Luận án Nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định dòng chảy tối thiểu – áp dụng cho hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn

Luận án Nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định dòng chảy tối thiểu – áp dụng cho hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định dòng chảy tối thiểu – áp dụng cho hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định dòng chảy tối thiểu – áp dụng cho hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định dòng chảy tối thiểu – áp dụng cho hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định dòng chảy tối thiểu – áp dụng cho hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định dòng chảy tối thiểu – áp dụng cho hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định dòng chảy tối thiểu – áp dụng cho hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định dòng chảy tối thiểu – áp dụng cho hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định dòng chảy tối thiểu – áp dụng cho hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định dòng chảy tối thiểu – áp dụng cho hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 188 trang nguyenduy 11/05/2025 50
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định dòng chảy tối thiểu – áp dụng cho hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định dòng chảy tối thiểu – áp dụng cho hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn

Luận án Nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định dòng chảy tối thiểu – áp dụng cho hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn
 với bình 
quân hàng năm trên dưới 4°C. 
Số giờ nắng hàng năm khoảng 1.806 giờ đến 2.086 giờ. Độ ẩm không khí 
dao động từ 80÷95%. Độ ẩm không khí vào những ngày thấp nhất có thể xuống 
tới mức 20÷30%. Khả năng bốc hơi trung bình hàng năm từ 680÷1.040 mm.Tốc 
độ gió bình quân hàng năm, vùng núi đạt 0,7÷1,3 m/s, vùng đồng bằng ven biển 
đạt 1,3÷1,6 m/s. 
Lượng mưa hàng năm dao động từ 2.000÷4.000 mm. Mùa mưa ở Quảng 
Nam, Đà Nẵng từ tháng IX đến tháng XII, mùa khô từ tháng I đến tháng VIII. 
Lượng mưa trong mùa mưa chiếm 65÷80% lượng mưa cả năm. Thời kỳ mưa lớn 
nhất thường tập trung vào tháng X và tháng XI, chiếm 40÷50% lượng mưa cả năm. 
2.3.1.5.Điều kiện thủy văn và tình hình xâm nhập mặn 
a/ Mạng lưới sông ngòi 
Hệ thống sông VG - TB bắt nguồn từ vùng núi cao thuộc sườn phía Đông 
của dãy Trường Sơn, sông có độ dài ngắn và độ dốc lòng sông lớn. Ở vùng thượng 
lưu, lòng sông hẹp, bờ sông dốc đứng, có nhiều ghềnh thác, độ uốn khúc từ 1 ÷ 2. 
Phần giáp ranh giữa trung lưu và hạ lưu, lòng sông tương đối rộng và nông, có 
nhiều cồn bãi giữa dòng. Về phía hạ lưu lòng sông thường thay đổi, bờ sông thấp 
nên vào mùa lũ hàng năm thường gây ngập lụt. Sông VG - TB gồm 2 nhánh chính: 
- Sông Vu Gia hợp thành bởi nhiều nhánh sông, đáng kể là các sông Đắk 
Mi (sông Cái), sông Bung, sông A Vương, sông Con. Sông Vu Gia có chiều dài 
đến cửa ra tại Đà Nẵng (Cửa Hàn) là 204 km, đến Cẩm Lệ: 189 km, đến Ái Nghĩa: 
166 km. Diện tích lưu vực đến Ái Nghĩa là 5.180 km2. 
+ Sông Đắk Mi: bắt nguồn từ đỉnh núi Ngọc Linh cao trên 2.000 m thuộc 
tỉnh Kon Tum. Sông có chiều dài 129 km với diện tích lưu vực 1.900 km2, có 
hướng chảy Bắc Nam, nhập vào sông Bung tại Trưng Hiệp. 
 + Sông Bung: bắt nguồn từ dãy núi cao ở phía Tây Bắc, chảy theo hướng 
Tây Đông. Sông có chiều dài 131 km với diện tích lưu vực 2.530 km2. 
+ Sông A Vương là một nhánh chính của sông Bung, diện tích lưu vực 898 
km2, chiều dài 84 km. 
58 
 + Sông Con: bắt nguồn từ vùng núi cao của huyện Đông Giang, hướng chảy 
chính Bắc – Nam, diện tích lưu vực 627 km2, chiều dài 47 km. 
- Sông Thu Bồn bắt nguồn từ vùng biên giới giữa 3 tỉnh Quảng Nam, Kon 
Tum và Quảng Ngãi, ở độ cao hơn 2.000 mm, chảy theo hướng Nam – Bắc; về 
Phước Hội sông chảy theo hướng Tây Nam - Đông Bắc, khi đến Giao Thuỷ sông 
chảy theo hướng Tây - Đông và đổ ra biển tại Cửa Đại. Từ thượng nguồn đến Nông 
Sơn có diện tích là 3.150 km2, dài 126 km, đến Giao Thuỷ là 3.825 km2, dài 152 
km. Sông Thu Bồn gồm có nhiều sông nhánh, đáng kể là các sông sau: 
+ Sông Tranh có diện tích lưu vực 644 km2, chiều dài 196 km; 
+ Sông Khang có diện tích lưu vực 609 km2, chiều dài 57 km; 
+ Sông Trường Giang có diện tích lưu vực 446 km2, chiều dài 29 km. 
Ở phần hạ lưu, sông Vu Gia còn tiếp nhận sông Túy Loan diện tích lưu vực 
là 309 km2, dài 30 km, sông Thu Bồn tiếp nhận sông Ly Ly có diện tích lưu vực là 
275 km2, dài 38 km. 
Diện tích toàn bộ lưu vực VG- TB tính đến cửa sông là 10.350 km2. Khu 
vực hạ lưu, dòng chảy của hai sông có sự trao đổi với nhau: Sông Quảng Huế dẫn 
một lượng nước từ sông Vu Gia sang sông Thu Bồn; Cách Quảng Huế 16 km, sông 
Vĩnh Điện lại dẫn một lượng nước từ sông Thu Bồn trả lại sông Vu Gia. 
b/ Mạng lưới trạm quan trắc thủy văn 
59 
Hình 2.7 Sơ đồ vị trí các trạm thủy văn trên lưu vực sông VG-TB 
Bảng 2.1. Mạng lưới các trạm thủy văn trên lưu vực Vu Gia – Thu Bồn 
TT Trạm Flv 
(km2) 
Sông Yếu tố 
đo 
Vị trí trạm Liệt tài liệu 
Kinh độ Vĩ độ 
1 Thành Mỹ 1850 Cái Q, H, 
D, X 
107050’ 15046’ 1977 đến nay 
2 Nông Sơn 3150 Thu Bồn Q, H, 
D, X 
108003’ 15042’ 1977 đến nay 
3 Cẩm lệ Vu Gia X, H 108002’ 16000’ 1977 đến nay 
4 Ái Nghĩa Vu Gia X, H 108007’ 15053’ 1977 đến nay 
5 Hội Khách Vu Gia X, H 107049’ 15049’ 1977 đến nay 
6 Hội An Thu Bồn X, H 108020’ 15052’ 1977 đến nay 
60 
7 Giao Thủy Thu Bồn X, H 108001’ 15048’ 1977 đến nay 
8 Câu Lâu Thu Bồn X, H 108017’ 15051’ 1977 đến nay 
9 Sơn Tân Thu Bồn X, H 108002’ 15034’ 1977 đến nay 
10 Sơn Trà Biển X, H 108013’ 16006’ 1977 đến nay 
Ghi chú: H: Mực nước; Q: Lưu lượng; D: Độ đục; X: Lượng mưa 
c/ Dòng chảy năm và phân phối dòng chảy năm 
Dòng chảy năm: Do lưu vực có lượng mưa dồi dào nên dòng chảy mặt trong 
sông khá lớn. Mô đun dòng chảy trung bình năm dao động từ 38,8 ÷ 75,9 l/s.km2. 
Tổng lượng dòng chảy năm khoảng 20,4 tỷ m3. Dòng chảy trong năm được chia 
thành 2 mùa rõ rệt: Mùa lũ và mùa kiệt. Mùa lũ từ tháng IX đến tháng XII, dòng 
chảy mùa lũ chiếm 65% tổng lượng dòng chảy năm. 
Bảng 2.2. Thông số dòng chảy năm các sông chính trên lưu vực 
Sông Tính đến 
Flv 
(km2) 
Xo 
(mm) 
Yo 
(mm) 
Qo 
(m3/s) 
Mo 
(l/s.km2) 
Wo 
(109m3) 
Vu Gia 
Thành Mỹ 1.850 2.770 1.943 114 61,6 3,60 
Ái Nghĩa 5.180 2.420 1.650 271 56,2 8,55 
Thu Bồn 
Nông Sơn 3.150 3.300 2.393 254 75,9 7,54 
Giao Thủy 3.825 3.300 2.390 308 75,8 9,15 
Ly Ly Vu Gia 275 2.200 1.390 12,3 44,7 0,39 
Túy Loan Thu Bồn 309 2.000 1.224 12,0 38,8 0,38 
Nguồn: [18] 
Dòng chảy kiệt: Mùa kiệt bắt đầu từ tháng I đến tháng VIII hàng năm. Dòng 
chảy nhỏ nhất trên lưu vực phần lớn xuất hiện vào tháng IV, những năm ít hoặc 
không có mưa tiểu mãn vào tháng V, tháng VI thì dòng chảy nhỏ nhất xuất hiện 
vào tháng VII và tháng VIII. 
Các sông có diện tích lưu vực F > 300 km2 thì tháng có dòng chảy nhỏ nhất 
thường là tháng IV, với lưu vực có F < 300 km2 thì tháng có dòng chảy nhỏ nhất 
vào tháng VIII. 
Dòng chảy mùa kiệt phụ thuộc vào trữ lượng nước trong sông và lượng mưa 
61 
trong mùa kiệt. Có thể chia mùa kiệt thành 2 thời kỳ: 
- Thời kỳ dòng chảy ổn định: Từ tháng I đến tháng IV hàng năm, dòng chảy thời 
gian này chủ yếu là do lượng nước trữ trong lưu vực sông cung cấp nên có xu 
hướng giảm dần theo thời gian và sau đó ổn định; 
- Thời kỳ dòng chảy không ổn định: Từ tháng V đến tháng VIII hàng năm, nguồn 
cung cấp nước cho dòng chảy thời kỳ này ngoài nước ngầm ra còn có lượng mưa 
trong mùa kiệt (mưa tiểu mãn). 
Vùng có dòng chảy mùa kiệt lớn nhất là thượng nguồn các sông, mô đun 
dòng chảy mùa kiệt khoảng 25÷30 l/s.km2, mô đun dòng chảy nhỏ nhất tháng 
khoảng 10÷15 l/s.km2. 
 Vùng có dòng chảy mùa kiệt nhỏ nhất là vùng thuộc phía Bắc và Tây Bắc 
tỉnh Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng thuộc lưu vực các sông Bung, sông Con với 
mô đun dòng chảy mùa kiệt chỉ còn 10 l/s.km2. 
Bảng 2.3. Dòng chảy kiệt nhỏ nhất tại các trạm (1977 ÷ 2014) 
Trạm Sông 
Flv 
(km2) 
Mô đun kiệt 
tháng 
M (l/s.km2) 
Tháng 
xuất 
hiện 
Mô đun 
kiệt ngày 
M (l/s.km2) 
Ngày 
xuất 
hiện 
Thành Mỹ Cái 1.850 8,76 4/83 6,11 4/9/88 
Nông Sơn Thu Bồn 3.150 8,98 4/83 4,63 17/8/77 
Nguồn: [18] 
Dòng chảy mùa lũ: Lưu lượng đỉnh lũ lớn nhất giai đoạn (1977÷2014) đạt 
tới 7000m3/s (MQmax = 3,78 m3/s.km2) vào ngày 20/X/1998 tại trạm Thành Mỹ trên 
sông Cái, 10.800 m3/s (MQmax=3,42 m3/s.km2) vào ngày 12/XI/2007 tại trạm Nông 
Sơn trên sông Thu Bồn. Các trận lũ lớn và đặc biệt đã gây ngập lụt nghiêm trọng 
ở vùng hạ du. 
d/ Tình hình xâm nhập mặn 
Sông Vu Gia, tại cửa sông Hàn độ mặn khá cao 22÷25‰, tại cầu Nguyễn 
Văn Trỗi trên sông Hàn, cách biển 4,5 km, độ mặn lớn nhất 25÷30‰, thấp nhất 
62 
14÷16‰. Độ mặn lớn nhất thường xuất hiện vào tháng III và thấp nhất vào tháng 
VIII. 
Sông Vĩnh Điện: Thời gian xuất hiện đỉnh mặn, chân mặn cùng hoặc sau 
1÷2 giờ so với đỉnh, chân triều. Độ mặn trên sông Vĩnh Điện ảnh hưởng trực tiếp 
từ cửa sông Hàn nhưng lại thay đổi chủ yếu do lượng dòng chảy từ khu vực trung 
lưu sông Vu Gia, Thu Bồn và điều tiết của đập An Trạch. Ranh giới mặn dưới 1‰ 
thường cách Cửa Hàn khoảng 15 km, năm xa nhất lên đến 25 km. Tại Trung Lương 
cách biển 8,5 km có độ mặn lớn nhất 16-19‰, tại Cổ Mân cách biển 12,5 km có 
độ mặn lớn nhất 10÷15‰, nhỏ nhất 3÷4 ‰. 
Sông Thu Bồn: Khoảng cách bị ảnh hưởng triều có thể lên cách cửa biển 
gần 35km, nhưng khoảng cách bị ảnh hưởng mặn ngắn hơn nhiều. Mùa khô, tại 
cầu Câu Lâu cách biển 16 km, độ mặn lớn nhất hàng năm thường dưới 1‰, đặc 
biệt chỉ có mùa khô năm 1983 tại đây đã đo được độ mặn lớn nhất lên đến 3‰. 
Sông Thu Bồn- Bà Rén có độ mặn lớn hơn sông Thu Bồn- Hội An do dòng 
chảy thượng nguồn từ Thu Bồn đổ về sông Bà Rén vào mùa kiệt rất nhỏ và dòng 
chảy trên sông Ly Ly cũng rất nhỏ, nên ranh giới mặn có thể lên đến cầu Bà Rén 
cách Cửa Đại 15,4 km. Độ mặn trên sông này có xu hướng giảm chậm từ hạ lưu 
đến thượng lưu. 
2.3.1.6 Đặc điểm sinh vật thủy sinh 
Theo các kết quả nghiên cứu đã được công bố [1][3][7][8][9][18], đặc điểm 
sinh vật thủy sinh trên lưu vực sông VG – TB như sau: 
a/ Về thực vật nổi 
Trên lưu vực sông VG - TB đã xác định được 46 loài thực vật nổi (TVN) 
thuộc 15 họ của 4 ngành, bao gồm các ngành: Tảo Silic (Bacillariophyta), tảo Lục 
(Chlorophyta), tảo Lam (Cyanophyta) và tảo Mắt (Euglenophyta). Trong thành 
phần TVN, nhóm tảo Silic chiếm tỉ lệ cao nhất với 30 loài (chiếm 65% tổng số loài 
ghi nhận được ở khu vực nghiên cứu), tiếp đến nhóm tảo Lục với 7 loài (chiếm 
15%), tảo Lam với 6 loài (chiếm 13%), thấp nhất là tảo Mắt với 3 loài (chiếm 
7%). Các loài TVN có mặt trong lưu vực sông VG - TB là những loài nhiệt đới 
phân bố rộng. Ở dạng thủy vực này, thành phần loài tảo Silic chiếm ưu thế, thể 
63 
hiện đặc điểm khu hệ thủy sinh vật là những loài thường có mặt tại các thuỷ vực 
tự nhiên chưa bị tác động mạnh bởi các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con 
người. 
b/Về động vật nổi 
Trên lưu vực sông VG - TB đã xác định được 40 loài động vật nổi (ĐVN) 
thuộc các nhóm: Giáp xác Chân chèo (Copepoda), giáp xác Râu ngành 
(Cladocera), Trùng bánh xe (Rotatoria) và các nhóm khác thuộc nhóm Ấu trùng 
giáp xác Crustacea, Ấu trùng thân mềm Mollusca và ấu trùng côn trùng Insec 
larvae. Trong thành phần ĐVN, nhóm Giáp xác Chân chèo có số loài đa dạng nhất 
với 13 loài (chiếm 36% tổng số loài ghi nhận được ở khu vực nghiên cứu), tiếp 
đến là nhóm Giáp xác Râu ngành với 11 loài (chiếm 31%), Trùng bánh xe với 9 
loài (chiếm 25%). Các nhóm khác chỉ có 3 loài (chiếm 8%). Thành phần loài ĐVN 
với đa phần là các loài phổ biến, thường gặp trong các dạng thủy vực tự nhiên nước 
không bị ô nhiễm. 
c/Về động vật đáy 
Trên lưu vực sông VG - TB đã xác định được 27 loài động vật đáy (ĐVĐ) 
thuộc các nhóm Ốc - Mollusca-Gastropoda; Hai mảnh vỏ - Mollusca - Bivalvia; 
Tôm-Crustacea - Macrura và ấu trùng Côn trùng Insect - larvae. Trong thành phần 
ĐVĐ, có 11 loài trai ốc nước ngọt thuộc 7 họ, 3 loài tôm cua thuộc 3 họ, 13 loài 
côn trùng thuộc 7 họ của 4 bộ. Trong đó: Các loài thuộc nhóm Chân bụng (Ốc) 
Mollusca Gastropoda đa dạng nhất với 11 loài (chiếm 41% tổng số loài ghi nhận 
được ở khu vực nghiên cứu), tiếp đến là nhóm Hai mảnh vỏ Mollusca Bivalvia với 
6 loài (chiếm 22%), nhóm Côn trùng nước Aquatic Insect với 7 loài (chiếm 26%) 
và nhóm Giáp xác với 3 loài (chiếm 11%). Các loài ĐVĐ đều thuộc các nhóm 
nước ngọt, phân bố rộng và phổ biến trong các dạng thủy vực trên toàn quốc. 
d/ Về cá 
Trên lưu vực sông VG - TB, đã thống kê được 210 loài cá thuộc 48 họ của 
15 bộ cá nước ngọt, gồm các bộ: Cá Thát lát Osteoglossiformes, cá Cháo 
Elopiformes, cá Chình Anguilliformes, cá Trích Clupeiformes, cá Măng sữa 
Gonorhynchiformes, cá Chép Cypriniformes, cá Hồng nhung Characiformes, cá 
64 
Nheo Siluriformes, cá Bạc đầu Cyprinodontiformes, cá Nhái Beloniformes, Mang 
liền Synbranchiformes, cá Mù làn Scorpaeniformes, cá Vược Perciformes, cá Bơn 
Pleuronectiformes và cá Nóc Tetraodontiformes. 
Trong thành phần cá ghi nhận được thuộc lưu vực sông VG - TB, đáng lưu 
ý có hai loài cá tự nhiên có giá trị kinh tế cao là cá Chình và cá Lăng là hai loài cá 
thường sống tại sông nơi nước chảy mạnh (sông Cái, sông Vu Gia) và là loài cá 
quý hiếm, có giá trị về thực phẩm. Tuy nhiên số lượng hai loài này không nhiều 
và đang có nguy cơ suy giảm mạnh về số lượng. 
 Về mặt hình thái, hệ thống sông VG - TB được phân chia thành 3 vùng, 
gồm: Thượng lưu, trung lưu và hạ lưu. Trong tổng số 210 loài cá thuộc 48 họ của 
15 bộ có sự phân bố không đồng đều ở 3 vùng, sự phân bố về thành phần loài cá 
theo các vùng cụ thể như sau: 
 - Vùng thượng lưu (từ thượng nguồn tới trạm thủy văn Thành Mỹ trên sông 
Vu Gia và từ thượng nguồn đến trạm thủy văn Nông Sơn trên sông Thu Bồn): Đã 
thống kê được 135 loài cá (chiếm 64,3% tổng số loài cá ở khu vực nhiên cứu) thuộc 
37 họ (chiếm 77,1% tổng số họ) của 11 bộ (chiếm 73,3% tổng số bộ). Trong đó 
có: Cá Còm chấm Chitala ornata, cá Chình hoa Anguilla marmorata, cá Chình 
mun Anguilla bicolor, Cá Mòi cờ hoa Clupanodon thrissa, cá Mòi cờ chấm 
Konosirus punctatus, cá Lăng Hemibagrus elongatus, cá Lăng Quảng Bình 
Hemibagrus centralus, cá Lăng chấm Hemibagrus guttatus, cá Chạch sông 
Mastacembelus armatus,... Đây là những loài có giá trị bảo tồn cao, đặc trưng, đại 
diện cho vùng thượng lưu của hệ thống sông VG - TB. 
 - Vùng trung lưu (từ trạm thủy văn Thành Mỹ đến trạm thủy văn Ái Nghĩa 
trên sông Vu Gia và từ trạm thủy văn Nông Sơn đến trạm thủy văn Giao Thủy trên 
sông Thu Bồn): Đã thống kê được 180 loài cá (chiếm 85,7% tổng số loài cá ghi 
nhận được ở khu vực nghiên cứu) thuộc 46 họ (chiếm 95,8% tổng số họ) của 13 
bộ (chiếm 86,7% tổng số bộ). Trong đó có: Cá Thát lát Notopterus notopterus, cá 
Chình hoa Anguilla marmorata, cá Cơm sông Stolephorus tri, cá Chày đất đầu 
ngắn Spinibarbus brevicephalus, cá Chày đất Spinibarbus hollandi, cá Mè núi 
Osteochilus hasseltii, cá Dầm đất Osteochilus salsbryi, cá Rưng Carassioides 
65 
cantonensis, cá Chạch hoa chấm Cobitis arenae, cá Chạch bùn núi Misgurnus 
tonkinnensis, cá Lăng chấm Hemibagrus guttatus, cá Ngạnh thường Cranoglanis 
henrici, cá Ngạnh thon Cranoglanis bouderius, cá Nheo Silurus asotus, cá Trê đen 
Clarias fuscus, cá Trê vàng Clarias macrocephalus, cá Đối đục Mugil cephalus, cá 
Đối lá Mugil kelaartii, cá Đối đất Liza dussumieri, cá Bống suối đầu ngắn 
Philypnus chalmersi, cá Bống đen lớn Eleotris melanosoma, cá Bống đá 
Rhinogobius giurinus,... Đây là những loài có giá trị kinh tế mang lại thu nhập cho 
người dân địa phương hoặc những loài phổ biến, đặc trưng, đại diện cho vùng trung 
lưu của sông VG - TB. 
 - Vùng hạ lưu (từ trạm thủy văn Ái Nghĩa đến Cửa Hàn và từ trạm thủy văn 
Giao Thủy đến Cửa Đại): Đã thống kê được 189 loài cá (chiếm 90,0% tổng số loài 
cá ghi nhận được ở khu vực nghiên cứu) thuộc 45 họ (chiếm 93,8% tổng số họ) 
của 13 bộ (chiếm 86,7% tổng số bộ). Vùng hạ lưu có tốc độ dòng chảy chậm, dân 
địa phương nuôi nhiều loài cá kinh tế phục vụ cho nhu cầu hàng ngày của con 
người hoặc những loài cá phổ biến, như: Cá Lòng tong dài Esomus longimanus, 
cá Lòng tong bay Esomus danricus, cá Chàm vảy to Zacco macrolepis, cá Trắm cỏ 
Ctenopharyngodon idellus, cá Mè trắng Hypophthalmichthys molitrix, cá Mè hoa 
Aristichthys nobilis, cá Chày đất Spinibarbus hollandi, cá Mè vinh Barbodes 
gonionotus, cá Trôi ta Cirrhinas molitorella, cá Trôi ấn độ Cirrhinas mrigala, cá 
Chép Cyprinus carpio, cá Chim trắng nước ngọt Colossoma brachypomum, cá 
Diếc Carassius auratus, cá Trê phi Clarias garienpinus, Lươn đồng Monopterus 
albus, cá Rô phi Oreochromis mossambicus, cá Rô phi vằn Oreochromis niloticus, 
cá Bống tượng Oxyeleotris marmoratus,. 
Bảng 2.4 Danh sách các loài cá có giá trị bảo tồn ở lưu vực sông VG – TB 
TT Tên khoa học Tên Việt Nam 
Tình trạng bảo tồn 
SĐVN, 
2007 
IUCN, 
2014 
1 1 Chitala ornata Cá Còm chấm VU 
2 2 Megalops cyprinoides Cá Cháo lớn VU DD 
66 
TT Tên khoa học Tên Việt Nam 
Tình trạng bảo tồn 
SĐVN, 
2007 
IUCN, 
2014 
3 3 Anguilla marmorata Cá Chình hoa VU 
4 4 Anguilla bicolor Cá Chình mun VU NT 
5 5 Clupanodon thrissa Cá Mòi cờ hoa EN 
6 6 Konosirus punctatus Cá Mòi cờ chấm VU 
7 7 Hemibagrus elongatus Cá Lăng VU 
Tổng số 7 2 
Ghi chú: EN (Nguy cấp); VU (Sẽ nguy cấp); NT (Sắp bị đe doạ); DD (Thiếu dẫn 
liệu). Nguồn: [18] 
2.3.2. Hiện trạng và phương hướng phát triển các ngành dùng nước trên lưu 
vực Vu Gia – Thu Bồn 
2.3.2.1. Ngành nông nghiệp 
Nông nghiệp là ngành sử dụng nước mặt chủ yếu trên lưu vực. Theo thống 
kê đến 31/12/2014, tổng diện tích đất nông nghiệp trên lưu vực là 751.950,4 ha. 
Trong đó, diện tích đất sản xuất nông nghiệp 111.189,1 ha, chiếm 14,8%. Diện 
tích trồng lúa tập trung chủ yếu ở vùng hạ du sông Thu Bồn. Tổng diện tích lúa 
đông xuân 30.681 ha, lúa hè thu 25.893 ha, lúa mùa 4.237 ha. Ngô là cây lương 
thực quan trọng đứng thứ hai sau cây lúa, tập trung chủ yếu ở vùng thượng, hạ du 
sông Thu Bồn. Diện tích ngô đông xuân 6.746 ha, ngô hè thu 5.460 ha. 
Trên lưu vực hiện có 761 công trình khai thác nước mặt phục vụ sản xuất 
nông nghiệp, gồm 86 hồ chứa, 491 đập dâng, 182 trạm bơm và 2 hệ thống kênh. 
Tổng diện tích tưới thực tế từ các công trình là 36.318,4 ha, đạt 78,8 % diện tích 
tưới thiết kế, chiếm 60 % diện tích canh tác. 
Phương hướng phát triển ngành trồng trọt đến năm 2025 là tập trung đầu tư 
sản xuất theo chiều sâu, tăng năng suất, chất lượng cây lương thực, xây dựng các 
vùng trồng lúa giống, vùng trồng lúa chất lượng cao và ngô làm thức ăn chăn nuôi. 
Trên toàn lưu vực, diện tích trồng lúa sẽ giảm khoảng 3.600 ha thay vào đó tăng 
diện tích trồng ngô, mía, rau đậu các loại. 
67 
Theo quy hoạch thủy lợi miền Trung trong điều kiện biến đổi khí hậu đã 
được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại quyết định số 1588/QĐ- TTg ngày 24 
tháng 10 năm 2012: Tiếp tục đầu tư nâng cấp các công trình tưới tiêu hiện có để 
tưới tăng thêm cho 8.905 ha cây trồng các loại, cấp nước tạo nguồn cho nuôi trồng 
thủy sản là 3.763,4 ha; Đầu tư xây mới 155 công trình tưới cho 24.088 ha cây 
trồng, cấp nước sinh hoạt cho 240.500 người. 
 2.3.2.2.Cấp nước phục vụ dân sinh: 
Theo số liệu thống kê đến 31/12/2014, tổng dân số trên lưu vực 1.934.518 
người. 
Đà Nẵng hiện có 3 nhà máy cấp nước, trong đó có 2 nhà máy (Cầu Đỏ, Sân 
bay) lấy nước trên hệ thống sông VG-TB. Nhà máy cấp nước Cầu Đỏ được xây 
dựng từ năm 1969, lấy nước trên sông Cầu Đỏ tại vị trí cách cửa sông khoảng 15 
km nên thường bị nhiễm mặn vào mùa khô. Công suất thực tế 120.000 m3/ngày 
đêm chiếm 77% tổng lượng nước cấp từ các nhà máy. Nhà máy nước Sân Bay 
được xây dựng từ năm 1973, nguồn nước thô cấp cho nhà máy cũng được lấy từ 
sông Cầu Đỏ. Công suất thực tế 30.000 m3/ngày đêm chiếm 19% tổng lượng nước 
cấp từ các nhà máy. 
 Quảng Nam, nhà máy cấp nước thành phố Hội An hiện có công suất 6.000 
m3/ngày đêm, nguồn nước lấy từ trạm bơm Vĩnh Điện. Hầu hết các huyện thị đều 
đã có các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung. Toàn tỉnh hiện có 77% dân số 
được cung cấp nước sinh hoạt, trong đó khu vực thành thị đạt 100%, khu vực nông 
thôn đạt 72%. 
 Theo số liệu thống kê của Công ty Cấp nước Đà Nẵng, từ năm 2000 đến 
năm 2007 (trước khi có thủy điện), trong vòng 7 năm chỉ có 26 ngày Nhà máy 
nước Cầu Đỏ bị nhiễm mặn (trừ năm 2001 sông Vu Gia bị cắt dòng tại Đại Cường). 
Trung bình mỗi năm có 4 ngày bị nhiễm mặn. Nhưng chỉ trong 6 năm trở lại đây, 
từ khi có các công trình thủy điện hoạt động (2009 ÷ 2014) có đến 508 ngày bị 
nhiễm mặn, trung bình mỗi năm có 73 ngày, gấp gần 20 lần so với thời kỳ trước 
khi có các công trình thủy điện. Xâm nhập mặn cũng ảnh hưởng lớn đến việc lấy 
nước của các nhà máy cấp nước sinh hoạt Vĩnh Điện, Điện Thọ, Hội An. 
68 
 Đến năm 2025, dự báo dân số trên lưu vực đạt 2.180.231 người. Để đáp 
ứng yêu cầu dân số tăng và phát triển đô thị, nhà máy cấp nước thành phố Hội An 
sẽ được nâng cấp lên 21.000 m3/ngày. đêm. Xây dựng mới 18 nhà máy nước cung 
cấp cho các trung tâm cấp huyện và các khu công nghiệp. 
2.3.2.3.Công nghiệp 
Phát triển công nghiệp trên lưu vực đang ở mức khiêm tốn, hiện có 9 khu 
công nghiệp tập trung và một số cụm công nghiệp với tổng diện tích 809 ha. Hiện 
nay chưa có nhà máy khai thác nước mặt phục vụ cấp nước cho công nghiệp. 
Đến 2025, trên toàn lưu vực sẽ có 15 khu công nghiệp, 29 cụm công nghiệp 
tập trung với tổng diện tích khoảng 4.361 ha. Trong điều kiện nguồn nước ngầm 
trên lưu vực có hạn, nước m

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_xay_dung_phuong_phap_xac_dinh_dong_chay_t.pdf
  • pdfLuan_an.tomtat_bao_ve_cap_Vien_En_V3.pdf
  • pdfLuan_an.tomtat_bao_ve_cap_Vien_VN.pdf
  • pdfTieng Anh.pdf
  • pdfTieng Viet.pdf