Luận án Phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa trên động thái tài nguyên nước ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long

Luận án Phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa trên động thái tài nguyên nước ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 1

Trang 1

Luận án Phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa trên động thái tài nguyên nước ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 2

Trang 2

Luận án Phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa trên động thái tài nguyên nước ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 3

Trang 3

Luận án Phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa trên động thái tài nguyên nước ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 4

Trang 4

Luận án Phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa trên động thái tài nguyên nước ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 5

Trang 5

Luận án Phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa trên động thái tài nguyên nước ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 6

Trang 6

Luận án Phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa trên động thái tài nguyên nước ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 7

Trang 7

Luận án Phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa trên động thái tài nguyên nước ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 8

Trang 8

Luận án Phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa trên động thái tài nguyên nước ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 9

Trang 9

Luận án Phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa trên động thái tài nguyên nước ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 183 trang nguyenduy 30/05/2025 70
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa trên động thái tài nguyên nước ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa trên động thái tài nguyên nước ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long

Luận án Phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa trên động thái tài nguyên nước ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long
lợi và mạng lưới quan trắc tài nguyên nước mặt (3); 
Cơ chế quản lý và chia sẻ dữ liệu nguồn nước mặt (4) được thu thập thông qua thảo 
luận với chuyên gia quản lý địa phương. 
Các khía cạnh được đánh giá dựa trên các nguyên tắc của bộ tiêu chí “Mười khối 
đánh giá tài nguyên nước ” (van Rijswick et al., 2014) tại các khối 1: “Các kiến thức 
về hệ thống tài nguyên nước ” (áp dụng cho khía cạnh , khối 2: “Các thảo luận về giá 
trị, nguyên tắc và chính sách”, khối 5: “Trách nhiệm, quyền hạn và ý nghĩa”, khối 6: 
“Quy định và thoả thuận” và khối 8: “Kỹ thuật và quan trắc”. 
c. Phỏng vấn cấu trúc nông hộ 
Phỏng vấn trực tiếp 120 nông hộ (30 hộ/huyện) ở Ngã Năm, Trần Đề, Mỹ Xuyên 
và Vĩnh Châu để đánh giá và phân tích hiệu quả triển khai, áp dụng các chính sách và 
thể chế về tài nguyên nước mặt; phân tích hiệu quả sử dụng nước áp dụng của các mô 
hình canh tác nông nghiệp và nhận thức của cộng đồng về tác động của việc sử dụng 
và khai thác nguồn nước đến sự bền vững nguồn tài nguyên này (Bảng 3.6). Việc 
phỏng vấn nông hộ cho mục tiêu này được thực hiện liên tục trong mục tiêu này nhưng 
độc lập với phần đánh giá hiệu quả vận hành của hệ thống công trình thuỷ lợi. 
56 
Bảng 3.6: Tiêu chí chọn hộ phỏng vấn để đánh giá công tác 
quản lý tài nguyên nước mặt 
STT Nội dung Tiêu chí chọn Số lượng 
1 Vị trí địa lý 
 Nằm ở các phân vùng sinh thái nông nghiệp 
khác nhau 
120 
2 
Nhóm ngành 
nông nghiệp 
 Chuyên lúa 
 Chuyên thủy sản 
 Xen canh (lúa – màu, lúa – tôm, ...) 
 Màu 
4 
Hệ thống hạ 
tầng thuỷ lợi 
 Nhiều 
 Tương đối 
 Ít 
5 
Cán bộ chuyên 
trách 
 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng 
 Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh 
Sóc Trăng 
 Chi cục thuỷ lợi tỉnh Sóc Trăng 
 UBND 4 huyện 
20 
d. Phỏng vấn nhóm 
Phương pháp phỏng vấn nhóm thực hiện nhằm thu thập và hiểu về hiện trạng 
canh tác nông nghiệp chung của cộng đồng dân cư tại khu vực phỏng vấn trước khi 
phỏng vấn trực tiếp nông hộ. Các nhóm được thành lập một cách ngẫu nhiên từ các cá 
nhân trong cộng đồng (2 ấp/xã) từ 3 – 5 thành viên và thảo luận một cách “không 
chính thống” về mặt địa điểm tổ chức (diễn ra tại các khu vực vườn tược, sân nhà). 
Những thành viên tham gia phỏng vấn sẽ thảo luận các nhóm vấn đề cùng với phỏng 
vấn viên. Trong phương pháp phỏng vấn này, thông tin sẽ được ghi nhận để làm nền 
tảng cho việc phân tích về bối cảnh canh tác chung và những sự thay đổi về động thái 
nguồn tài nguyên nước một cách định tính và tương đối. Tuy nhiên, thông qua cách 
tiếp cận ban đầu này, nhóm nghiên cứu sẽ có cơ sở để xác định các vùng và các nhóm 
đối tượng chịu sự thay đổi về mặt tự nhiên và đặc tính nguồn tài nguyên nước mặt và 
những vùng có sự thay đổi về canh tác nông nghiệp trong những cộng đồng dân cư 
được nghiên cứu. 
3.3.2.4 Đánh giá SWOT 
Phương pháp phân tích điểm mạnh – yếu – cơ hội – thách thức (SWOT) (FME, 
2013) (được áp dụng để phân tích các khía cạnh thuận lợi và khó khăn của hệ thống 
canh tác nông nghiệp được phân tích thông qua các đánh giá của chính người canh tác 
và cán bộ quản lý tại địa phương. Các đánh giá có được từ việc phỏng vấn và thảo luận 
trực tiếp các đối tượng, bao gồm 120 hộ dân và 20 cán bộ quản lý địa phương. 
57 
Đánh giá SWOT hộ dân được thực hiện bằng cách tổng hợp các thuận lợi và hạn 
chế trong canh tác và sử dụng nguồn nước tưới. Đối với các cán bộ quản lý, mỗi cán 
bộ sẽ được cung cấp một bảng đánh giá SWOT về công tác quản lý nguồn nước mặt 
tại địa phương. Bảng đánh giá sẽ gồm các câu hỏi về hiện trạng và động thái nguồn tài 
nguyên nước mặt và sự thay đổi trong hệ thống canh tác nông nghiệp tại từng khu vực 
nghiên cứu. Đánh giá SWOT của cán bộ quản lý sẽ được tích hợp trong phần phân tích 
sự thay đổi động thái tài nguyên nước và tác động đến công tác quản lý nguồn tài 
nguyên nước mặt cũng như đánh giá sự thay đổi phân vùng sinh thái nông nghiệp tại 
địa phương. 
Các thuận lợi và khó khăn được sử dụng làm cơ sở cho việc đánh giá các cơ hội 
và thách thức đối với việc canh tác nông nghiệp, từ đó đề xuất các giải pháp vận hành 
hiệu quả hệ thống công trình thủy lợi. Các đánh giá này được kiểm chứng thông qua 
việc tham vấn 10 chuyên gia khoa học về nông nghiệp và tài nguyên nước từ Đại học 
Cần Thơ và 10 cán bộ quản lý nguồn nước mặt tại sở Nông nghiệp và Phát triển Nông 
thôn, phòng kinh tế/nông nghiệp của các huyện. Kết quả thảo luận và kiểm chứng sẽ 
được tổng hợp để đạt được kết quả phân tích SWOT. 
3.3.3 Xây dựng phân vùng sinh thái nông nghiệp 2017 và phân tích sự thay đổi 
của các phân vùng sinh thái 2013 – 2017 
3.3.3.1 Phỏng vấn chuyên gia (Key Informant Panel - KIP) 
Phỏng vấn cán bộ quản lý cấp tỉnh: Sở Tài nguyên Môi trường, Sở Nông nghiệp 
và Phát triển Nông thônvà cấp huyện: Phòng Nông nghiệp và Phỏng Tài nguyên Môi 
trường được thực hiện nhằm đánh giá tổng quan các tác động của xâm nhập mặn đối 
với các phân vùng sinh thái của tỉnh và từng huyện nghiên cứu. Đồng thời, các định 
hướng về quy hoạch trong nông nghiệp và sử dụng đất đai của tỉnh nói chung và các 
huyện nghiên cứu nói riêng cũng được thu thập thông quan phỏng vấn các cán bộ quản 
lý. 
Kết quả nghiên cứu có được thông qua tham vấn chính quyền địa phương và cơ 
quan sự nghiệp về tài nguyên nước để thu thập các thông tin về quản lý nhà nước và 
vận hành công tác quản lý tài nguyên nước mặt tại địa phương. 
3.3.3.2 Phỏng vấn cấu trúc nông hộ 
Phỏng vấn trực tiếp 120 nông hộ (30 hộ/huyện) ở Ngã Năm, Trần Đề, Mỹ Xuyên 
và Vĩnh Châu để đánh giá và phân tích hiệu quả của công tác quản lý nguồn tài nguyên 
nước mặt đối với vấn đề xâm nhập mặn. Đồng thời, các tác động của xâm nhập mặn 
và các thông tin về khía cạnh sử dụng đất đai đối ở mức độ nông hộ cũng được thu 
thập (Bảng 3.6). 
58 
3.3.3.3 Phỏng vấn nhóm 
Phương pháp phỏng vấn nhóm thực hiện nhằm thu thập thông tin về biến động 
mặn tại từng vùng sinh thái cũng như các tác động từ xâm nhập mặn đến các khía 
cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường của hệ thống canh tác. 
Phỏng vấn nhóm cũng được áp dụng để đánh giá lại các thông tin về sử dụng đất 
đai và đặc tính đất của các vùng sinh thái nông nghiệp đã được xây dựng từ 2013. 
3.3.3.4 Hệ thống thông tin địa lý (Geographic Information System - GIS) 
Công cụ GIS được áp dụng để đánh giá sự thay đổi trong không gian của nguồn 
tài nguyên nước mặt cũng như sự thay đổi hiện trạng sử dụng đất đai ở các giai đoạn 
2005 – 2014. 
Công cụ GIS cũng được sử dụng để xây dựng sự phân bố không gian của các 
phân vùng sinh thái nông nghiệp 2017 và phân tích các thay đổi của các phân vùng 
sinh thái nông nghiệp 2013 và 2017. 
3.3.3.5 Phương pháp phân tích thống kê mô tả 
Các nội dung nghiên cứu: hiện trạng canh tác nông nghiệp, lịch mùa vụ, hiệu quả 
vận hành hệ thống hạ tầng thuỷ lợi sau khi được thu thập từ phỏng vấn nông hộ sẽ 
được phân tích thống kê để ghi nhận các thông tin mang tính đại diện cho vùng nghiên 
cứu. Bên cạnh đó, phương pháp canh tác, khai thác nguồn tài nguyên nước và khía 
cạnh quản lý nguồn tài nguyên nước mặt sẽ được mô tả dưới các dạng: sơ đồ hệ thống 
hoá, các biểu đồ, biểu bảng và trình bày phân tích chi tiết để cung cấp một cách đầy đủ 
và trực quan về từng nội dung nghiên cứu. Động thái mặn được sử dụng làm cơ sở cho 
các đánh giá về tác động đối với hệ thống canh tác ở các khía cạnh kinh tế, xã hội và 
môi trường. Độ mặn được quan trắc tại các trạm trên địa bàn vùng nghiên cứu được 
thu thập và phân tích dưới các giá trị trung bình, lớn nhất, nhỏ nhất và phân tích xu 
hướng là những kết quả phân tích chính của các yếu tố này. Số liệu độ mặn trong giai 
đoạn 2000 – 2016 được thu thập tại Chi cục Thủy lợi tỉnh Sóc Trăng. 
3.4 Xử lý số liệu 
Các số liệu sau khi được thu thập, điều tra PRA, phỏng vấn cấu trúc nông hộ, 
phỏng vấn chuyên gia, phỏng vấn nhóm và phân tích SWOT đã được tổng hợp, phân 
tích bằng các phương pháp: thống kê, so sánh, chồng lắp bản đồ dựa vào các công cụ 
EXCEL, GIS. 
59 
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
4.1 Đặc tính tài nguyên nước mặt và phân vùng sinh thái nông nghiệp 
4.1.1 Hiện trạng tài nguyên nước mặt 
4.1.1.1 Lượng mưa 
Lượng mưa là một yếu tố quyết định đến việc hình thành các vùng sinh thái nông 
nghiệp ở ĐBSCL. Chế độ mưa, sự phân bố mưa, độ sâu ngập, thời gian ngập lũ đã làm 
nên các đặc trưng của các vùng sinh thái nông nghiệp, quyết định đến sự phân bố hệ 
thống canh thác cũng như thời vụ gieo cấy, nuôi trồng của mỗi vùng. 
Tỉnh Sóc Trăng nằm trong vùng nhiệt đới chịu ảnh hưởng gió mùa, hằng năm có 
2 mùa khô và mưa rõ rệt. Mưa thường bắt đầu vào khoảng tháng 5 sau đó lượng mưa 
tăng dần. Mưa đỉnh điểm vào tháng 9 sau đó giảm dần và kết thúc vào tháng 12. Từ 
tháng 12 đến tháng 4 năm sau hầu như không có mưa. 
Tuy nhiên, đối với vùng ven biển của tỉnh, sự phân bố lượng mưa có sự khác biệt 
so với các khu vực nội địa. Tháng 10, 11 là tháng cao điểm của mùa mưa (trễ hơn nội 
địa 1 tháng). Mùa mưa cũng kết thúc trễ hơn (tháng 12 vẫn còn mưa trong khi các khu 
vực nội địa trong thời gian này đã dứt mưa hoàn toàn). 
Theo người dân địa phương thì những năm trước 2010, lượng mưa không có sự 
thay đổi nhiều, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 11. Tuy nhiên, từ 
2010 đến nay, hiện tượng mưa trái mùa xuất hiện nhiều, lượng mưa phân bố không 
đều trong mùa mưa (ở cả 2 vùng, đầu mùa mưa ít và mưa tập trung mưa nhiều vào 
tháng 8 - 10). Trong đó, đặc biệt trong năm 2010, có thời điểm mưa lớn, kéo dài liên 
tục trong khoảng 21 ngày trong tháng 9 gây tình trạng ngập úng cục bộ và làm ảnh 
hưởng đến năng suất lúa trên địa bàn huyện Mỹ Xuyên. Theo Cục thống kê tỉnh Sóc 
Trăng (2011), tổng lượng mưa năm 2010 cao hơn tổng lượng mưa năm 2009 là 472.3 
mm và mùa mưa đến muộn hơn với đỉnh điểm vào tháng 10 (486.3 mm). Tuy nhiên, 
năm 2011, mùa mưa đến sớm và kết thúc sớm hơn so với năm 2009 và 2010 điều này 
gây ảnh hưởng đến quá trình sản xuất của người dân. 
60 
 Kết quả thu thập số liệu thứ cấp về lượng mưa từ năm 2010 – 2015 tại trung tâm 
khí tượng thủy văn Sóc Trăng (Hình 4.1) cho thấy do nắng hạn kéo dài, mùa mưa đến 
trễ gây thiếu nước mặt ngọt sản xuất; đồng thời, vụ lúa bị gieo sạ muộn, ảnh hưởng 
đến vụ mùa sau đó. Ngược lại, lượng mưa trái mùa tăng đột ngột, làm ngập úng diện 
tích hoa màu, ruộng muối và thất thoát thủy sản ở huyện Vĩnh Châu. Bên cạnh đó, 
mưa trái mùa còn làm giảm độ mặn trong nước mặt, gây ảnh hưởng đến việc nuôi tôm 
nước mặt mặn ở Trần Đề, Mỹ Xuyên. Tuy nhiên, đối với những khu vực trồng lúa, hoa 
màu như Kế Sách, Châu Thành, Mỹ Tú, Long Phú...thì mưa trái mùa lại giúp giảm khô 
hạn kéo dài trong những tháng mùa khô. 
Hình 4.1: Lượng mưa bình quân hàng tháng từ 2010 – 2015 tại Sóc Trăng 
4.1.1.2 Hệ thống sông kênh chi phối nguồn tài nguyên nước mặt 
Nước bị nhiễm mặn ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh thái nước ngọt, nhất là hệ sinh 
thái nông nghiệp do hiện tượng sốc, độ mặn vượt quá khả năng chống chịu của các 
loài động thực vật. Khi đó diện tích sản xuất nông nghiệp của tỉnh sẽ bị thu hẹp, năng 
xuất, chất lượng sản phẩm từ nông nghiệp giảm đáng kể, cơ cấu cây trồng sẽ khó thích 
ứng được những tác động bất thường của khí hậu, thời tiết. Vì thế, động thái nguồn tài 
nguyên nước mặt giữ vai trò quan trọng trong việc phân vùng sinh thái nông nghiệp. 
Hệ thống kênh rạch của tỉnh Sóc Trăng chịu tác động mạnh mẽ bởi chế độ thủy 
văn sông Hậu và thủy triều biển Đông. Nguồn nước ngọt cho việc canh tác được cung 
cấp từ sông Hậu (thông qua hệ thống kênh rạch chằng chịt) và từ Hậu Giang (thông 
qua kênh Phụng Hiệp). Nguồn nước mặn phục vụ cho nuôi trồng thủy sản nhận được 
từ sông Hậu, Bạc Liêu (thông qua kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp), sông Mỹ Thanh với 
nguồn nước mặn quanh năm và trực tiếp từ biển Đông. Dựa vào kết quả PRA và thu 
thập số liệu thứ cấp, tác giả đã xây dựng được hướng nước mặt trên hệ thống kênh 
chính của tỉnh Sóc Trăng năm 2013 (Hình 4.2). 
0
100
200
300
400
500
600
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
L
ư
ợ
n
g
 m
ư
a 
(m
m
)
Tháng
2010 2012 2013 2014 2015
61 
Hình 4.2: Hướng nước mặt trên hệ thống kênh chính của tỉnh Sóc Trăng năm 2013 
Vào mùa khô (tháng 12 đến tháng 4 năm sau) khi nước từ thượng nguồn đổ về ít 
kết hợp với thủy triều lên làm cho nước mặn xâm nhập sâu vào nội địa. Thời gian mặn 
bắt đầu từ tháng 1 và mặn nhất vào tháng 2 sau đó giảm dần và kết thúc vào tháng 4. 
Từ những năm 2000 trở lại đây, tình hình xâm nhập mặn tăng dần lên theo các năm cả 
về phạm vi và nồng độ mặn (huyện Kế Sách và Châu Thành). Năm 2013 là một ví dụ 
điển hình, nước mặn 3.8 - 4%o theo sông Hậu xâm nhập lên tới thị trấn Kế Sách. 
Nhằm gia tăng sản lượng lúa bằng cách mở rộng thêm vụ 3 vào các tháng mùa khô, 
một hệ thống đê biển dọc theo bờ biển Đông, đê bao ven sông (dọc sông Hậu và sông 
Mỹ Thanh), cùng với vô số đê nhỏ và cống ngăn mặn đã được phát triển. Các khu vực 
đã có hệ thống đê bao và cống ngăn mặn hoàn chỉnh nên tình trạng nhiễm mặn giảm 
xuống, một số khu vực không còn mặn (thuộc huyện Mỹ Tú). Vào mùa mưa, một số 
vùng thấp của huyện Ngã Năm, Châu Thành và Long Phú thường bị ngập. Nguyên 
nhân là do nước từ thượng nguồn đổ về kết hợp với thủy triều biển Đông. Ngoài ra, 
hiện tượng mưa lớn tập trung và kéo dài gây ngập một số địa phương của huyện Ngã 
Năm và Vĩnh Châu. 
62 
4.1.2 Hiện trạng sử dụng đất đai 
4.1.2.1 Đặc tính đất trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng 
Đặc tính đất không những chỉ ảnh hưởng đến nguồn nước mặt sử dụng cho tưới 
cũng như cung cấp cho ăn uống và sinh hoạt, mà còn ảnh hưởng đến việc phát triển 
sản xuất nông nghiệp. 
Kết quả PRA được sử dụng để kiểm chứng lại bản đồ thổ nhưỡng của tỉnh Sóc 
Trăng năm 2010 do chính quyền địa phương cung cấp cho thấy, đất đai trong tỉnh Sóc 
Trăng có hàm lượng sét cao, chứa nhiều chất hữu cơ. Do nằm trong vùng ảnh hưởng 
mặn, có nhiều vùng trũng, khó tiêu thoát, nên phần lớn đất đai bị nhiễm mặn và chua 
phèn. Diện tích đất mặn và phèn không những chỉ ảnh hưởng đến việc phát triển sản 
xuất nông nghiệp, mà còn ảnh hưởng đến nguồn nước mặt sử dụng cho tưới cũng như 
cung cấp cho ăn uống và sinh hoạt (đất phèn hoạt động và đất phèn tiềm tàng là nguồn 
gốc gây ra nước mặt bị nhiễm phèn), đặc biệt là thời kỳ đầu mùa mưa. 
Từ các kết quả nghiên cứu, tác giả đã xác định được các nhóm đất chính của tỉnh 
Sóc Trăng được trình bày ở Hình 4.3: 
(1) Nhóm đất phù sa: Có hàm lượng phù sa được bồi lắng bởi sông Hậu. Tập 
trung ở phía Đông Bắc của tỉnh thuộc địa bàn huyện Kế Sách, một phần phía Đông 
Nam huyện Châu Thành, phía Tây Bắc của huyện Long Phú và Tây Bắc của TP. Sóc 
Trăng. 
(2) Nhóm đất phèn: Tập trung chủ yếu ở vùng trũng phía Tây Bắc của tỉnh, bao 
gồm phần đất phèn hoạt động sâu trên toàn huyện Ngã Năm, phía Tây Bắc của các 
huyện Mỹ Tú và huyện Châu Thành, phía Tây Nam của huyện Kế Sách. 
(3) Nhóm đất mặn: Bao gồm các dạng đất mặn ít, mặn trung bình, mặn nhiều. 
Nhóm đất này chiếm khoảng 2/3 diện tích của toàn tỉnh. Hiện diện trên toàn huyện 
Vĩnh Châu, huyện Trần Đề, huyện Cù Lao Dung, huyện Mỹ Xuyên và một phần của 
các huyện Long Phú, TP. Sóc Trăng, huyện Mỹ Tú, huyện Thạnh Trị. 
(4) Đất giồng cát: Là những dải đất nằm rải rác trên địa bàn các huyện Châu 
Thành, huyện Mỹ Xuyên, TP. Sóc Trăng và huyện Vĩnh Châu. Trong đó, các dải đất 
giồng cát này tập trung phần nhiều ở vùng ven biển của tỉnh (huyện Vĩnh Châu). 
(5) Đất khác: Bao gồm 2 vùng đất trên địa bàn xã Ba Trinh và Kế An của huyện 
Kế Sách và một phần phía Tây Bắc của huyện Thạnh Trị. Là vùng đất trước đây bị 
nhiễm phèn nhưng hiện nay nhờ có hệ thống công trình thủy lợi mà phèn đã được rửa. 
Theo người nông dân canh tác nơi đây thì đất không còn bị nhiễm phèn. 
63 
Hình 4.3: Thổ nhưỡng tỉnh Sóc Trăng 2013 
4.1.2.2. Các kiểu sử dụng đất đai chính và lịch thời vụ 
Các kết quả có được từ thực hiện PRA và kết hợp với số liệu thứ cấp thu thập tại 
địa phương cho thấy, trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, kiểu sử dụng đất chính là canh tác 
lúa. Trong đó, có những nơi sản xuất lúa 1 vụ lúa - 1 vụ tôm, lúa 3 vụ, 2 vụ lúa - 1 vụ 
tôm, 2 vụ lúa - 1 vụ cá và 2 vụ lúa - 1 vụ màu. Nhìn chung, lịch thời vụ giữa các huyện 
trong tỉnh không chênh lệch nhiều và được bố trí vào các khoảng thời gian thích hợp. 
Để tránh thời gian ngập và xâm nhập mặn ảnh hưởng đến quá trình sản xuất nên những 
vùng ngoài đê và vùng trũng thường làm trễ hơn vùng trong đê và vùng gò 1 tháng. 
Dựa vào các kết quả nghiên cứu tác giả đã xây dựng được bản đồ sử dụng đất đai ở 
tỉnh Sóc Trăng (Hình 4.4). 
(1) Vùng canh tác 1 vụ lúa – tôm: Vụ tôm từ tháng 1 – tháng 7; vụ lúa từ tháng 8 
– tháng 12. 
(2) Vùng canh tác 2 vụ lúa - cá: Vụ 1 (Hè - Thu): Từ tháng 5 – tháng 8; cuối 
tháng 8 là bắt đầu thả cá; vụ 2 (Xuân - Hè): Từ tháng 01 – tháng 04. 
(3) Vùng sản xuất 2 vụ lúa - tôm: Vụ 1 (Hè Thu): giữa tháng 5-cuối tháng 9; Vụ 
2 (Đông - Xuân): cuối tháng 9-tháng 12; thời gian còn lại nuôi tôm. 
(4) Vùng canh tác 2 vụ lúa – 1 vụ màu: Vụ 1 (Hè - Thu): Từ tháng 4 – tháng 7; 
bắt đầu trồng màu; Vụ 2 (Xuân - Hè): Từ 12 – tháng 4. 
64 
(5) Vùng canh tác 3 vụ lúa: Vụ 1 (Hè - Thu): Từ tháng 4 – tháng 7; Vụ 2 (Đông - 
Xuân): Từ tháng 8 – tháng 11; Vụ 3 (Xuân - Hè): Từ tháng 12 – tháng 4. 
Hình 4.4: Sử dụng đất đai tỉnh Sóc Trăng năm 2013 
4.2 Phân vùng sinh thái nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng dựa trên sự thay đổi của 
tài nguyên nước mặt và đặc tính tự nhiên của tài nguyên đất 
Kết quả phân vùng sinh thái nông nghiệp có được thông qua tổng hợp các kết 
quả phân tích các yếu tố: đặc tính nguồn nước, sử dụng đất đai và thổ nhưỡng. Kết quả 
phân tích sau đó được gửi lấy ý kiến của chính quyền và người ra quyết định tại địa 
phương nghiên cứu như một hình thức để kiểm tra và chỉnh sửa. 
4.2.1 Cơ sở phân vùng sinh thái nông nghiệp 
Việc phân vùng sinh thái nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng dựa trên cơ sở phân tích 03 
yếu tố sau: 
(1) Đặc tính nguồn tài nguyên nước mặt theo không gian và thời gian. 
(2) Hệ thống sử dụng đất đai. 
(3) Điều kiện thổ nhưỡng trên địa bàn tỉnh. 
65 
4.2.2 Kết quả xây dựng bản đồ phân vùng sinh thái nông nghiệp tỉnh Sóc 
Trăng 
Kết quả xây dựng bản đồ phân vùng sinh thái nông nghiệp của tỉnh Sóc Trăng 
được phân làm 3 vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau (Hình 4.5). 
Vùng 1: Bao gồm 6 tiểu vùng: 1a, 1b, 1c, 1d, 1e, 1f. Đây là các tiểu vùng nằm 
trong khu vực bị nhiễm mặn quanh năm, có diện tích 43.613,14 ha, chiếm gần 14,83% 
diện tích toàn tỉnh. Toàn bộ diện tích đất canh tác là đất mặn và đất giồng cát và nhìn 
chung cơ cấu sử dụng đất của toàn vùng là lúa - màu kết hợp với thủy sản mặn và một 
phần diện tích là trồng rừng, một phần nhỏ diện tích được sử dụng để làm muối. 
Vùng 2: Phân vùng này có diện tích khoảng 112.433,8 ha chiếm khoảng 38,23% 
diện tích của toàn tỉnh. Phân vùng 2 gồm 14 tiểu vùng: 2a, 2b, 2c, 2d, 2e, 2f, 2g, 2h, 2i, 
2k, 2l, 2m, 2n, 2o. Nước ở các kênh rạch quanh năm có 06 tháng ngọt (từ khoảng đầu 
tháng 8 đến cuối tháng 1 năm sau) và các tháng còn lại trong năm thì nước mặn thay 
thế. Do ảnh hưởng của nồng độ mặn trong nước, và điều kiện đất khác dẫn đến hiện 
trạng canh tác chủ yếu hiện nay của vùng là lúa - màu kết hợp thủy sản nước lợ, một 
phần diện nhỏ tích trồng cây lâu năm và rừng. 
Vùng 3: Phân vùng 3 gồm 16 tiểu vùng: 3a, 3b, 3c, 3d, 3e, 3f, 3g, 3h, 3i, 3k, 3l, 
3m, 3n, 3o, 3p, 3q; chiếm diện tích 432.147,5 ha, tương đương với 46,94% diện tích 
toàn tỉnh và nước ngọt tồn tại trong vùng quanh năm không bị mặn xâm nhập. Nhìn 
chung, với những điều kiện thuận lợi trên có thể nói đây là vùng rất thuận lợi cho phát 
triển nông nghiệp, phù hợp với nhiều mô hình canh tác. Hiện tại trong vùng đang phát 
triển các mô hình như chuyên lúa, 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_phan_vung_sinh_thai_nong_nghiep_dua_tren_dong_thai_t.pdf
  • docxTHONG TIN LUAN AN TIENG VIET-NGUYENTHIMYLINH.docx
  • docxTHONG TIN LUAN AN-TIENG ANH- NGUYEN THI MYLINH.docx
  • pdfTOMTAT-TIENGANH-NGUYENTHIMYLINH.pdf
  • pdfTOMTAT-tiengviet-NGUYENTHIMYLINH.pdf