn và sự phân hủy chất hữu cơ ở đáy ao sẽ diễn ra nhanh chóng khi pH ở ngưỡng 7 – 8 (Boyd, 1998). Hình 3.34. Hàm lượng ammonia theo dõi hàng ngày Ở hình 3.34, nước nuôi tôm thẻ chân trắng ban đầu phân tích có hàm lượng ammonia là 0,204 mg/l. Sau 4 ngày ở 5 can có bổ sung chế phẩm hỗn hợp vi khuẩn xử lý thì nồng độ ammonia giảm xuống ngưỡng < 0,1 mg/l, lượng ammonia giảm theo thứ tự tỷ lệ chế phẩm vi khuẩn bổ sung từ cao đến thấp, ở NTĐC cũng có giảm nhưng chưa đạt ngưỡng nồng độ ammonia ≤ 0,1 mg/l. Sau 5 ngày theo dõi, hàm lượng ammonia ở các NT 1, 2, 3, 4, 5 tiếp tục giảm xuống ≤ 0,06 mg/L, riêng NTĐC có hàm lượng ammonia là 0,12 mg/L. Vậy khi bổ sung mật độ vi khuẩn bổ sung với tỷ lệ 0,3%, 0,4% và 0,5% sau 5 ngày đều cho hiệu suất xử lý ammonia lớn hơn 80 % tương ứng với hàm lượng ammonia là 0,04 mg/L (NT3) và 0,03 mg/L (NT4, NT5). Ở NT5 bổ sung tỷ lệ 0,5% vi khuẩn với mật độ 108 CFU/gam xử lý ammonia tốt nhất, ở ngày thứ 3 đã làm hàm lượng ammonia giảm xuống còn 0,09 mg/L tương ứng hiệu suất xử lý 56%, qua 5 ngày hàm lượng ammonia giảm còn 0,03 mg/L tương ứng với hiệu suất xử lý đạt được 85,31%. Điều này chứng tỏ khi có sự kết hợp nhiều nhóm vi khuẩn chuyển hóa nitơ lại với nhau và bổ sung mật số vi khuẩn cao thì khả năng xử lý ammonia sẽ tốt hơn. Xét về mặt thống kê, NT3 110 (0,3%), NT4 (0,4%), NT5 (0,5%) không có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê (phụ lục 3.1 – bảng 3.2) và 3 nghiệm thức này có sự khác biệt với NT1, NT2 và NTĐC. Tuy nhiên khi mở rộng ứng dụng vấn đề này, về mặt hiệu quả kinh tế, nếu chế phẩm vi sinh được phép bổ sung vào ao nuôi tôm thẻ với tỷ lệ vi sinh 0,5% thì có thể sẽ khá đắt tiền, ảnh hưởng đến khoảng chi phí cho việc sử dụng chế phẩm vi sinh của người nuôi tôm. Từ kết quả và những phân tích trên, quyết định thử nghiệm mật độ vi khuẩn nitrite hóa thích hợp cần bổ sung vào bể ương nuôi tôm thẻ chân trắng giai đoạn post 5 ở qui mô 1m3 để cải thiện hàm lượng ammonia là 108 CFU/g với liều lượng 0,3 %, 0,4% và 0,5%. Khảo sát chuyển hóa nitrite trong ao nuôi tôm thẻ chân trắng Hình 3.35, nhìn chung hàm lượng NO2- ở các NT ban đầu không cao với hàm lượng 0,1086 mg/L và sau 6 ngày theo dõi, lượng nitrite ở các NT có bổ sung vi sinh có tăng nhẹ vào ngày thứ 1 đến ngày thứ 3, sau đó giảm khi chuyển qua ngày thứ tư đến thứ 6. Do trong quá trình hoạt động từ ngày thứ 1 đến ngày thứ 3, các chủng vi khuẩn chuyển hóa ammonia sau 24 giờ và tạo ra sản phẩm là nitrite, làm hàm lượng nitrite tăng lên. Hình 3.35. Hàm lượng nitrite theo dõi hàng ngày Sau thời gian 3 ngày, các chủng vi khuẩn chuyển hóa nitrite thành nitrate, do đó làm hàm lượng nitrite bị giảm xuống. Nghiệm thức có bổ sung vi sinh vật thì nitrite giảm nhanh so với nghiệm thức đối chứng và hàm lượng nitrite ở 5 NT bổ sung vi sinh giảm xuống còn từ 0,0214 – 0,0405 mg/L, điều này chứng tỏ nhóm vi khuẩn nitrite hóa bổ sung đã bắt đầu hoạt động và thích nghi dần với môi trường nước ương nuôi ấu trùng tôm thẻ chân trắng. Riêng nghiệm thức đối chứng, không bổ sung vi sinh vật từ bên ngoài mà chỉ có các chủng vi khuẩn nitrate hóa trong 111 nước nên việc chuyển hóa NO2- chậm và hầu như giảm rất ít. Xét về thống kê ( phụ lục 3.1 – bảng 3.3), sau 6 ngày theo dõi, nghiệm thức NT4 và NT5 có không có sự khác biệt có ý nghĩa, nghiệm thứ NT3 có sự khác biệt có ý nghĩa với nghiệm thức NT5 nhưng lại không có sự khác biệt có ý nghĩa với nghiệm thức NT4. Tóm lại, nghiệm thức bổ sung chế phẩm vi sinh 0,5% (NT5) có hàm lượng nitrite là 0,0214 mg/L tương ứng hiệu suất chuyển hóa nitrite là 80,29% là nghiệm thức giảm nhiều nhất. Hàm lượng nitrite còn 0,0274 mg/L tương ứng hiệu suất chuyển hóa nitrite 74,77% ở nghiệm thức bổ sung chế phẩm vi sinh 0,4% (NT4), hàm lượng nitrite ở nghiệm thức 0,3 % (NT3) là 0,0319 mg/L tương ứng hiệu suất chuyển hóa 70,63% tuy nhiên khi sử dụng chế phẩm ở qui mô lớn hơn có thể xem xét sử dụng ở nghiệm thức 0,3% và 0,4% để có hiệu quả về kinh tế. Theo Boyd (1998) hàm lượng nitrite trong ao nuôi tôm chủ yếu do thức ăn thừa và quá trình bài tiết của tôm nuôi. Nitrite là hợp chất nitơ gây độc cho các động vật thủy sản, trong đó có tôm, khi nồng độ nitrite cao sẽ kết hợp với hemocyanin trong máu tôm làm mất khả năng vận chuyển ôxy trong máu khiến tôm nuôi bị ngạt. Khi đó tôm sẽ yếu, dễ mắc bệnh hoặc chết vì sốc môi trường, cho rằng đối với ao nuôi thủy sản nồng độ nitrite nhỏ hơn 0,3 mg/L. Theo Whetstone và ctv (2002) nồng độ nitrite trong ao nuôi tôm phải nhỏ hơn 0,23 mg/L được xem là an toàn. Khảo sát chuyển hóa nitrate trong ao nuôi tôm thẻ chân trắng Trên biểu đồ Hình 3.36 hàm lượng nitrate ở các NT ban đầu thấp chỉ có 0,2156 mg/L và sau 6 ngày theo dõi, lượng nitrate có tăng nhẹ từ ngày thứ 1 đến ngày thứ 3 và giảm từ ngày thứ tư đến ngày thứ sáu. Hình 3.36. Hàm lượng nitrate theo dõi hàng ngày 112 Riêng nghiệm thức đối chứng, hàm lượng nitrate hầu như giảm nhẹ từ ngày thứ 1 đến ngày thứ 6, vì do mật độ vi sinh vật nitrate hóa và khử nitrate trong nước nuôi tôm thẻ chân trắng thấp, lại không được bổ sung vi sinh vật bên ngoài vào nên hàm lượng NO3- không được khử để chuyển thành N phân tử. Các nghiệm thức có bổ sung vi sinh thì quá trình chuyển hóa từ NH3 → NO2- → NO3- → N2 giúp cho sự thay đổi trong môi trường nước tốt hơn, hàm lượng nitrate giảm từ ngày thứ tư đến ngày thứ 6 thì chứng tỏ nhóm vi khuẩn đã bắt đầu hoạt động và thích nghi dần với môi trường. Tóm lại, sau 6 ngày, nghiệm thức 0,5% (NT5) chuyển hóa nitrate với hiệu suất là 76,11% (tương ứng hàm lượng nitrate còn là 0,0515 mg/L), nghiệm thức 0,4% (NT4) chuyển hóa nitrate với hiệu suất là 70,92% tương ứng hàm lượng nitrate còn 0,0627 mg/L, NT3 là 64,08% tương ứng hàm lượng nitrate 0,0774 mg/L. Cho thấy, nghiệm thức NT5 có hàm lượng nitrate giảm nhiều nhất so với các nghiệm thức còn lại. Nhưng xét về mặt thống kê (phụ lục 3.1 – bảng 3.4), nghiệm thức NT3 và NT4 không có khác biệt có ý nghĩa và nghiệm thức NT4 và NT5 không có sự khác biệt có ý nghĩa, tuy nhiên nghiệm thức NT3 và NT5 lại có sự khác biệt có ý nghĩa. Do đó, cần thử nghiệm cả 3 NT3, NT4, NT5 ở qui mô lớn hơn nhằm lựa chọn tỷ lệ vi sinh thích hợp cho hiệu quả kinh tế. Theo Zweig và ctv (1999) nitrate là sản phẩm cuối cùng của quá trình nitrate hóa và nồng độ thường cao hơn cả ammonia và nitrit nhưng ít độc hơn. Nồng độ nitrate cao có thể ảnh hưởng đến quá trình thẩm thấu và vận chuyển ôxy, nhưng nồng độ độc hại cao hơn nhiều so với ammonia và nitrite (Lawson, 1995). Nồng độ nitrate cao cũng có thể dẫn đến hiện tượng phú dưỡng, phát triển quá mức của tảo và thực vật thủy sinh, có thể có tác động tiêu cực đến các loài thủy sản nuôi (Zweig và ctv., 1999). Zhang (2020), đã khảo sát được tỷ lệ C/N là 10 với nguồn cacbon là glucose, pH 7, nhiệt độ 30oC, bốn chủng vi sinh vật Pseudomonas sp., Sphingobacterium sp., Bacillus sp., Acinetobacter sp. theo tỷ lệ 1:1:1:1 thì chuyển hóa ammonia trong nước thải trang trại chăn nuôi lợn đã chuyển hóa được khoảng 20,56% ammonia. Tóm lại, các chủng vi khuẩn khi phối hợp theo các tỷ lệ đã cho khả năng chuyển hóa ammonia, nitrite, nitrate trên 80% khi bổ sung vào môi trường nước ao tôm thẻ chân trắng (không có tôm), làm tiền đề 113 cho việc ứng dụng chế phẩm vi sinh vào ương giống tôm thẻ chân trắng. 3.3.1.2. Đánh giá mật độ vi sinh vật khi bổ sung chế phẩm vi sinh. • Tổng vi khuẩn hiếu khí Mật độ vi khuẩn hiếu khí trong nước nuôi tôm thẻ chân trắng ban đầu khi lấy về phòng thí nghiệm là 2,7 x 106 CFU/mL, sau khi bổ sung hỗn hợp vi sinh theo các tỷ lệ 0,1; 0,2; 0,3; 0,4; 0,5 % với mật độ vi khuẩn là 108 CFU/g vào các can 20L chứa nước nuôi tôm thẻ chân trắng cho thấy tổng vi sinh vật hiếu khí có mật độ từ 4,5 x 1010 CFU/mL đến 6,2 x1011 CFU/mL. Đến ngày thứ 2 vi sinh bắt đầu hoạt động sử dụng ammonia như nguồn thức ăn và chuyển hóa thành nitrite, nitrate tuy nhiên hàm lượng vi sinh vật giảm nhanh trong thời gian 2 – 5 ngày sau khi cho vào môi trường nước. Đến ngày thứ năm, NTĐC có tổng vi khuẩn hiếu khí còn 1,2 x 103 CFU/mL và nghiệm thức NT1, NT2, NT3 là 1,6 – 8,1 x 106 CFU/mL, NT4, NT5 là 1,2 -1,5 x 107 CFU/mL. Hình 3.37. Mật độ tổng vi khuẩn hiếu khí Theo Anderson (1993) trong nước sạch thì tổng vi khuẩn nhỏ hơn 103 CFU/mL nếu mật độ tổng vi khuẩn vượt 107 CFU/mL sẽ có hại cho tôm cá nuôi và môi trường trở nên bẩn. Tuy nhiên theo thí nghiệm này thì môi trường nước không có hoạt động của tôm, chỉ kiểm soát mật độ vi khuẩn theo từng ngày để đánh giá sự hiện diện của chúng và cũng không so sánh giữa các nghiệm thức. Môi trường nước nuôi tôm này không có sự hoạt động của tôm nên sau khi hàm lượng ammonia giảm, nitrite giảm thì vi sinh vật không còn nguồn thức ăn nên mật độ cũng sẽ giảm dần theo thời gian. 114 Vi khuẩn chuyển hóa ammonia (AOB) Hình 3.38, mật độ vi khuẩn chuyển hóa ammonia trong nước ban đầu khi lấy về phòng thí nghiệm là 4,7 x 102 CFU/mL, sau khi bổ sung hỗn hợp vi sinh theo các tỷ lệ 0,1; 0,2; 0,3; 0,4; 0,5 % với mật độ vi khuẩn là 108 CFU/g vào các can 20L chứa nước nuôi tôm cho thấy vi khuẩn AOB tăng mật độ lên 107 CFU/mL (NT1 và NT2) và 2,8 – 7,2 x 108 CFU/mL (3 nghiệm thức NT3, NT4, NT5). Đến ngày thứ 2 vi sinh bắt đầu hoạt động sử dụng ammonia như nguồn thức ăn và chuyển hóa thành nitrite, nitrate. Tuy nhiên hàm lượng vi sinh vật giảm nhanh trong thời gian 4 - 5 ngày sau khi cho vào môi trường nước nuôi tôm. Đến ngày thứ 4 thì ở NTĐC nhóm vi khuẩn AOB không còn phát hiện và nghiệm thức NT1, NT2, NT3 là 1,5 – 8,1 x 105 CFU/mL, NT4, NT5 là 2,2 – 5,2 x 106 CFU/mL. Đến ngày thứ 5 mật độ tiếp tục giảm nhiều, nghiệm thức NT1 là 4,1 x 103 CFU/mL, NT2, NT3 là 1,6 – 2,1 x 104 CFU/mL và NT4, NT5 là 1,2 – 6,2 x 105 CFU/mL. Hình 3.38. Mật độ vi khuẩn chuyển hóa ammonia Hàm lượng vi sinh vật chuyển hóa ammonia giảm nhanh theo từng ngày, ngày đầu tiên vi khuẩn AOB được bổ sung vào môi trường nước, vi sinh vật sử dụng ammonia làm thức ăn để sinh trưởng và phát triển, chuyển hóa NH4+ thành NO2- và đây là môi trường nước không nuôi tôm nên thức ăn không được cung cấp vào, do đó một phần các vi sinh vật cạnh tranh dinh dưỡng lẫn nhau, làm ảnh hưởng đến mật độ vi khuẩn và một phần nhóm vi khuẩn không sinh bào tử chết đi cũng làm ảnh hưởng đến mật độ vi khuẩn. • Vi khuẩn chuyển hóa nitrite (NOB) Vi khuẩn chuyển hóa nitrite trong nước ban đầu khi lấy về phòng thí nghiệm 115 có mật độ từ 1,2 x 102 CFU/mL, sau khi bổ sung hỗn hợp vi sinh theo các tỷ lệ 0,1; 0,2; 0,3; 0,4; 0,5 % với mật độ vi khuẩn là 108 CFU/g vào các can 20L chứa nước nuôi tôm cho thấy vi khuẩn NOB tăng mật độ lên 2,5 - 4,1 x 107 CFU/mL cho 3 nghiệm thức NT1, NT2, NT3 và mật độ 5,6 – 8,3.108 CFU/g ở NT4, NT5. Đến ngày thứ 2 vi sinh bắt đầu hoạt động sử dụng nitrite để chuyển hóa thành nitrate thì mật độ có giảm nhẹ ở NT4, NT5 còn 5,5 – 8,5 x 107 CFU/mL và nghiệm thức NT1, NT2, NT3 giảm xuống còn 3,7 – 6,7 x 107 CFU/mL. Tuy nhiên hàm lượng vi sinh vật giảm nhanh trong thời gian 3, 4, 5 ngày sau khi cho vào môi trường nước nuôi tôm. Đến ngày thứ 3 thì ở NTĐC nhóm vi khuẩn NOB không còn phát hiện và các nghiệm thức giảm mật độ rất nhanh. Đến ngày thứ 5 mật độ giảm khá thấp, mật độ vi sinh NOB ở nghiệm thức NT1, NT2 còn 1,6 -1,7 x 102 CFU/mL, NT3 là 2,1 x 103 CFU/mL, NT4, NT5 là 1,2 – 2,2 x 104 CFU/mL. Hình 3.39. Mật độ vi khuẩn chuyển hóa nitrite Tương tự như nhóm vi khuẩn AOB, mật độ vi khuẩn giảm khá nhanh do hàm lượng nitrite bị chuyển hóa hết và vi khuẩn ko còn thức ăn sử dụng tồn tại và phát triển. Trong nhóm vi khuẩn bổ sung chỉ có vi khuẩn Bacillus licheniformis B85 là sinh bào tử, còn hai chủng vi khuẩn còn lại không sinh bào tử nên vi khuẩn bị chết đi 1 phần. Tóm lại, khi bổ sung chế phẩm hỗn hợp vi khuẩn vào trong nước nuôi tôm thẻ chân trắng (không có tôm) có chứa ammonia và nitrite thì chế phẩm sẽ hoạt động làm giảm hàm lượng ammonia, nitrite và nitrate trong nước. Mật độ nhóm vi khuẩn AOB, NOB trong môi trường nước ao thực địa mọc được trên môi trường Winogradki khoảng 102 CFU/mL và được bổ sung chế phẩm vi sinh vào là 108 CFU/mL, phân tích mật độ sau bổ sung thì mật độ vi khuẩn AOB, NOB tăng từ 108 116 – 109 CFU/mL. Hàm lượng vi sinh ngày đầu tiên cao do mới bổ su
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_vi_khuan_chuyen_hoa_nito_trong_nen_day_vu.pdf
1. TB CAP TRUONG NCS HOANG.pdf
2. QD CAP TRUONG NCS HOANG.pdf
4. TOM TAT LATS NCS HOANG.pdf
5. DONG GOP MOI NCS HOANG.pdf
6. TRICH YEU LUAN AN NCS HOANG.pdf

