Luận án Nghiên cứu xác định đáy chạy tàu hợp lý trong trường hợp có bùn loãng tại một số luồng hàng hải ở Việt Nam
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu xác định đáy chạy tàu hợp lý trong trường hợp có bùn loãng tại một số luồng hàng hải ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu xác định đáy chạy tàu hợp lý trong trường hợp có bùn loãng tại một số luồng hàng hải ở Việt Nam
ác động của các yếu tố động lực cửa sông ven biển: Mô tả đặc tính chung của chuyển động bùn, chuyển động của bùn loãng dưới tác động của sóng ven bờ, phương trình vận chuyển bùn được Teisson xây dựng năm 1991 (được phát triển và sử dụng trong chương trình Mike MT) và phát triển là phương trình khá tổng quát bao hàm được nhiều quá trình; đây là một trong những cơ sở lý thuyết trọng tâm trong của luận án. - Lý thuyết phân tích Fourier; - Lý thuyết mô hình hồi quy đa biến. 2. Cơ sở dữ liệu phục vụ nghiên cứu mô hình bao gồm các số liệu thu thập và khảo sát về địa hình, số liệu thủy hải văn, số liệu bùn cát, tại một số tuyến luồng tiêu biểu, ảnh viễn thám Landasat 8. 3. Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận án bao gồm: - Phương pháp phân tích số liệu thực đo; - Phương pháp phân tích phổ Fourier xác định chiều dày sa bồi trung bình tháng; - Phương pháp phân tích mô hình hồi quy đa biến xây dựng tương quan giữa chiều dày lớp bùn loãng và một số yếu tố thủy hải văn, bùn cát. 65 CHƢƠNG 3: ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG CHẠY TÀU TRÊN BÙN LOÃNG, PHÂN TÍCH FOURIER VÀ MÔ HÌNH HỒI QUY ĐA BIẾN XÁC ĐỊNH QUY LUẬT SA BỒI VÀ CHIỀU DÀY LỚP BÙN LOÃNG 3.1. Kết quả nghiên cứu về điều kiện sử dụng công nghệ chạy tàu trên bùn loãng tại các luồng tàu biển ở Việt Nam Căn cứ đặc điểm tự nhiên và đặc điểm khai thác các luồng tàu biển Việt Nam, việc áp dụng công nghệ chạy tàu trên bùn loãng tại Việt Nam là khả thi và có khả năng mang lại hiệu quả về khai thác, thể hiện ở điều kiện tự nhiên và điều kiện liên quan đến đặc điểm khai thác cụ thể như sau: 3.1.1. Điều kiện khai thác, vận tải Hiện nay, cả nước ta có 46 tuyến luồng hàng hải công cộng, 33 luồng hàng hải chuyên dùng vào các cảng biển. Hầu hết các luồng đều chạy theo luồng lạch tự nhiên, một số tuyến luồng quan trọng có mật độ tàu thuyền lớn chỉ được nạo vét duy tu hạn chế tùy thuộc nguồn ngân sách bố trí hàng năm. Với điều kiện hạn chế về kinh phí nâng cấp duy tu luồng tàu, trong khi đó xu hướng chung của đội tàu vận tải trên thế giới ngày càng tăng lên về kích thước, một số tuyến luồng tàu biển chính đang được khai thác với cỡ tàu lớn hơn so với thiết kế ban đầu như ở một số tuyến luồng khu vực Sài Gòn - Vũng Tàu, Hải Phòng, Định An - Cần Thơ... Bảng 3.1. Thông số kỹ thuật và nhu cầu khai thác cho các cỡ tàu lớn hơn thiết kế tại một số luồng hàng hải chính [1, 8] Tuyến luồng hàng hải Thông số thiết kê luồng Cỡ tàu thực tế có nhu cầu tiếp nhận (giảm tải) Dài (km) Rộng (m) Sâu (m) Cỡ tàu thiết kế 1. Luồng Hòn Gai - Cái Lân 32,1 130 -10,0 40.000 85.000 2. Luồng Hải phòng 81,6 - Đoạn Lạch Huyện 21,7 160 - 14,0 100.000 160.000 - Đoạn Kênh Hà Nam, Bạch Đằng 5,9 80 -7,0 15.000 40.000 - Đoạn sông Cấm 9,8 80 -5,5 10.000 20.000 66 Tuyến luồng hàng hải Thông số thiết kê luồng Cỡ tàu thực tế có nhu cầu tiếp nhận (giảm tải) Dài (km) Rộng (m) Sâu (m) Cỡ tàu thiết kế 3. Luồng Diêm Điền 10,3 45 -1,5 1.000 3.000 4. Luồng Nghi Sơn 4,7 120 -11,0 50.000 100.000 6. Luồng Cửa Lò 4,5 100 -7,2 10.000 30.000 7. Luồng Vũng Áng 3,2 150 -12,0 50.000 65.000 8. Luồng Hòn La 3,2 100 -8,2 10.000 30.000 9. Luồng Chân Mây 3,1 150 -12,2 30.000 50.000 10. Luồng Dung Quất 5,5 150 -12,0 50.000 100.000 11. Luồng Quy Nhơn 8,2 110 -11,0 30.000 100.000 12. Luồng Vũng Tàu - Thị Vải - Đoạn 1: P0 - Bến cảng XD Petec Cái Mép 30,6 310 -14,0 80.000 200.000 - Đoạn 2: Bến cảng XD Petec Cái Mép - Bến cảng TH Thị Vải (ODA) 7,5 260 -12,0 75.000 160.000 - Đoạn 3: Bến cảng TH Thị Vải (ODA) - Bến cảng QT Sài Gòn Việt Nam (SITV) 2,8 220 -12,0 75.000 100.000 - Đoạn 4: Bến cảng QT Sài Gòn Việt Nam (SITV) - Bến cảng Vedan Phước Thái 9,6 90 -7,2 10.000 30.000 13. Luồng Sài Gòn - Vũng Tàu 82,6 150 -8,5 20.000 60.000 14. Luồng Soài Rạp - Đoạn 1: Soài Rạp (ngoài biển) 57,6 120 -9,5 50.000 70.000 - Từ Bến cảng Tân cảng Hiệp Phước đến ngã ba Bình Khánh 7,1 150 -8,5 30.000 50.000 15. Luồng Đồng Nai 35,7 150 -8,5 20.000 50.000 16. Luồng Định An - Cần Thơ 182,3 100 -4,0 5.000 10.000 17. Luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu - Đoạn 1: Đoạn luồng biển 7,7 150 -6,5 đến -9,5 10.000 30.000 67 Tuyến luồng hàng hải Thông số thiết kê luồng Cỡ tàu thực tế có nhu cầu tiếp nhận (giảm tải) Dài (km) Rộng (m) Sâu (m) Cỡ tàu thiết kế - Đoạn 2: Đoạn kênh Tắt, QCB, Sông Hậu 8,7 85 - 95 -6,5 10.000 20.000 Có thể thấy rõ với hiện trạng các tuyến luồng tàu lớn hiện nay việc tăng thêm độ sâu luồng có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả khai thác. Ví dụ, hiện nay luồng hàng hải Hải Phòng có chuẩn tắc thiết kế với độ sâu -7,0 m đến -7,2 m (Hải đồ), tuy nhiên do hiện tượng sa bồi lớn quay trở lại ngay sau khi nạo vét đặc biệt là vào mùa lũ, độ sâu luồng thường xuyên chỉ đạt khoảng -6,5 m. Luồng hàng hải không được duy trì thường xuyên đúng chuẩn tắc sẽ gây thiệt hại cho nhiều doanh nghiệp cảng biển, hãng tàu, doanh nghiệp logistics,... ảnh hưởng lớn tới việc lưu thông hàng hóa và lợi thế cạnh tranh kinh tế của các cảng biển Việt Nam. Theo tính toán, cứ sa bồi 10 cm, sẽ làm giảm lượng vận chuyển 300 tấn hàng hóa trên tàu. Tàu mười nghìn tấn chỉ có thể chở khoảng tám nghìn tấn, mất đi khoảng 20% công suất. Tàu trọng tải lớn hơn không thể vào luồng, các hãng tàu phải tính biện pháp cắt hàng hoặc chuyển tải. Tàu lớn phải chờ đến khi triều cường mới vào được cảng. Thời gian di chuyển trên luồng mất khoảng 3 giờ, chỉ chậm một chút có thể phải đợi cả ngày. Việc này ảnh hưởng dây chuyền đến các tàu, gây xáo trộn lịch trình và tiến độ giao hàng. Ðó là chưa kể nếu tàu đi thuê, mỗi giờ tàu “chết”, doanh nghiệp phải mất chi phí hàng chục nghìn USD. Với hiện trạng như trên, có thể thấy việc chạy tàu trên bùn loãng để tăng cỡ tàu hoặc lượng hàng chuyên chở sẽ có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao hiệu quả khai thác luồng tàu đặc biệt là trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. 3.1.2. Điều kiện tự nhiên Từ kết quả nghiên cứu ở Chương 1 và Chương 2, nguyên nhân hình thành bùn loãng có thể tận dụng để chạy tàu gồm các nguyên nhân liên quan đến chế độ thủy hải văn và đặc tính thủy động lực của nước, sự tương tác giữa sóng, triều và các quá trình xói lở, bồi lắng. Quá trình hình thành bùn bao gồm các giai đoạn: giai đoạn 68 hình thành, giai đoạn cố kết, giai đoạn xói mòn và rửa trôi. Lớp bùn được chia thành các trạng thái: - Phù sa lơ lửng: Hỗn hợp loãng, tuân theo quy luật dòng chảy của Newton; hoàn toàn bất ổn định; dung trọng khô điển hình dưới 1g/l. Giá trị độ đục của nước có quan hệ trực tiếp với lớp phù sa lơ lửng này. - Bùn loãng kết dính: Hỗn hợp loãng tuân theo quy luật dòng chảy của Newton; phân tầng đáng kể, nhưng hỗn hợp bùn vẫn bất ổn định do dòng xoáy; dung trọng khô điển hình dưới 10g/l. - Bùn loãng: Hỗn hợp không tuân theo quy luật dòng chảy của Newton, thường có độ nhớt cao; khoảng cách giữa các hạt bùn được lấp đầy; chuyển động thành dòng theo lớp mỏng. - Bùn đáy đặc (sệt): được hình thành từ quá trình lắng đọng của huyền phù lơ lửng hoặc từ quá trình cố kết của bùn loãng. Sự hình thành và tồn tại của một số hoặc đồng thời các trạng thái trên ở một đoạn/tuyến luồng có liên quan chặt chẽ đến các nhóm yếu tố: (1) Đặc tính cơ lý trầm tích đáy Các hạt lơ lửng có thể lắng đọng vào lớp trầm tích mềm và cuối cùng trở thành một phần của lớp bùn đáy. Do các áp lực của dòng chảy hoặc sóng, các lớp bùn bề mặt có thể bị xói mòn, rửa trôi và các hạt bùn lại bắt đầu một quá trình mới. Do vậy, việc hình thành bùn loãng chịu tác động lớn của sự ổn định trầm tích đáy. (2) Độ đục của nước: Độ đục của nước biến động theo mùa và chịu ảnh hưởng của dòng ven đối với luồng biển. (3) Một số yếu tố khác ảnh hưởng đến quá trình bồi xói lắng đọng và khả năng hình thành lớp bùn loãng: - Đặc điểm khí tượng, thủy hải văn (dòng chảy, biên độ triều, đặc điểm mùa lũ, gió mùa): Quá trình lắng đọng bùn xuống đáy sẽ tăng lên khi lực dòng chảy đủ yếu, ví dụ như vào chu kỳ thuỷ triều xuống hoặc tại khu vực mở rộng. Ngoài ra, quá trình lắng đọng còn phụ thuộc vào đặc điểm lòng dẫn, chế độ thủy hải văn, đặc điểm tự nhiên, bão lũ, gió mùa. 69 - Hoạt động của tàu thuyền: tàu thuyền qua lại khu vực có lớp trầm tích phù hợp, dưới tác động của lực chân vịt sẽ khuấy động lớp bùn cát đáy, phá vỡ liên kết giữa các hạt trầm tích, các hạt bùn có khối lượng và kích thước phù hợp sẽ đi lên lớp nước bên trên tạo thành hỗn hợp bùn loãng. [7] - Hoạt động nạo vét: dẫn đến khuấy động lớp đáy và ảnh hưởng lan tỏa bùn cát trong hoạt động nạo vét và đổ thải. - Các yếu tố khác như ảnh hưởng của giao thoa xâm nhập mặn, yếu tố hóa sinh Theo kinh nghiệm của các nước và qua theo dõi các luồng hàng hải tại Việt Nam, điều kiện tự nhiên để luồng tàu có khả năng xuất hiện bùn loãng gồm: - Luồng tàu nằm trong vùng biển đáy bùn, bùn cát mịn; - Yếu tố động lực chủ yếu là triều mạnh, dòng chảy sông lớn mang phù sa bùn cát mịn; - Có hoạt động mật độ giao thông thủy cao. Các luồng tàu biển ở Việt Nam phân bố dọc theo chiều dài đất nước. Các đặc điểm thủy hải văn, bùn cát các luồng có đặc trưng khác nhau tuy nhiên vẫn mang đặc điểm chung của các vùng, phụ vùng và kiểu bờ biển [5]. Do đặc điểm bùn cát và cấu tạo bờ biển khác nhau, hình thái phẫu diện của chúng cũng không giống nhau. Từ góc độ đường kính bùn cát tạo thành bờ biển, có thể chia bờ biển thành 3 loại sau: - Bờ biển bùn: Bờ biển được tạo thành từ các loại hạt có đường kính d<0,05 mm, có tính kết dính cao. Độ dốc bờ biển thoải, thường là 1:500 – 1:2000. Bùn cát chủ yếu là chất lơ lửng, thường phân bố ở vùng phụ cận các cửa sông lớn có lượng bùn cát mịn. - Bờ biển cát: Bờ biển được tạo thành bởi các loại hạt có đường kính 0,05<d<2,0mm độ dốc bãi biển lớn (1:5 - 1:500). Bùn cát có chất lơ lửng và chất đáy, trong điều kiện động lực bờ thông thường, khi đường kính hạt thô thì chuyển động di đẩy hoặc nhẩy cóc, khi bùn cát hạt mịn thì chủ yếu là chuyển động lơ lửng. Loại bờ biển này thường tồn tại ở vùng không có cửa sông hoặc vùng phụ cận cửa sông vừa và nhỏ mang bùn cát thô. 70 - Bờ biển cuội sỏi: Bờ biển được tạo thành bởi các loại hạt đường kính >2,0 mm. Trong điều kiện động lực ven bờ thông thường, chuyển động bùn cát ít, chỉ có khi có sóng to gió lớn mới có chuyển động bùn cát đáy. Nguồn gốc bùn cát thường là sản phẩm của sự phong hóa nham thạch tại chỗ. Theo đặc điểm diễn biến bờ biển, có thể chia bờ biển thành các kiểu: bờ biển bồi tích, bờ biển xâm thực và bờ biển cân bằng chuẩn. Trong điều kiện tự nhiên bờ biển tuyệt đối cân bằng là không thể có. Bờ biển được coi là cân bằng, khi trong một chu kỳ động lực thủy văn (thường lấy năm thủy văn biểu thị chu kỳ động lực) thông qua quá trình bồi tích, xâm thực, bờ biển cơ bản được hồi phục diện mạo ban đầu. Sự lên cao hoặc xuống thấp của mặt phẳng biển trong địa lý học cũng làm thay đổi một số tính chất của chuyển động bùn cát ven bờ, từ đó ảnh hưởng đến quy luật diễn biến của bờ biển nhưng sự biến đổi đó diễn ra trong một quá trình rất dài. Từ góc độ này, bờ biển Việt Nam chia ra hai loại: bờ biển kiểu đồng bằng và bờ biển của các vùng đá gốc: - Bờ biển kiểu đồng bằng: Bờ biển ở các vùng đồng bằng cửa sông, các châu thổ có bề mặt nghiêng nhẹ về phía biển và kết thúc bằng bờ biển bằng phẳng và thấp. Sóng, thủy triều và các dòng phù sa ven bờ hàng ngày vẫn làm chúng thay đổi nhưng theo thời gian dài tính bằng một vài chục năm. Trên suốt chiều dài bờ biển Việt Nam có hai đoạn thuộc loại đồng bằng: Đoạn thứ nhất từ nam Quảng Yên đến mũi Chân Mây, đoạn thứ hai từ nam Vũng Tàu đến Mũi Cà Mau và ngược lên đến bờ biển Kiên Giang thuộc vịnh Thái Lan. Trong hai đoạn này có những đường bờ bị chia cắt mạnh mẽ bởi các cửa sông hình phễu và các lạch triều với nhiều đảo phù sa mà độ cao không chênh bao nhiêu so với mực nước biển. Điển hình kiểu bờ biển này là châu thổ thủy triều của hệ thống sông Thái Bình ở miền Bắc và hệ thống sông Đồng Nai, Vàm Cỏ ở phía Nam; kiểu đường bờ bằng và liên tục của các châu thổ và đồng bằng rìa phía nam các cửa sông, thông thường lầy lội, có bộ phận bị mài mòn và bồi tụ xen kẽ là trường hợp của châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long. Các bờ biển bằng phẳng từ Thanh Hóa trở vào đến Hải Vân giới hạn ở các cửa sông, các đoạn trung gian giữa hai cửa sông là đồng bằng thuộc nhiều nguồn gốc: 71 khu vực cồn cát phong thành (Quảng Bình), mũi tên cát chắn những đầm phá bên trong (Thừa Thiên Huế), bãi lầy sú vẹt (đoạn từ mũi Cà Mau lên đến Rạch Giá). - Bờ biển của các vùng đá gốc: có hai đoạn bờ biển thuộc loại này: (1) đoạn từ Móng Cái đến Yên Lập ở Bắc Bộ: bờ biển lởm chởm những mũi đá do có nhiều sông suối ngắn từ nội địa chảy ra cắt qua các dãy thềm biển (hoặc sông biển); mặt bằng ven biển rất ít dạng bậc thềm mài mòn; và (2) đoạn từ Đà Nẵng xuống đến mũi Dinh Vũng Tàu: bờ biển khúc khủy có nhiều mũi, vũng vịnh và bán đảo, một số vụng vịnh lớn, nước sâu, ăn sâu vào đất liền do được che chắn bởi các bán đảo (vịnh Xuân Đài, Văn Phong, Cam Ranh...). Các đồng bằng khu vực này thường nhỏ hẹp lại bị các cồn cát từ biển vào xâm lấn. Trên cơ sở các phân tích trên, tiến hành phân tích các điều kiện tự nhiên đối với các luồng hàng hải cụ thể tại Việt Nam để đánh giá ban đầu về khả năng xuất hiện bùn loãng tổng hợp tại Bảng 3.2 dưới đây [5, 8, 9]. 72 Bảng 3.2. Phân vùng địa mạo động lực học hình thái ven biển Việt Nam và điều kiện xuất hiện bùn loãng Vùng bờ biển Phụ vùng Đặc điểm địa mạo, hình thái Yếu tố động lực Hàm lƣợng bùn cát Các luồng hàng hải Khả năng có bùn loãng Triều Sông Sóng I. Từ Móng Cái đến Đồ Sơn 1. Từ Móng Cái đến Cửa Ông Bờ biển kiểu Danmat, với các đảo ven biển phân bố kéo dài song song với đường bờ. Phía trong lục địa đường bờ bị phân cách mạnh bởi mạng lưới sông, suối. Chuỗi đảo song song với bờ biển ở phía ngoài đã tạo thành các vũng, vịnh kín gió. Bờ biển thuộc vùng đá gốc, bờ biển cát, cuội sỏi. Nhật triều đều với độ lớn triều khoảng 3 - 4 m. Các sông suối ngắn, yếu tố sông tác động nhỏ Các vũng vịnh được che chắn tốt, yếu tố sóng, hải văn đóng vai trò chủ yếu. Cát, cuội sỏi, đường kính > 0,05 mm. Luồng Cái Lân, Cửa Lục có những đoạn cục bộ có bùn cát do phù sa, bùn cát các sông đưa về theo mùa. Vạn Gia Thấp 2. Từ Cửa Ông đến Hòn Gai - Bãi Cháy Đoạn bờ phát triển trên nền đá vôi tuổi Cacbon – Pecmi kéo dài từ Cửa Ông đến Hòn Gai – Bãi Cháy. Đây là vùng bờ vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, bao gồm hàng nghìn đảo đá vôi lớn nhỏ. Bờ biển cát, cuội sỏi, thuộc vùng đá gốc. Nhật triều đều với độ lớn triều khoảng 3 - 4 m. Các sông Cửa Lục - Đoạn Cửa Lục được che chắn, sóng tác động yếu so với dòng chảy, lũ. - Đoạn Hòn Gai, yếu tố sóng tác động lớn hơn. - Cát, cuội sỏi, đường kính > 0,05 mm. - Luồng Cái Lân, Cửa Lục có những đoạn cục bộ có bùn sét do phù sa, bùn cát từ các nhánh sông. Hàm lượng sa bồi: bùn sét, cát mịn ~ 90 %. Hòn Gai – Cái Lân - Thấp - Luồng Cái Lân có khả năng xuất hiện cục bộ và theo mùa. 3. Hải Phòng Vùng nằm trong đới đứt gãy trượt bằng trũng Hải Phòng. Bờ biển ở đây biểu hiện vùng cửa sông đặc trưng hình phễu (Estuary). Bờ biển bùn, kiểu đồng bằng châu Nhật triều đều với độ lớn triều khoảng 3-4 m. Hệ thống sông , châu thổ sông Hồng Cửa sông hình phễu có lạch triều, chịu ảnh hưởng hỗn - Đường kính hạt d< 0,05 mm. - Luồng Hải Phòng, Cái Tráp, sông Chanh: hàm Hải Phòng, Phà Rừng, Cái Tráp, Sông Chanh Khả năng xuất hiện bùn loãng cao 73 Vùng bờ biển Phụ vùng Đặc điểm địa mạo, hình thái Yếu tố động lực Hàm lƣợng bùn cát Các luồng hàng hải Khả năng có bùn loãng Triều Sông Sóng thổ sông Hồng có các bộ phận bị mài mòn và bồi tụ xen kẽ, cửa sông hình phễu có lạch triều, chịu ảnh hưởng của các yếu tố triều sóng và sông hợp của các yếu tố triều sóng và dòng chảy sông và lũ. - Đoạn Lạch Huyện ảnh hưởng lớn sóng hướng Đông Nam tuy nhiên đã xây dựng hệ thống đê chắn sóng chắn cát để chỉnh trị lượng bùn sét mịn phổ biến >90% II. Từ Đồ Sơn đến Nga Sơn Nằm trên cấu trúc sụt lún tân kiến tạo của trũng chồng đồng bằng sông Hồng, sông Thái Bình. Bờ cấu tạo đất đá chủ yếu là đá trầm tích Đệ tứ, thành phần đất đá bao gồm cát, bùn sét và bột sét. Bờ biển bùn, địa hình cửa sông kiểu delta, các bãi bồi cửa sông phát triển mạnh và lồi ra phía biển, quá trình bồi tụ chiếm ưu thế. Nhật triều không đều Cửa Cấm, cửa Văn Úc, cửa Thái Bình, cửa Trà Lý, cửa Ba Lạt. Động lực sông biển hỗn hợp. Động lực sông biển hỗn hợp, đoạn cửa yếu tố sóng đóng vai trò quan trọng. - Đường kính hạt d< 0,05 mm. Diêm Điền, Hải Thịnh Có khả năng xuất hiện bùn loãng III. Từ Nga Sơn đến Đèo Đặc trưng của vùng bờ biển này là phát triển trên nền cấu trúc tân kiến tạo lập tại Việt – Lào và thuộc đới Nhật triều không đều, độ lớn triều Cửa Lạch Giang, cửa Lạch Yếu tố sóng đóng vai trò quan trọng. - Đường kính hạt 0,05<d<2,0 mm * Luồng Cửa Lò: Lệ Môn, luồng Nghi Sơn, Cửa Thấp 74 Vùng bờ biển Phụ vùng Đặc điểm địa mạo, hình thái Yếu tố động lực Hàm lƣợng bùn cát Các luồng hàng hải Khả năng có bùn loãng Triều Sông Sóng Ngang kiến trúc uốn nếp Trường Sơn. Đoạn bờ này được tạo thành chủ yếu do sự lấp đầy của các trầm tích sông – biển hỗn hợp. Các cửa sông ở đây có dạng delta – liman hoặc liman bị lấp đầy. Bờ biển cát, cấu tạo địa hình đường bờ là đất đá trầm tích bở rời của đồng bằng ven biển hẹp, xen kẽ các mỏm núi đá gốc nhô sát ra biển. Quá trình địa mạo là tích tụ - mài mòn. khoảng 2,5m. Trường, cửa Lạch Trào (Hới), Cửa Hội. Động lực sông biển hỗn hợp. hàm lượng bùn sét ~75%. * Luồng Nghi Sơn: Lớp địa chất trên cùng có chiều dày khoảng 1,1 – 2,7m, là lớp bùn cát màu xám nâu, lẫn vỏ sò. Lò, Cửa Hội – Bến Thủy, Vũng Áng IV. Từ Đèo Ngang đến Đà Nẵng Phát triển trên nền cấu trúc tân kiến tạo lập tại Việt – Lào và thuộc đới kiến trúc uốn nếp Nam Trường Sơn. Bờ biển cát: Địa hình ven bờ là các đụn cát chạy dọc bờ biển, nguồn gốc biển – gió, phía trong cá dải cồn cát là các đầm phá nước lợ và các ao hồ nước ngọt của các lagun cổ. Bán nhật triều không đều, độ lớn triều khoảng 1,2m. Cửa Giang, cửa Nhật Lệ, cửa Tùng, cửa Việt, cửa Thuận An, cửa Tư Hiền Động lực sóng đóng vai trò chủ yếu. - Đường kính hạt 0,05<d<2,0 mm. - Hàm lượng cát lớn, phổ biến >50%. Hòn La, Cửa Gianh, Cửa Việt, Thuận An, Chân Mây Thấp V. Từ Bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) đến Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) Phát triển trên cấu trúc địa chất của miền uốn nếp Việt – Lào, có hướng cấu trục gần vuông góc với đường bờ thuộc đới Tam Kỳ - Phước Sơn. Bờ được cấu tạo bởi các trầm tích bở rời và một phần đá cứng khác xen kẽ nhô ra biển. Bờ biển cát, cát sỏi, kiểu bờ tích tụ mài mòn san phẳng, đang bị xói lở, Bán nhật triều không đều, độ lớn triều khoảng 1,2 m Cửa Đại sông Thu Bồn và sông Trà Vinh. Yếu tố sông tác động không lớn. Động lực sóng đóng vai trò chủ yếu. - Đường kính hạt d>0,1 mm. - Hàm lượng cát, sỏi lớn, phổ biến >70%. Đà Nẵng, Dung Quất, Kỳ Hà – Tam Điệp, Sa Kỳ Thấp 75 Vùng bờ biển Phụ vùng Đặc điểm địa mạo, hình thái Yếu tố động lực Hàm lƣợng bùn cát Các luồng hàng hải Khả năng có bùn loãng Triều Sông Sóng từ trung bình đến tương đối mạnh. Động lực thành tạo địa hình bờ biển và đáy biển chính là
File đính kèm:
- luan_an_nghien_cuu_xac_dinh_day_chay_tau_hop_ly_trong_truong.pdf
- Trich yeu luan an.pdf
- Trich yeu - tieng anh.pdf
- Tóm tắt luan an_merged.pdf
- Thesis summary_merged.pdf