Luận án Phân tích đa dạng sản xuất nông nghiệp đến thu nhập và an toàn lương thực nông hộ vùng đồng bằng sông Cửu Long

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Phân tích đa dạng sản xuất nông nghiệp đến thu nhập và an toàn lương thực nông hộ vùng đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Phân tích đa dạng sản xuất nông nghiệp đến thu nhập và an toàn lương thực nông hộ vùng đồng bằng sông Cửu Long

CL giữ ổn định khoảng 4 triệu ha (từ năm 2010 đến 2018), trong khi diện tích các cây trồng nhƣ: bắp, khoai lang và các loại rau màu đều tăng tùy thuộc giá cả thị trƣờng theo từng giai đoạn nhất định. Đặc biệt là diện tích NTTS đã tăng đáng kể (từ 743 ngàn ha năm 2010 lên 798 ngàn ha năm 2018) ở hầu hết các tỉnh ven biển (Tổng Cục Thống Kê, 2010 đến 2018) và trở thành ngành SX chủ lực ở các vùng ven biển. Kết quả khảo sát cũng cho thấy việc cải tạo vƣờn cây tạp và chuyển đổi trên vƣờn CAT theo hƣớng đáp ứng nhu cầu thị trƣờng nên đạt đƣợc hiệu quả KT cao hơn (vƣờn xoài, sầu riêng, nhãn và các cây có múi,) ở vùng Trung tâm và vùng Ngập lũ cao, do đƣợc qui hoạch các hệ thống đê bao kiểm soát lũ. Những vùng thuận lợi cho thâm canh cây lúa thì chuyển đổi sang các mô hình liên kết SX lúa CLC, tiêu chuẩn VietGAP, SX lúa giống với các hình thức Tổ hợp tác, HTX hoặc các cánh đồng mẫu lớn. Nhƣ vậy, việc chuyển dịch theo hƣớng đa dạng trong SXNN thời gian qua đã góp phần ổn định ATLT, nhƣng cũng nâng cao đƣợc giá trị trong SXNN của vùng. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự đa dạng trong SXNN vùng đồng bằng là nhằm tăng cƣờng các hình thức liên kết dựa trên lợi thế tài nguyên của vùng sinh thái NN. Kết quả khảo sát chỉ ra sự liên kết giữa các vùng sinh thái ở ĐBSCL với thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng Đông Nam Bộ, hoặc với 60 các vùng miền khác trong khu vực đều dựa trên ƣu thế đa dạng các sản phẩm NN của vùng (nhƣ là thƣơng hiệu hàng hóa địa phƣơng) và sự chuyển dịch nguồn lực LĐ. Cụ thể, trong lĩnh vực SXNN là đẩy mạnh chính sách liên kết vùng, 4 Nhà và SX theo chuỗi giá trị hàng hóa (Nguyễn Văn Sánh, 2009 và 2016). Các mô hình SX đã tạo ra bƣớc phát triển mới theo hƣớng chuỗi giá trị hàng hóa NN nên cải thiện các nguồn thu nhập cho ND vùng nông thôn, đồng thời có sự chuyển dịch sang LĐ công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Nhƣ vậy, các số liệu nghiên cứu chuyển đổi đa dạng trong SXNN vùng ĐBSCL đang là tiền đề cho các chính sách phát triển NN, KT trang trại và các hình thức hợp tác theo chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc, thông qua việc chuyển dịch phá thế độc canh trong canh tác cây lúa. 4.1.5 Các yếu tố tác động đa dạng trong sản xuất nông nghiệp Kết quả từ phân tích hàm hồi qui đa biến ở nghiên cứu này cho thấy có nhiều yếu tố (các biến) tác động thuận „+‟ và nghịch „-‟ đến sự đa dạng trong SXNN trong nông hộ theo từng vùng sinh thái ở các mức độ khác nhau (Bảng 4.3). Trong đó, biến “Số LĐ chính và số nguồn thu nhập” có tác động thuận „+‟ khác biệt ở mức ý nghĩa thống kê đến sự đa dạng trong SXNN nông hộ ở hầu hết các vùng sinh thái, nhƣng một số biến khác lại có tác động nghịch „-‟ đến sự đa dạng trong SXNN. Cụ thể, trong vùng Ngập lũ cao biến “Số LĐ chính và số nguồn thu nhập” có ảnh hƣởng thuận đến đa dạng trong SXNN ở mức ý nghĩa thống kê; có nghĩa trong điều kiện các biến độc lập khác cố định khi các biến này tăng lên 1 đơn vị thì sự đa dạng trong SXNN trong hộ tăng lên 0,1 đến 0,68 lần (tƣơng ứng). Tuy nhiên, các biến “Kinh nghiệm SX chủ hộ, thu nhập phi NN và thu ngoài nông trại” có tác động nghịch đến sự đa dạng trong SXNN. Kết quả khảo sát cho thấy thâm canh cây lúa là hoạt động chính của những nông hộ có qui mô diện tích đất canh tác lớn trong vùng Ngập lũ cao; cho nên chủ hộ càng lớn tuổi càng có khuynh hƣớng ƣu tiên trồng lúa hơn những cây trồng khác, nhƣng thâm canh cây lúa nhƣ hiện tại không làm tăng thu nhập nông hộ; điều này có liên quan đến việc áp dụng kỹ thuật trong canh tác lúa. Tƣơng tự, các hoạt động tạo thu nhập từ phi NN và ngoài nông trại càng nhiều thì tác động ngƣợc đến sự đa dạng trong SXNN; tại vì những hoạt động này có chi phối đến nguồn lực LĐ của hộ. Tóm lại, các yếu tố ảnh hƣởng thông qua mô hình có 5 biến có ý nghĩa là kinh nghiệm SX, số LĐ chính, thu nhập phi NN, thu nhập ngoài nông trại và số nguồn thu nhập có ảnh hƣởng đến sự đa dạng trong SXNN trong nông hộ vùng Ngập lũ cao. 61 Bảng 4.3: Phân tích các yếu tố tác động đến đa dạng trong sản xuất nông nghiệp ở ba vùng sinh thái ĐBSCL Các biến độc lập Ngập lũ cao Trung tâm Ven biển Hằng số (Constant) 0,407ns 0,572ns 0,771* Tuổi chủ hộ (năm) 0,002ns 0,002ns 0,016ns Học vấn chủ hộ (lớp) 0,008ns -0,047ns 0,006ns Kinh nghiệm SX chủ hộ (năm) -0,017** -0,001ns 0,003ns Lao động chính (ngƣời) 0,097* 0,053* 0,118* Diện tích đất (ha/hộ) -0,014ns 0,044ns 0,006ns Thu nhập SXNN (triệu đồng) -0,430ns -0,001ns 0,001ns Thu nhập phi NN (triệu đồng) -0,004*** -0,003* -0,006*** Thu ngoài nông trại (triệu đồng) -0,015*** -0,014** -0,014*** Thu nhập khác (triệu đồng) -0,002ns -0,007* -0,027*** Số nguồn thu nhập 0,684*** 0,587*** 0,694*** Chỉ số SID (thu nhập) -0,229ns -0,029ns 0,044ns Số quan sát 105 133 71 Hệ số (R2) 0,724 0,581 0,792 Khác biệt (P-value) 0,000 0,000 0,000 Ghi chú: Sự khác biệt ý nghĩa của kiểm định phƣơng sai: ns (không khác biệt); * (mức ý nghĩa 10%); ** (mức ý nghĩa 5%); *** (mức ý nghĩa 1%). Ở vùng Trung tâm, biến “Số LĐ chính và số nguồn thu nhập” cũng có tác động thuận đến đa dạng trong SXNN nông hộ ở mức ý nghĩa thống kê; nghĩa là trong điều kiện các biến độc lập khác cố định khi các biến này tăng lên 1 đơn vị thì sự đa dạng trong SXNN trong nông hộ tăng lên tƣơng ứng 0,1 và 0,58 lần. Tuy nhiên, các biến về hoạt động “Thu nhập phi NN, ngoài nông trại và thu nhập khác” có hệ số âm (-); nghĩa là khi nông hộ thực hiện thêm các hoạt động này có ảnh hƣởng làm giảm sự đa dạng trong SXNN của hộ. Ở vùng nông thôn hiện nay, hoạt động tạo thu nhập nhƣ: phi NN, ngoài nông trại và nguồn khác đóng vai trò quan trọng làm tăng thu nhập cho nông hộ (Mai Văn Nam, 2008), nhƣng chi phối các nguồn lực dẫn đến giảm sự đa dạng trong SXNN của hộ. Nhƣ vậy, thông qua mô hình hồi qui cho thấy 5 biến có ý nghĩa là số LĐ chính, hoạt động phi NN, ngoài nông trại, nguồn thu khác và số nguồn thu nhập có ảnh hƣởng lớn đến đa dạng trong SXNN ở vùng Trung tâm. Ở vùng Ven biển, kết quả phân tích chỉ ra biến “Số LĐ chính và số nguồn thu nhập” có tác động đến sự đa dạng trong SXNN ở mức ý nghĩa thống kê. Trong điều kiện các biến độc lập khác cố định, khi các biến này tăng lên 1 đơn vị thì sự đa dạng trong SXNN cũng tăng lên tƣơng ứng 0,12 và 0,69 lần. Tuy nhiên, các biến số sau “Thu nhập phi NN, ngoài nông trại và thu nhập khác” có hệ số âm (-) nên khi nông hộ có thêm các hoạt động này làm giảm sự 62 đa dạng trong SXNN của hộ. Thông qua mô hình phân tích này cho thấy có 5 biến tác động đến sự đa dạng trong SXNN nông hộ là biến LĐ, hoạt động phi NN, ngoài nông trại, nguồn thu khác và số nguồn thu nhập. Điều này cho thấy đa dạng trong SXNN ở vùng Ven biển có sự chi phối bởi các nguồn lực trong nông hộ nên có ảnh hƣởng đến sự đa dạng trong SXNN. 4.2. NGUỒN VỐN SINH KẾ VÀ KINH TẾ NÔNG HỘ 4.2.1 Phân tích nguồn vốn sinh kế hộ 4.2.1.1 Nguồn nhân lực trong nông hộ Nguồn vốn nhân lực có vai trò quan trọng tác động đến sự đa dạng trong SXNN ở nông hộ; cũng thông qua đó giúp nông hộ thích ứng tốt với các yếu tố dễ bị tổn thƣơng góp phần đảm bảo ATLT, đồng thời tạo ra nhiều hoạt động tăng thu nhập hộ. Số liệu khảo sát ở Bảng 4.4 cho thấy nhân khẩu bình quân ở các vùng khảo sát khoảng 5 ngƣời/hộ; trong đó, vùng Trung tâm có số nhân khẩu cao hơn vùng Ngập lũ cao và Ven biển (tƣơng ứng; 4,7 so với 4,5 và 4,1 ngƣời/hộ). Tuy nhiên, giữa các mô hình SX trong mỗi vùng sinh thái thì số nhân khẩu không khác biệt nhau. Số LĐ trong SXNN bình quân khoảng 2 ngƣời/hộ (chiếm 50% nhân khẩu/hộ), nhƣng vùng Trung tâm có khuynh hƣớng cao hơn vùng Ngập lũ cao và Ven biển (2,7 so với 2,3 và 2,5 ngƣời/hộ); Nếu so sánh giữa các mô hình SX trong cùng một vùng sinh thái thì không có sự khác biệt về số LĐ. Kết quả này cho thấy nguồn lực LĐ trong SXNN có tác động đến sự đa dạng hóa SX ở cấp độ vùng hơn là các mô hình SX riêng lẽ trong từng vùng. Điều này đã đƣợc thảo luận ở phần trên về sự tƣơng quan thuận giữa đa dạng trong SXNN với với nguồn lực LĐ trong nông hộ, và sẽ đƣợc tiếp tục thảo luận ở các phần tiếp theo trong nghiên cứu này. Do vậy, thông qua sự đa dạng trong SXNN giúp nông hộ sử dụng tốt nguồn lực LĐ trong nông thôn, nơi mà tình trạng thiếu việc làm còn rất phổ biến (Ngân Hàng Thế Giới, 2005), và nguồn nhân lực LĐ gia đình cao còn giúp sự chuyển đổi đa dạng mô hình SXNN đƣợc thuận lợi hơn (thí dụ: ở vùng Trung tâm đa dạng hơn vùng Ngập lũ cao và Ven biển). 63 Bảng 4.4: Nguồn nhân lực nông hộ và thông tin chủ hộ theo vùng sinh thái và mô hình sản xuất Vùng sinh thái và mô hình SX Thành viên nông hộ Chủ hộ Số khẩu (ngƣời) Số LĐ (ngƣời) Tuổi (năm) Học vấn (lớp) Kinh nghiệm (năm) Ngập lũ cao 4,5±0,2 2,3±0,1 49,9±1,3 7,0±0,4 11,4±0,6 1) SX lúa 4,5±0,2 2,3±0,2 51,7±1,9 6,9±0,6 14,8 a ±0,6 2) Hoa màu 4,2±0,3 2,3±0,2 47,7±1,3 7,0±0,6 7,0 c ±1,0 3) SX lúa giống 4,6±0,3 2,4±0,3 49,6±4,4 7,2±1,1 11,1b±1,2 Khác biệt ns ns ns ns ** Trung tâm 4,7±1,2 2,7±0,1 55,6±1,4 5,8±0,3 13,2±1,0 4) SX lúa 4,9±0,3 3,0±0,3 56,5±1,7 6,5±0,5 19,2 a ±2,0 5) Hoa màu 4,9±0,3 2,4±0,2 52,8±3,6 5,4±0,7 10,0 b ±1,5 6) Vƣờn CAT 4,7±0,3 2,7±0,2 57,2±3,4 5,6±0,7 13,8b±1,8 7) SX lúa CLC 4,3±0,3 2,8±0,2 55,3±2,5 5,5±0,6 8,7 b ±1,3 Khác biệt ns ns ns ns ** Ven biển 4,1±0,2 2,5±0,2 48,4±0,2 5,9±0,5 8,4±1,5 8) Tôm-lúa 4,1±0,2 2,5±0,2 48,3±2,7 6,5±0,5 11,3 a ±1,8 9) Tôm chuyên 4,2±0,3 2,6±0,2 48,5±1,9 6,0±0,5 6,4 b ±1,0 Khác biệt ns ns ns ns ** Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng một cột theo sau ký tự (a, b hoặc c) thì khác biệt nhau qua phép thử Duncan và T-test. Sự khác biệt ý nghĩa của kiểm định phƣơng sai: ns (không khác biệt); * (mức ý nghĩa 5%); ** (mức ý nghĩa 1%). Kết quả khảo sát cho thấy độ tuổi và trình độ học vấn chủ hộ không khác biệt nhiều giữa vùng sinh thái và các mô hình SX khác nhau. Số liệu phân tích ở Bảng 4.4 cho biết độ tuổi bình quân của chủ hộ trong khoảng 50 tuổi, trong ngƣỡng thể trạng sức khỏe LĐ tốt nhất, nhƣng ở vùng Trung tâm độ tuổi có cao hơn 2 vùng còn lại (56 tuổi so với vùng Ngập lũ cao và Ven biển tƣơng đƣơng 50 tuổi). Mặc dù vậy, ở mỗi vùng sinh thái thì nhóm hộ chuyển dịch đa dạng hóa SX thƣờng là những chủ hộ trẻ tuổi hơn so với nhóm SX lúa hàng hóa. Thí dụ: Độ tuổi trung bình nhóm chủ hộ trồng hoa màu, SX lúa giống và nuôi tôm có khuynh hƣớng trẻ tuổi hơn các nhóm SX lúa thông thƣờng và nhóm hộ làm vƣờn. Các nghiên cứu trƣớc đây cho rằng độ tuổi chủ hộ có liên quan đến các quyết định chọn lựa các mô hình SXNN phù hợp trong nông hộ (Dƣơng Ngọc Thành và ctv., 2005 và 2008). Cụ thể, nhóm chủ hộ lớn tuổi thƣờng chọn các mô hình SX ổn định nhƣ vƣờn CAT, trong khi những ngƣời trẻ chọn mô hình có cơ hội cho thu nhập cao (nhƣ: trồng màu, lúa CLC hay lúa giống). Tƣơng tự, bình quân trình độ học vấn của chủ hộ đƣợc phỏng vấn ở mức cấp 1 (tƣơng đƣơng lớp 6-7), ở cấp độ này đƣợc đánh giá là đủ năng lực để tiếp thu và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào SXNN. Mặc dù kết quả điều tra cho biết trình độ học vấn chủ hộ không khác biệt rõ ràng giữa các nhóm hộ thực hiện các mô hình SXNN khác nhau trong mỗi vùng sinh thái, nhƣng kết quả từ các cuộc thảo luận nhóm nông hộ cho thấy năng lực của những chủ hộ trẻ tuổi và trình độ học vấn khá thì rất mạnh dạn trong các quyết định chuyển dịch sang các mô 64 hình SXNN mới hơn (thí dụ: vùng Ngập lũ cao và Ven biển). Kết quả khảo sát thực tế cũng ghi nhận sự chuyển dịch các mô hình SX diễn ra mạnh mẽ từ khi Chính phủ thực hiện các dự án thủy lợi lớn tại các địa phƣơng (nhƣ: xây đê bao chống lũ, ngọt hóa vùng bán đảo Cà Mau,...) thì những hộ có năng lực tận dụng cơ hội này để thực hiện chuyển dịch SX nhằm cải thiện thu nhập, cũng nhƣ đeo đuổi các chiến lƣợc mƣu sinh của họ. Về mặt kinh nghiệm trong thực hiện các mô hình SXNN thì có sự khác biệt theo vùng sinh thái và các mô hình SX. Ở vùng Trung tâm đồng bằng thực hiện chuyển dịch trong SXNN sớm nhất nên nông hộ có nhiều năm kinh nghiệm thực mô hình hơn so với vùng Ngập lũ cao và Ven biển (13 năm so với 11 và 8 năm, tƣơng ứng). Trong mỗi vùng sinh thái thì những nhóm nông hộ chuyển đổi sang các mô hình canh tác mới trong khoảng thời gian ngắn hơn so với SX lúa hàng hóa. Bảng số liệu 4.4 cho thấy kinh nghiệm chủ hộ nuôi tôm chuyên khoảng 5 năm, trồng hoa màu (7-10 năm), SX lúa CLC (9 năm) và làm lúa giống (11 năm); Trong khi đó, nhóm nông hộ làm vƣờn và SX lúa hàng hóa từ 14 đến 20 năm. Kết quả này phù hợp với các kết quả đánh giá của các chuyên gia về lĩnh vực NN thông qua các đợt phỏng vấn KIP và PRA tại các điểm nghiên cứu, là sự chuyển dịch mạnh mẽ sang các mô hình SXNN mới vùng ĐBSCL trong khoảng 10 năm trở lại và nhóm đối tƣợng thực hiện nhiều là những ngƣời trẻ tuổi có năng lực SX. 4.2.1.2 Phân tích nguồn vốn tự nhiên trong nông hộ Kết quả khảo sát cho thấy nguồn tài nguyên đất đai mà nông hộ sử dụng cho hoạt động sinh kế của họ và cơ cấu sử dụng đất/hộ có khác nhau theo vùng sinh thái (Bảng 4.5). Tổng diện tích đất/hộ cao gấp 2 lần ở vùng Ngập lũ cao so với vùng Trung tâm và Ven biển (tƣơng ứng 2,69 ha so với 1,63 và 1,26 ha). Tƣơng quan với hiện trạng sở hữu đất đai theo vùng, thì cơ cấu sử dụng đất nông hộ ở vùng Ngập lũ cao là đất ruộng (canh tác lúa chiếm 93% diện tích so với vùng Trung tâm và Ven biển chiếm khoảng 80%). Điều này cũng đƣợc lý giải cho những nông hộ sở hữu đất lớn mà nguồn lực LĐ hạn chế (nhƣ vùng Ngập lũ cao) vẫn duy trì SX lúa (nhƣ đề cập ở phần trên) nhờ vào tỷ lệ áp dụng cơ giới hóa cao làm giảm công LĐ trong SX lúa so với các mô hình khác. Trong khi ở vùng Trung tâm chuyển đổi đất ruộng sang hoa màu, vƣờn CAT hay lúa CLC, hoặc ở vùng Ven biển chuyển sang nuôi tôm chuyên có sử dụng bờ bao để trồng màu và cỏ kết hợp chăn nuôi bò cần nhiều công LĐ gia đình hơn (Võ Văn Hà và Vũ Anh Pháp, 2017). Nhƣ vậy, sự đa dạng trong SXNN không những phù hợp với lợi thế sinh thái và nguồn nhân lực hộ, mà còn cải thiện hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên đất đai trong NN (Đặng Kiều Nhân, 2016). Nhìn chung, trong vùng Ngập lũ cao những hộ sở hữu ruộng đất lớn thì 65 phát triển mô hình canh tác lúa và SX lúa giống cung cấp cho các vùng đồng bằng; trong vùng có tƣới tiêu chủ động (vùng Trung tâm) thì đa dạng trong SXNN đáp ứng thị trƣờng ở quy mô cộng đồng (SX lúa CLC, vƣờn CAT, trồng hoa màu kết hợp với công nghiệp chế biến sau thu hoạch) để hỗ trợ lại vùng Ngập lũ cao và Ven biển; và trong vùng Ven biển thì đa dạng mô hình SXNN thích nghi với mặn và khô hạn (thủy sản luân canh với trồng lúa, rau màu và chăn nuôi bò) thay vì nuôi tôm độc canh bồi lắng phù sa, chất thải ra sông rạch gây ô nhiễm nguồn nƣớc. Bảng 4.5: Tình trạng sở hữu tài nguyên đất nông hộ theo vùng sinh thái và mô hình sản xuất (Đvt: ha) Vùng sinh thái và mô hình SX Đất thổ cƣ (ha) Đất vƣờn/ bờ (ha) Đất ruộng (ha) Tổng cộng (ha) Ngập lũ cao 0,07±0,01 0,04±0,01 2,58±0,3 2,69±0,3 1) SX lúa 0,07±0,01 0,03±0,02 3,11 a ±0,4 3,21 a ±0,4 2) Hoa màu 0,07±0,01 0,03±0,02 1,39 b ±0,3 1,49 b ±0,3 3) SX lúa giống 0,09±0,02 0,05±0,04 3,57a±0,7 3,71a±0,8 Khác biệt ns ns ** ** Trung tâm 0,07±0,01 0,13±0,02 1,44±0,2 1,64±0,2 4) SX lúa 0,08±0,01 0,06 b ±0,02 1,25±0,2 1,39±0,2 5) Hoa màu 0,06±0,01 0,04 b ±0,02 1,60±0,6 1,70±0,6 6) Vƣờn CAT 0,08±0,02 0,30a±0,05 1,54±0,2 1,92±0,3 7) SX lúa CLC 0,06±0,01 0,10 b ±0,04 1,46±0,3 1,62±0,3 Khác biệt ns ** ns ns Ven biển 0,09±0,01 0,11±0,04 1,05±0,2 1,26±0,2 8) Tôm-lúa 0,09±0,01 0,15±0,06 0,86±0,1 1,09±0,1 9) Tôm chuyên 0,10±0,01 0,07±0,03 1,27±0,2 1,44±0,2 Khác biệt ns ns ns ns Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng một cột theo sau ký tự (a, b hoặc c) thì khác biệt nhau qua phép thử Duncan và T-test. Sự khác biệt ý nghĩa của kiểm định phƣơng sai: ns (không khác biệt); * (mức ý nghĩa 5%); ** (mức ý nghĩa 1%). Số liệu phân tích cũng cho thấy nguồn tài nguyên đất đai theo nhóm hộ thực hiện các mô hình SX trong mỗi vùng sinh thái có sự khác biệt nhau (Bảng 4.5). Ở vùng Ngập lũ cao, nhóm hộ thâm canh lúa và SX lúa giống có diện tích đất lớn hơn (3,21 ha và 3,71 ha/hộ, tƣơng ứng) so với nhóm hộ trồng hoa màu (1,49 ha); bởi vì vùng này có hệ thống đê bao kiểm soát lũ hoàn chỉnh nên hộ đất ít có khuynh hƣớng chuyển sang đa dạng loại hoa màu để tăng hệ số sử dụng đất và nguồn thu nhập so với trồng lúa hàng hóa thông thƣờng (Dung et al., 2012). Ở vùng Trung tâm, nhóm nông hộ làm vƣờn, trồng hoa màu và SX lúa CLC cũng sở hữu diện tích đất lớn hơn nhóm hộ canh tác lúa thông thƣờng. Kết quả này phù hợp với các nhận định của ngành NN tại các địa phƣơng là những hộ đất lớn dễ thay đổi đa dạng mô hình SXNN, trong khi những hộ đất nhỏ vẫn duy trì SX lúa hàng hóa, tại vì trồng lúa cho thu nhập ổn định. Ở vùng 66 ven biển không có sự khác biệt lớn về diện tích đất giữa các nhóm hộ, nhƣng nhiều hộ nuôi tôm chuyên là những hộ khá/giàu có vốn đầu tƣ nên chấp nhận sự thay đổi hơn so với nhóm hộ thực hiện mô hình tôm-lúa có mức vốn đầu tƣ thấp và ổn định hơn (Be et al., 2003; Võ Văn Hà và ctv., 2016). Nhƣ vậy, việc đa dạng mô hình SXNN theo điều kiện sinh thái từng vùng, nguồn lực đất đai và LĐ trong nông hộ để tiếp cận đến các cơ hội của thị trƣờng, cũng nhƣ tận dụng các cơ chế chính sách hỗ trợ tại các địa phƣơng. 4.2.1.3 Phân tích nguồn vốn tài chính nông hộ Kết quả phân tích số liệu ở Bảng 4.6 cho thấy tình trạng nông hộ thiếu vốn SX khác nhau tùy theo vùng và mô hình SX. Tỷ lệ hộ thiếu vốn SX cao nhất ở vùng Ngập lũ cao và Trung tâm so với vùng Ven biển (69% và 61% so với 55% tƣơng ứng). Trong mỗi vùng sinh thái thì nhóm hộ chuyển dịch đa dạng mô hình SXNN có tỷ lệ thiếu vốn SX cao hơn ở nhóm SX lúa hàng hóa. Cụ thể, nhóm hộ trồng hoa màu, vƣờn, SX lúa giống hay lúa CLC ở vùng Ngập lũ cao và Trung tâm đều có tỷ lệ thiếu vốn cao hơn nhóm SX lúa thƣờng. Kết quả này cũng cho thấy sự chuyển đổi các mô hình SXNN cần nhiều vốn để đầu tƣ cải tạo SX hơn so với SX lúa hàng hóa phù hợp với kết quả nghiên cứu của Dƣơng Ngọc Thành và ctv. (2008) và Võ Văn Hà (2019). Riêng ở vùng Ven biển thì tình trạng thiếu vốn chiếm tỷ lệ cao ở nhóm tôm-lúa so với nuôi tôm chuyên canh; vì nuôi tôm chuyên là những hộ khá/giàu có vốn, trong khi tôm- lúa có thu nhập ổn định ở nhóm hộ trung bình. Nhƣ vậy, hiện trạng thiếu vốn trong nông hộ nhƣ phân tích là trở ngại trong chuyển dịch các mô hình SXNN theo vùng sinh thái. Bảng 4.6: Đánh giá tình trạng tài chính và vay vốn trong nông hộ theo vùng sinh thái và mô hình sản xuất Vùng sinh thái và mô hình SX Thiếu vốn SX (%) Vay vốn SX (%) Lƣợng tiền vay (triệu) Nợ quá hạn (%) Ngập lũ cao 69 69 165 59 1) SX lúa 60 63 283 51 2) Hoa màu 85 81 74 77 3) SX lúa giống 64 64 85 43 Trung tâm 61 59 98 51 4) SX lúa 54 46 45 46 5) Hoa màu 63 69 43 63 6) Vƣờn CAT 58 58 100 42 7) SX lúa CLC 70 65 175 57 Ven biển 55 67 102 33 8) Tôm-lúa 67 67 65 41 9) Tôm chuyên 42 67 145 25 Nguồn: Số liệu điều tra nông hộ 67 Kết quả phân tích cho thấy việc vay vốn phục vụ SX khác nhau theo vùng và mô hình SX. Tỷ lệ hộ vay vốn từ các nguồn để đầu tƣ SX khá cao từ 55 đến 69% số hộ và tình trạng nợ vay quá hạn cũng khá phổ biến ở cả 3 vùng sinh thái. Trong mỗi vùng sinh thái thì những hộ chuyển dịch mô hình SX lại có tỷ lệ vay vốn cao hơn nhóm SX lúa hàng hóa; nhƣ đƣợc thảo luận ở trên là thay đổi các mô hình SX cần có nhiều tiền vốn đầu tƣ hơn. Số lƣợng tiền vay bình quân ở các hộ vay vốn khác nhau từ 98 đến 165 triệu đồng/năm và con số này tƣơng đối cao cho hộ SXNN, nhƣng việc vay và sử dụng vốn bao gồm tất cả các hoạt động trong nông hộ (nhƣ SXNN, phi NN và chi tiêu hộ). Số liệu phân tích trong nông hộ ở vùng Ngập lũ cao có lƣợng tiền vay nhiều hơn các vùng khác; Điều này có liên quan những hộ SX lúa hàng hóa tại vùng này cần lƣợng tiền vay nhiều hơn nhóm chu
File đính kèm:
luan_an_phan_tich_da_dang_san_xuat_nong_nghiep_den_thu_nhap.pdf
Quyen_tomtat_LATS-VVHa Tieng Anh.pdf
Quyen_tomtat_LATS-VVHa TiengViet.pdf
Trang thong tin LATS-English-VVHa.docx
Trang thong tin LATS-TiengViet-VVHa.docx