Luận án Nghiên cứu xây dựng mô hình đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến một số lĩnh vực kinh tế - xã hội cho Thành phố Đà Nẵng

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu xây dựng mô hình đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến một số lĩnh vực kinh tế - xã hội cho Thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu xây dựng mô hình đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến một số lĩnh vực kinh tế - xã hội cho Thành phố Đà Nẵng

tổn thương nhất về mặt xã hội mà còn chỉ ra cơ sở hạ tầng và dịch vụ “nào” dễ bị ảnh hưởng và dễ bị tổn thương hơn; + Phản ánh sự đa dạng, phức tạp của các hệ thống con người và tự nhiên có kết hợp với các khía cạnh xã hội như cơ sở hạ tầng dân số, nghèo đói, sức khỏe...., cũng như các thuộc tính sinh học – vật lý của địa hình, tài nguyên thiên nhiên và cơ sở vật chất; + Do dựa trên quan điểm là xác định lĩnh vực quan tâm theo tính chất phát triển và đặc tính cụ thể của khu vực nghiên cứu, từ đó tính toán mức độ dễ tổn thương tới các mặt, nên phương pháp này có thể giúp người quản lý dễ dàng hơn trong việc đề xuất các giải pháp ứng phó. Những mặt hạn chế: Trên thực tế, tính dễ bị tổn thương là hàm của sự phơi lộ, độ nhạy, khả năng thích ứng, song các yếu tố trong mỗi thành phần có sự trộn lẫn khi xem xét độ nhạy và khả năng thích ứng. Tuy vậy nhìn chung, xét ở mức độ khu vực và mức độ địa phương thì so với phương pháp tiếp cận chỉ số tổn thương theo hàm của 3 thành phần không có sự tập trung tới các lĩnh vực liên quan đến xã hội, phương pháp này là một cách tiếp cận hợp lý hơn để đưa ra đánh giá định lượng những rủi ro do BĐKH gây ra. 61 Với mục đích nghiên cứu “đánh giá và xác lập bộ chỉ số tổn thương do tác động của BĐKH”, luận án tiến hành xây dựng tính toán chỉ số tổn thương theo phương pháp trên cho Đà Nẵng sau khi đánh giá cụ thể các tác động của BĐKH đến các lĩnh vực khác nhau của hệ thống kinh tế xã hội. Thông qua đánh giá chung về các đặc trưng của các yếu tố thời tiết do BĐKH bao gồm: sự thay đổi của nhiệt độ và lượng mưa; mực nước biển dâng, sẽ tiến hành xác định chỉ số dễ bị tổn thương cho các lĩnh vực sau: - Tác động của lũ và ngập lụt đi kèm với các hiện tượng thời tiết cực đoan; - Tác động của xâm nhập mặn đi kèm với những biến đổi thủy văn và mực nước biển dâng; - Tác động của nước dâng do bão đi kèm với những biến đổi liên quan đến mực NBD và các hiện tượng thời tiết cực đoan; - Tác động do sự thay đổi các tham số trung bình năm của khí tượng như nhiệt độ, lượng mưa. Từ đó, kết hợp các thông tin cần đánh giá để tính toán xây dựng bộ chỉ số dễ bị tổn thương cho TP Đà Nẵng. Kết quả tính toán là cơ sở để so sánh mức độ dễ bị tổn thương giữa các quận/huyện của Đà Nẵng. 2.4.2 Phương pháp xây dựng bộ chỉ số tổn thương cho TP Đà Nẵng Xây dựng bộ chỉ số dễ bị tổn thương cho Đà Nẵng cụ thể bao gồm các bước: lựa chọn vùng, thiết lập các tham số của lĩnh vực đánh giá, chuẩn hóa các tham số đánh giá, từ đó xác định trọng số cho các tham số và tính giá trị chỉ số dễ bị tổn thương và phân cấp mức độ dễ bị tổn thương cho các vùng. 2.4.2.1 Lựa chọn mức độ chi tiết không gian Luận án lựa chọn các vùng để xác định chỉ số dễ tổn thương theo địa danh hành chính là các quận/ huyện của TP Đà Nẵng, (không xét huyện Đảo Hoàng Sa do không có số liệu), bao gồm 7 quận (Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu, Cẩm Lệ) và huyện Hòa Vang. Việc lựa chọn này sẽ tạo điều kiện 62 thuận lợi trong việc xác định các tham số để xây dựng bộ chỉ số cũng như ứng dụng kết quả trong các quy hoạch kế hoạch trong tương lai của Đà Nẵng. 2.4.2.2 Thiết lập tham số Khi đánh giá chỉ số dễ bị tổn thương phải xem xét vai trò của các yếu tố: xã hội, nhân khẩu học, địa lý, môi trường, kinh tế và văn hóa đối với một cộng đồng hay hệ thống “dễ bị tổn thương” do BĐKH. Theo đó, luận án tập trung vào nhóm xã hội, công nghiệp và năng lượng, giao thông và đô thị. a) Tính dễ tổn thương về xã hội bao gồm: Dân số: liên quan đến việc dễ bị tổn thương của con người và dân số TP Đà Nẵng do ảnh hưởng của BĐKH. Trong đó, tăng trưởng dân số là một động lực chính cho sự thay đổi ở vùng đồng bằng, tăng nguy cơ người dân và các hộ gia đình chịu tác động của BĐKH và nhu cầu được đặt trên các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có và tác động của nó đối với sinh kế bền vững. Về lâu dài, tăng trưởng dân số TP Đà Nẵng có khả năng đóng góp và làm trầm trọng thêm các điểm dễ bị tổn thương do BĐKH và những khó khăn trong việc thích ứng với mọi thay đổi bất lợi về khí hậu. Ở đây, một huyện được coi là dễ bị tổn thương nếu nó tồn tại các đặc điểm như số lượng dân số cao, tỷ lệ tăng trưởng hoặc quy mô gia đình lớn [41]. Đói nghèo: là mức độ dễ bị tổn thương đến các hộ gia đình nghèo và cận nghèo, ở TP Đà Nẵng đối với tác động của BĐKH. Nghèo đói làm giảm khả năng phục hồi và năng lực thích ứng của người dân và hộ gia đình. Sinh kế: đề cập đến khả năng dễ bị tổn thương của hệ thống canh tác, cơ sở hạ tầng và sinh kế của TP Đà Nẵng. Ở đây, một hộ gia đình nông nghiệp và hệ thống sinh kế được coi là dễ bị tổn thương nếu có khả năng thiệt hại nhiều do BĐKH và tổn thương thấp nếu khả năng phục hồi nhanh chóng hoặc hoàn toàn do tác động của BĐKH. Mức độ dễ bị tổn thương của hộ gia đình được xác định bằng cách đánh giá các nguồn lực (sử dụng đất, nước) và mức độ cũng như tính đa dạng của nguồn thu nhập (các nghề nghiệp) hay các tài sản sản xuất, cơ sở hạ tầng. b) Tính dễ bị tổn thương trong lĩnh vực công nghiệp và năng lượng: đề cập 63 đến tính nhạy cảm trong sản xuất công nghiệp và năng lượng, cơ sở hạ tầng truyền tải và dịch vụ đối với tác động của BĐKH. c) Tính dễ bị tổn thương trong lĩnh vực giao thông và đô thị: Giai đoạn đầu tiên của đánh giá tổn thương là đánh giá các hệ thống riêng biệt, cả tự nhiên và xã hội có độ phơi lộ như thế nào với các nguy cơ và tác động của BĐKH. Mỗi lĩnh vực được lựa chọn ở các quận/huyện để đánh giá như là một hàm của tính dễ bị tổn thương theo các chỉ số, sau đó tính toán “mức độ phơi lộ tương quan nền” trung bình của mỗi quận/huyện. Trong giai đoạn thứ hai của đánh giá, các quận/huyện được xếp hạng theo “mức độ nhạy cảm tương ứng” đối với các dự báo nguy cơ trong tương lai được tạo ra từ mô hình thủy văn mô phỏng. Tăng trưởng dân số có thể dùng để dự báo thay đổi trong các chỉ số độ nhạy. Và kết quả của các mô hình khí hậu chỉ ra phơi lộ trong tương lai với BĐKH có thể dùng để dự báo thay đổi về các chỉ số nguy cơ. Theo đó, vùng ảnh hưởng bởi mỗi mối nguy có thể dùng để ước tính số người dự báo sẽ bị ảnh hưởng. Các bản đồ nguy cơ lũ lụt, ngập lụt đến năm 2030, 2050, 2070 và 2100 được sử dụng để dự báo tính dễ bị tổn thương với các điều kiện trong tương lai. Kết quả tác động của BĐKH đến năng suất và thời gian sinh trưởng sẽ được sử dụng để tính toán các tham số tương lai của nông nghiệp. 2.4.2.3 Chuẩn hóa tham số Các thông số và chỉ tiêu được thu thập và thống kê có các thứ nguyên khác nhau, vì thế khi sử dụng trong một hàm quan hệ cần phải được chuẩn hóa trước khi tính toán. Trong nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp đánh giá chỉ số phát triển con người (HDI) của UNDP (2006) để chuẩn hóa, đưa về khoảng cho phép từ 0-1. Trong đó, việc trước hết là phải xác định mối tương quan giữa các tham số với tính dễ bị tổn thương. Có hai loại quan hệ có thể xảy ra bao gồm: Quan hệ thuận – tính dễ bị tổn thương tăng lên/giảm xuống tương ứng với sự tăng lên/giảm xuống của các giá trị tham số tương ứng với các tác động và Quan hệ nghịch là tính dễ bị tổn thương tăng lên/giảm xuống với sự giảm xuống/tăng lên của các giá trị tham số 64 tương ứng với khả năng ứng phó. Theo đó, các công thức được sử dụng để chuẩn hóa các tham số như sau: + Quan hệ thuận: ij ij min max min i ij i ij i x x x x xij (2.6) + Quan hệ nghịch: max max min i ij ij ij i ij i ij x x y x x (2.7) Trong đó: i = 1,2, M với M là số vùng (với trường hợp tình toán trong luận án là 7 vùng), j = 1,2,K với K là số tham số trong nhóm tính tổn thương. 2.4.2.4 Xác định trọng số và tính chỉ số dễ bị tổn thương Sau khi số liệu đã được chuẩn hóa, các chỉ số cần được xác định trọng số. Có rất nhiều phương pháp tính trọng số khác nhau tùy theo đặc tính khu vực nghiên cứu cũng như mục tiêu xây dựng chỉ số dễ bị tổn thương. Nói chung, có hai trường phái chủ yếu là phương pháp bình quân trọng số và phương pháp trọng số không bằng nhau. Để hướng tới mục đích định lượng hóa chỉ tiêu tổn thương, nghiên cứu sinh lựa chọn phương pháp trong số không bằng nhau của Iyengar & Sudarshan. Phương pháp này dựa trên cơ sở thống kê và cũng rất phù hợp cho việc phát triển đa chỉ số tổn thương do biến đổi khí hậu được Iyengar và Sudarshan (1982) đề xuất để xếp hạng các huyện theo khả năng phát triển kinh tế. Việc xác định chỉ số dễ tổn thương cho các hoạt động KT-XH ở các vùng do tác động của BĐKH, bao gồm 3 nhân tố chính: (1) Nhóm nhân tố phơi lộ hay là các tác động (E): Gồm các loại thiên tai và sự thay đổi một số yêu tố khí hậu cực trị như nhiệt độ tối cao, tối thấp, mưa lớn. (2) Nhóm các nhân tố thể hiện mức độ nhạy cảm, dễ thay đổi do BĐKH (S), bao gồm các yêu tố như diện tích bị ngập, bị ảnh hưởng của xâm nhập mặn, số dân bị ảnh hưởng, năng suất và sản lượng lúa và một số hoa mầu chính (ngô, lạc,) 65 diện tích đất nông nghiệp, số lượng gia súc, gia cầm, (3) Nhóm các nhân tố thể hiện khả năng thích ứng đối với tác động của BĐKH (A), bao gồm cơ cở hạ tầng như độ dài đường giao thông, số nhà kiên cố, số lượng trang thiết bị, mạng lưới điện, giao thông, nhân lực, Mức độ tổn thương riêng của mỗi nhóm nhân tố sẽ được tính toán dựa trên trọng số của từng nhân tố và các chỉ thị. Giả sử có M vùng (với trường hợp tình toán trong luận án là 7 vùng) và K là số chỉ tiêu trong nhóm tính tổn thương và xij (i=1,2,M; j=1,2,K) là các giá trị được chuẩn hóa. Mức độ bị tổn thương trong mỗi mỗi nhân tố (E, S, A) của vùng thứ i, gọi chung là iy được xác định theo một tổng tuyến tính của xij như sau: 1 K i j ij j y w x (2.8) Trong đó 0 < w < 1 và 1 1 K j j w là những trọng số. Theo phương pháp của Iyengar và Sudarshan thì các trọng số được giả định là tỉ lệ nghịch với phương sai của chỉ tiêu dễ bị tổn thương và được tính theo công thức: var j ij i c w x (2.8.1) Trong đó c là hằng số chuẩn hóa được xác định bởi: 1 1 1 var K j iji c x (2.8.2) Việc lựa chọn các trọng số theo phương pháp này sẽ đảm bảo sự biến thiên lớn trong bất kỳ chỉ tiêu nào mà không chi phối quá mức sự đóng góp của các chỉ tiêu còn lại của các chỉ số và gây sai sót khi so sánh giữa các vùng. Chỉ số dễ bị tổn thương vì vậy được tính toán nằm trong phạm vi từ 0-1, với giá trị =1 chỉ mức dễ bị tổn thương là lớn nhất, với giá trị =0 là không bị tổn thương. 66 Sau khi tính toán các giá trị của 3 nhóm yếu tố Ei, Si, Ai, tiếp tục chuẩn hóa thuận và sau đó tính toán trọng số cho từng lĩnh vực theo công thức (2.8.1), được wE , wS, wA là trọng số của các chỉ số tác động, độ nhạy và khả năng thích ứng. Trong đó: wE + wS + wA=1 (2.10) Chỉ số dễ bị tổn thương cho mỗi khu vực (huyện) tương ứng cho từng lĩnh vực được tính theo công thức sau: i i E i S i AV E w S w A w (2.11) Trong đó Vi là chỉ số dễ bị tổn thương tính cho vùng i Để phân cấp mức độ tổn thương của các vùng, phải xác định phân bố xác xuất của Vi . Iyengar và Sudarshan đã giả thiết rằng hàm mật độ xác suất của Vi phù hợp với hàm Beta, là một hàm phân bố lệch, nhận các giá trị từ 0-1, như sau: (2.9) Trong đó là hàm được định nghĩa như sau: (2.9.1) Hai tham số a và b là hai thông số của phân hàm phân bố ngẫu nhiên Beta trên có thể được ước tính bằng cách sử dụng phương pháp đã được mô tả trong Iyengar và Sudharshan (1982). Nếu coi (0,z1), (z1,z2), (z3,z4) và (z4,1) là các khoảng tuyến tính mà mỗi khoảng có cùng trọng số của 20% thì các khoảng này có thể được sử dụng để đặc tả các trạng thái tổn thương khác nhau: Ít có nguy cơ tổn thương (không đáng kể) nếu 0< Vi< z1 Có nguy cơ tổn thương vừa phải nếu z1< Vi< z2 Có nguy cơ tổn thương tương đối lớn nếu z2< Vi< z3 Có nguy cơ tổn thương cao nếu z3<Vi< z4 67 Có nguy cơ tổn thương rất cao nếu z4<Vi< 1 Tuy nhiên theo nhận định của nhiều chuyên gia, không nhất thiết phải phân cấp hàm phân bố xác suất của Vi bằng hàm Beta, mà có thể xấp xỉ bằng nhiều hàm phân bố đã được tính sẵn như phân bố Kritxki – Menkel, hàm Gamma, hoặc đơn giản theo đường trung bình đi qua các điểm tần suất kinh nghiệm. Mặt khác, số vùng sử dụng trong luận án M = 8, không đủ đảm bảo để xác định hàm phân bố xác suất, vì vậy, phân cấp mức độ tổn thương trong luận án theo hàm phân bố đều như trong Bảng 2.6. Bảng 2.6. Phân cấp trạng thái dễ bị tổn thương 0 < Vi ≤ 0,20: RT Tổn thương rất thấp 0,20 < Vi ≤ 0,40: T Tổn thương thấp 0,40 < Vi ≤ 0,60: TB Tổn thương trung bình 0,60 < Vi ≤ 0,80: C Tổn thương cao 0,80 < Vi ≤ 1,00: RC Tổn thương rất cao 68 CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG VÀ TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG CHO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG DO TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 3.1. Đánh giá biểu hiện của BĐKH tại thành phố Đà Nẵng Ở Đà Nẵng, đã có nhiều nghiên cứu về BĐKH được thực hiện. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu tập trung đánh giá đối với hai yếu tố khí hậu chính là nhiệt độ và lượng mưa. Do vậy, khả năng cung cấp thông tin phục vụ đánh giá tác động của BĐKH là chưa hoàn toàn đầy đủ. Thực tế có thể thấy, tác động của thời tiết và khí hậu đến con người, hoạt động sản xuất và môi trường được thể hiện rõ ràng nhất qua các hiện tượng cực đoan; như nắng nóng, rét đậm, rét hại, mưa lớn, lũ lụt, bão Vì vậy, việc đánh giá biểu hiện của BĐKH tại khu vực Đà Nẵng thông qua nhiệt độ, lượng mưa và một số cực đoan khí hậu. Trong luận án, đã sử dụng số liệu trung bình tháng của nhiệt độ, lượng mưa và số liệu quan trắc ngày đối với lượng mưa, nhiệt độ tối cao và tối thấp thời kỳ 1961-2010. 3.1.1 Xu thế biến đổi nhiệt độ Biến động của nhiệt độ tháng ở khu vực Đà Nẵng không cao, hay nói cách khác, nhiệt độ tháng hàng năm khá ổn định. Kết quả tính toán theo số liệu 1961- 2012 cho thấy, biến động nhiệt độ tháng cao nhất vào các tháng mùa đông, với độ lệch tiêu chuẩn (S) vào khoảng 1 đến 1,2oC, hệ số biến thiên (Sr) dao động từ 4 đến 5,3%; thấp nhất vào các tháng mùa hè, với S vào khoảng từ 0,4 đến 0,7oC, Sr dao động trong khoảng từ 1,5 đến 2,7% (Hình 3.1). Nhiệt độ trung bình năm tại trạm Đà Nẵng có xu thế tăng nhẹ, với mức tăng vào khoảng 0,0150C/thập kỷ (Hình 3.3). Mức chênh lệch nhiệt độ năm giữa các thập kỷ không cao, dao động từ 25,7 đến 26,0 oC, cao nhất vào thập kỷ đầu và thập kỷ cuối của chuỗi số liệu quan trắc (Hình 3.2). Kết quả tính toán cũng cho thấy rằng, mức biến động của nhiệt độ trung bình năm lại có xu thế tăng nhẹ. Cụ thể, chỉ số Sr của 20 năm gần đây (1993-2012) là 1,5%, Sr của các năm trước đó là 1,3% (Hình 3.3). Tuy nhiên, mức độ biến đổi và 69 xu thế biến động của nhiệt độ trong các tháng khác nhau là khác nhau. Vào tháng chính đông (tháng I), nhiệt độ có xu thế tăng nhẹ, khoảng 0,14oC/thập kỷ, hệ số Sr lại có xu thế giảm (Sr của 20 năm gần đây thấp hơn so với các năm trước đó). Ngược lại, nhiệt độ tháng chính hè (tháng VII) có xu thế giảm khoảng 0,05oC/1 thập kỷ; và hệ số Sr có xu thế tăng cao hơn trong 20 năm gần đây (Hình 3.3). Điều này cho thấy sự biến động thất thường của nhiệt độ ở khu vực Đà Nẵng: nhiệt độ các tháng mùa hè có xu thế gia tăng. Ngược lại, ổn định hơn vào các tháng mùa đông. Tuy nhiên, mức độ tăng/giảm không rõ ràng, mức chênh lệch hệ số Sr chỉ khoảng 0,1-0,2%; riêng đối với trường hợp Sr của nhiệt độ tháng 1 vào khoảng 2%. Hình 3.1. Độ lệch tiêu chuẩn (S) và biến suất (Sr) của nhiệt độ thời kỳ 1961-2010 tại trạm Đà Nẵng Hình 3.2. Đặc trưng nhiệt độ trung bình năm các thập kỷ tại trạm Đà Nẵng (a) 70 Hình 3.3. Xu thế diễn biến và Sr (thời kỳ 1961-1992 màu cam; thời kỳ 1993-2012 màu đỏ) của chuẩn sai nhiệt độ tháng I (a), tháng VII (b) và trung bình năm (c) Nhiệt độ tối cao tuyệt đối năm (Txx) có xu thế giảm nhẹ, khoảng 0,2oC/thập kỷ. Hệ số biến thiên Sr của Txx trong 20 năm gần đây cũng thấp hơn, khoảng 0,4% so với các năm trước đó. Nói cách khác, mức biến động của Txx có xu thế giảm trong những năm gần đây. Cùng với xu thế giảm của Txx, số ngày nóng (Số ngày có Tx>= giá trị của Tx ở phân vị 90% - Tx90P), số ngày nắng nóng (SU35) và số ngày nắng nóng gay gắt (SU37) cũng có xu thế giảm nhẹ; mức giảm lần lượt tương ứng là 0,11 ngày/thập kỷ, 0,04 ngày/thập kỷ, 0,4 ngày/thập kỷ. Hệ số biến thiên Sr của SU35 và SU37 trong 20 năm gần đây thấp hơn hẳn so với các năm trước đó. Điều này cho thấy, số ngày nắng nóng và nắng nóng gay gắt trong những năm gần đây ở Đà Nẵng biến động không nhiều (Hình 3.4). Thực tế, số ngày nắng nóng tại Đà Nẵng khá lớn, trung bình mỗi năm có khoảng 45 ngày, cao nhất là năm 1988 có 67 ngày, năm 1998 có 64 ngày và thấp nhất là năm 1989 có 23 ngày; Trung bình mỗi năm có khoảng 12 ngày nắng nóng gay gắt, trong đó cao nhất là năm 1983 và (b) (c) 71 1998 có 31 ngày, thấp nhất là năm 1978 có 1 ngày. Hình 3.4. Xu thế biến đổi của Txx (a), Tx90P (b), SU35 (c) và SU37 (d) tại trạm Đà Nẵng Trong những năm qua, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối năm (Tnn) có xu thế gia (d) (c) (b) (a) 72 tăng ở trạm Đà Nẵng, với mức tăng khoảng 0,4oC/thập kỷ. Tuy nhiên, mức độ biến động của Tnn cũng gia tăng. Cụ thể, hệ số biến thiên (Sr) trung binh giai đoạn 1993- 2012 đạt giá trị 10,1%; trong khi đó, Sr trung binh giai đoạn 1976-1992 đạt giá trị 4,0% (Hình 3.5). Cùng với xu thế gia tăng của Tnn, số ngày có Tnn nằm dưới ngưỡng phân vị 10% (Tn10P, ngày lạnh) có xu thế giảm rõ ràng, với mức giảm khoảng 4,6 ngày/thập kỷ. Sr của Tn10P cũng có xu thế gia tăng trong 20 năm gần đây so với thời kỳ trước đó (Hình 3.5). Hình 3.5. Xu thế biến đổi của Tnn (a) và Tn10P (b) tại trạm Đà Nẵng 3.1.2 Xu thế biến đổi lượng mưa Đà Nẵng nằm ở phía Bắc vùng Nam Trung Bộ, với mùa mưa muộn hơn so với vùng Bắc Trung Bộ, bắt đầu từ tháng VIII, tháng IX đến tháng XI, kết thúc vào tháng XII. Độ lệch tiêu chuẩn phổ biến của lượng mưa trong các tháng I, IV, VII, X lần lượt là 73 mm; 50 mm; 86 mm; 272 mm và chung cho cả năm là 572 mm. Biến suất lượng mưa trong các tháng tương ứng là 87%; 143%; 97%; 42% và chung cho cả năm là 26% (Bảng 3.1). Ở Đà Nẵng, độ lệch tiêu chuẩn tỷ lệ thuận và biến suất (a) (b) 73 tỷ lệ nghịch với lượng mưa. Đáng chú ý là, ở Đà Nẵng lượng mưa biến đổi nhiều trong các tháng đầu và giữa mùa xuân (tháng III, IV) và biến đổi ít trong các tháng cao điểm của mùa mưa (tháng X, XI). Lượng mưa năm cũng biến đổi từ thập kỷ này qua các thập kỷ khác. Trong thời kỳ 1961-2012, lượng mưa lớn nhất rơi vào hai thập kỷ gần đây là thập kỷ 1991- 2000; thập kỷ 2001 - 2010 và ít nhất vào thập kỷ 1981 - 1990 (Hình 3.6). Như vậy, trong hai thập kỷ gần đây lượng mưa năm ở Đà Nẵng lớn hơn các thập kỷ trước. Bảng 3.1: Trị số trung bình, độ lệch tiêu chuẩn (S, mm) và biến suất (Sr %) lượng mưa trạm Đà Nẵng. Tháng I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Năm TB 83 24 22 35 86 86 89 140 341 644 443 210 2204 S (mm) 73 21 27 50 83 85 86 99 269 272 283 153 572 Sr (%) 87 88 122 143 97 99 97 71 79 42 64 73 26 Hình 3.6 Lượng mưa trung bình trong các thập kỷ Xu thế và tốc độ xu thế của lượng mưa được thể hiện thông qua dấu của hệ số tương quan (rxt) giữa lượng mưa (x) với thời gian (t) và tốc độ xu thế được thể hiện thông qua hệ số b1 của phương trình xu thế. 74 Trong thời kỳ 1961-2012, lượng mưa trong mùa hè (tháng VII), mùa đông (tháng I) ở Đà Nẵng có xu thế giảm, nhưng không đáng kể, dưới 0,3 mm/năm; và có xu thế tăng trong mùa xuân (IV) và mùa thu (tháng X), với tốc độ tăng 05-1,5 mm/năm. Tuy nhiên sự tăng hay giảm lượng mưa các mùa không có xu thế chặt chẽ (hệ số tương quan các mùa đều rxt< 0,27), căn cứ vào tiêu chuẩn kiểm nghiệm Student (T-test) (Hình 3.7 a,b,c,d). Trong hơn 50 năm qua, lượng mưa năm ở Đà Nẵng có xu thế tăng 10,8 mm/năm với hệ số tương quan rxt=0,29, lượng mưa năm ở Đà Nẵng có xu thế chặt chẽ theo tiêu chuẩn kiểm nghiệm T-test (Hình 3.7 e). (a) (b) 75 Hình 3.7 Xu thế biến đổi của lượng mưa các tháng I,
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_xay_dung_mo_hinh_danh_gia_tac_dong_cua_bi.pdf
Phu luc II.10.9. Trang thong tin_VN.doc
Tomtat LA_EN.pdf
Tomtat LA_VN.pdf
Trang thong tin_EN.pdf
Trang thong tin_VN.pdf