Luận án Phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản vùng hồ thủy điện Hòa Bình

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản vùng hồ thủy điện Hòa Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản vùng hồ thủy điện Hòa Bình

2.520 60,39 2016 36.623 4.970 3.134 63,06 2017 37.356 5.013 3.451 68,84 2018 38.103 5.142 3.672 71,41 2019 38.865 5.347 4.115 76,96 TĐPTBQ (%) 104,3 113,2 127,8 (Nguồn: Phòng nông nghiệp 5 huyện ven hồ thủy điện Hòa Bình, 2019) Phát triển NTTS vùng hồ thủy điện Hòa Bình đã đóng góp không nhỏ vào chiến lược giải quyết việc làm cho xã hội. Số lượng lao động chính tham gia NTTS cũng tăng lên qua các năm. Bình quân trong giai đoạn 2015 – 2019 số lượng lao động làm việc trong ngành NTTS vùng tăng lên khoảng 13,2%/năm. Nuôi trồng thủy sản phát triển đã tạo công ăn việc làm, giải quyết việc làm ngay tại địa phương, nâng cao thu nhập cho rất nhiều hộ gia đình và lao động. Số lượng lao động làm việc trong ngành NTTS vùng đã tăng từ hơn 4,17 nghìn lao động năm 2015 lên hơn 5 nghìn lao động năm 2019. Như vậy, phát triển NTTS tại các huyện vùng ven hồ đã phát huy được thế mạnh của mình và từng bước đóng góp vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội vùng nông thôn và ven hồ của tỉnh. Tuy nhiên, do diện tích nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến còn chiếm tỷ lệ rất lớn nên chưa sử dụng nhiều lao động và năng suất, hiệu quả sử dụng lao động chưa cao. Do vậy, trong thời gian tới UBND tỉnh, các huyện vùng ven hồ thủy điện Hòa Bình cần có các biện pháp khuyến khích các hộ có điều kiện chuyển sang nuôi thâm canh và bán thâm canh như chính sách hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng, chính sách vay vốn hỗ trợ, tập huấn kỹ thuật cho người nông dân. Chỉ có phát triển NTTS thâm canh và bán thâm canh mới có thể sử dụng nhiều lao động có trình độ và tay nghề cao (qua đào tạo đại học, cao đẳng, đào tạo nghề, tập huấn) hơn trong NTTS; nâng cao năng suất NTTS, hiệu quả kinh tế trong NTTS ở vùng hồ, từ đó phát huy hết tiềm năng và thế mạnh của vùng đối với phát triển NTTS. 3.1.5.2 Về xóa đói giảm nghèo Tình hình giảm nghèo của hộ nuôi thủy sản trên địa bàn vùng hồ thủy điện Hòa Bình thể hiện qua bảng 3.15. Hòa Bình là tỉnh miền núi, tỷ lệ hộ nghèo hàng năm cao hơn bình quân chung của cả nước. Vùng hồ thủy điện Hòa Bình với đặc thù trên 80% dân số của vùng là người dân tộc Mường và Tày, tuy vậy tỷ lệ hộ nghèo trong vùng 90 qua các năm cũng đã giảm đi đáng kể, toàn vùng năm 2015 có 1.685 hộ nghèo (trong đó hộ NTTS nghèo là 448 hộ) đã giảm chỉ còn 1.429 hộ vào năm 2019 (trong đó hộ NTTS là 307 hộ). Điều này cho thấy hiệu quả của việc phát triển NTTS đã dần dần giúp cải thiện đời sống của các hộ nông dân trong vùng. Tỷ lệ hộ nghèo chung toàn vùng và hộ NTTS thuộc diện nghèo liên tục giảm qua từng năm, tốc độ giảm nghèo của tỉnh là 3,2%/năm, tốc độ giảm nghèo của hộ nuôi thủy sản lòng hồ là 3,6%. Từ năm 2015 đến năm 2019 số hộ nghèo NTTS chỉ còn 307 hộ (giảm 141 hộ) chiếm 21,48% tổng số hộ nghèo toàn vùng và hầu hết tập trung ở những vùng có hệ thống đường giao thông đi lại còn khó khăn, trình độ và năng lực nuôi thủy sản còn yếu kém. Qua bảng số liệu cũng cho thấy việc Nuôi trồng thủy sản có khả năng tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho các hộ gia đình nông thôn miền núi nói chung và trên địa bàn tỉnh Hòa Bình nói riêng. Tạo việc làm, nâng cao thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số, là một trong những mục tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Việc phát triển bền vững NTTS trong hộ dân đang và sẽ tạo thêm được nhiều công ăn việc làm cho người dân khi tham gia vào các khâu khác nhau của quá trình nuôi trồng, cung ứng thủy sản cho thị trường. Bảng 3.15: Tình hình giảm nghèo của hộ NTTS trên địa bàn vùng HTĐ Hòa Bình Năm Toàn vùng HTĐ Hộ NTTS của vùng Số hộ Số hộ nghèo Tỷ lệ hộ nghèo (%) Số hộ NTTS Số hộ nghèo Tỷ lệ hộ nghèo (%) 2015 6.848 1.685 24,61 1.712 448 26,17 2016 7.620 1.706 22,39 1.905 443 23,25 2017 9.812 1.901 19,37 2.453 469 19,12 2018 10.240 1.599 15,62 2.560 371 14,5 2019 10.492 1.429 13,62 2.623 307 11,71 (Nguồn: Báo cáo tình hình KTXH các huyện ven hồ thủy điện Hòa bình, 2019) Theo thống kê số liệu điều tra trên địa bàn vùng, tỷ lệ hộ nghèo trong NTTS có xu hướng giảm, đặc biệt trong 2 năm 2018, 2019. Việc phát triển NTTS trên địa bàn tỉnh đã góp phần quan trọng vào công cuộc ổn định trật tự xã hội, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động, giảm thiểu những tiêu cực, tệ nạn xã hội trên địa bàn các huyện ven hồ. NTTS đã tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động nông nghiệp ven hồ thủy điện, góp phần xóa đói giảm nghèo, tránh được tình trạng lao động di cư sang các vùng, tỉnh lân cận gây ra mất cân bằng lực lượng lao động. Điều này cho thấy việc phát triển NTTS vùng hồ thủy điện Hòa Bình đảm bảo tính bền vững về khía cạnh Xã hội. Tuy nhiên công tác này vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức, đánh giá mạnh mẽ, tính ổn định và bền vững chưa cao. 91 3.1.6 Kiểm soát tác động môi trường của nuôi trông thủy sản 3.1.6.1 Mức độ đảm bảo sức tải môi trường của hoạt động nuôi trồng thủy sản vùng hồ thủy điện Hòa Bình Theo kết quả báo cáo chuyên đề “Đánh giá sức tải môi trường hồ thủy điện Hòa Bình” thuộc đề tài “nghiên cứu giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản tại các hồ chứa lớn theo hướng sản xuất hàng hóa hiệu quả và bền vững”: nhóm nghiên cứu đã thực hiện đánh giá sức tải môi trường tại hồ chứa thủy điện Hòa Bình trong năm 2019 theo mùa khô (tháng 11) và mùa mưa (tháng 6) Các yếu tố cần thu thập đánh giá sức tải môi trường bao gồm: xác định diện tích lưu vực của hồ phụ vụ cho NTTS, tổng lượng phát thải Nitơ (TN) và tổng lượng phát thải Phốt pho (TP) vào hồ từ các nguồn như sinh hoạt, chăn nuôi gia súc gia cầm, từ rửa trôi, từ hoạt động NTS, du lịch vận tải thủy vùng lòng hồ và từ nguồn nước đầu vào. Thu thập tính toán các yếu tố thủy động học của hồ như: diện tích lưu vực tự nhiên, diện tích hồ, độ sâu trung bình và dung tích hồ mùa khô và mùa mưa, lượng nước đổ vào hồ trung bình năm, tỷ lệ trao đổi nước hàng năm. Kết quả tính toán cho thấy: tổng lượng thải vào hồ Hòa Bình của TN là 10.781,1 kg/ngày và TP là 9.216,4 kg/ngày. Sức tải môi trường mùa khô tính theo TN là 37.955 kg/ngày và TP là 24.900 kg/ngày; mùa mưa theo TN là 40.042 kg/ngày và TP là 26.556 kg/ngày. Sức tải tính theo năng suất cá nuôi lồng bè ở hồ chứa theo ngưỡng phát triển bề vững (60 %): mùa khô tính theo TN là 18.034 tấn/năm (2,2 tấn/ha/năm) và TP là 181.967 (22,4 tấn/ha/năm); mùa mưa theo TN là 19.917 tấn/năm (2,2 tấn/ha/năm) và theo TP là 210.912 tấn/năm (26,0 tấn/ha/năm). Cụ thể như sau: * Khả năng tải của hồ Hòa Bình mùa khô Khả năng tải của hồ hay sức tải môi trường (Environment Carrying Capacity) được tính toán và thể hiện kết quả trên bảng 3.16. Sức tải môi trường (EC) mùa khô của TN là 37.955 kg/ngày, TP là 24.900 kg/ngày. Với mức phát thải trung bình (PLtb) hiện nay, tỷ lệ đạt tải tương ứng của TN và TP là 28,4%, 37% . Trong NTTS để đảm bảo hệ số nuôi bền vững thì tỷ lệ của các thông số phát thải phải nhỏ hơn 70% so với sức tải môi trường. Nhóm nghiên cứu lựa chọn tỷ lệ 60% là hệ số bền vững, do vậy để đạt ngưỡng phát thải này, lượng phát thải mùa khô của TN sẽ là 22.773 kg/ngày và TP là 24.900. 92 Bảng 3.16: Sức tải môi trường của hồ thủy điện Hòa Bình mùa khô Chỉ tiêu Ký hiệu Mùa khô TN TP Sức tải môi trường (kg/ngày) EC 37.955 24.900 Lượng phát thải hiện tại trung bình (kg/ngày) PLtb 10.781 9.216 Tỷ lệ đạt tải (%) 28,4 37,0 Lượng phát thải (kg/ngày) đạt mức 60% PL60 22.773 14.940 Lượng phát thải được phép vào hồ (kg/ngày) PL60 - PLtb 11,992 5,723 Hệ số phát thải (kg/ngày) PLi 0,665 0,031 Tổng sản lượng cá lồng có thể nuôi (tấn/năm) 18.034 181.967 Sản lượng cá nuôi lồng (tấn/ha/năm) 2,2 22,4 (Nguồn: Viện Kinh tế và quy hoạch thủy sản, 2019) Từ kết quả trên lấy giá trị của lượng phát thải mức 60% (hệ số an toàn là 0,6) trừ đi lượng phát thải hiện tại để có được lượng phát thải được phép đổ vào hồ (đây cũng chính là sức tải môi trường hiện tại của hồ). Sức tải môi trường hiện tại vào mùa khô đối với TN là 11,992 kg/ngày, TP là 5,723 kg/ngày. Theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì hệ số an toàn trong đánh giá sức chịu tải môi trường được lựa chọn từ 0,3 – 0,7 (Thông tư 76/2017/TT-BTNMT, 2017). Tổng sản lượng cá có thể sản xuất trong 1 năm được tính toán bằng cách lấy giá trị lượng phát thải được phép đổ vào hồ (sức tải môi trường hiện tại) chia cho hệ số phát thải của TN (0,665 kg/ngày) và TP (0,031 kg/ngày). Sản lượng cá có thể sản xuất theo sức tải môi trường của TN mùa khô là: 18.034 tấn/năm và theo sức tải môi trường của TP là 181.967 tấn/năm * Khả năng tải của hồ Hòa Bình mùa mưa Khả năng tải của hồ hay sức tải môi trường (Environment Carrying Capacity) được tính toán và kết quả thể hiện trên bảng 3.17. Sức tải môi trường (EC) mùa mưa TN là 40.042 kg/ngày; TP là 26.417 kg/ngày. Với mức phát thải trung bình (PLtb) hiện nay, tỷ lệ đạt tải tương ứng của TN 26,9%, và TP là 34,9%. Trong NTTS để đảm bảo hệ số nuôi bền vững thì tỷ lệ của các thông số phát thải phải nhỏ hơn 70% sơ với sức tải môi trường. Đề tài lựa chọn tỷ lệ 60% là hệ số bền vững, do vậy để đạt ngưỡng phát thải này, lượng phát thải mùa mưa TN là 24.025 kg/ngày và TP là 15.850 kg/ngày. Từ kết quả trên lấy giá trị của lượng phát thải mức 60% trừ đi lượng phát thải hiện tại để có được lượng phát thải được phép đổ vào hồ (đây cũng chính là sức tải môi trường hiện tại của hồ). Sức tải môi trường hiện tại vào mùa mưa TN là 13,244 kg/ngày, TP là 6,634 kg/ngày. 93 Bảng 3.17: Sức tải môi trường của hồ thủy điện Hòa Bình mùa mưa Chỉ tiêu Ký hiệu Mùa mưa TN TP Sức tải môi trường (kg/ngày) EC 40.042 26.417 Lượng phát thải hiện tại trung bình (kg/ngày) PLtb 10.781 9.216 Tỷ lệ đạt tải (%) 26,9 34,9 Lượng phát thải (kg/ngày) đạt mức 60% PL60 24.025 15.850 Lượng phát thải được phép vào hồ (kg/ngày) PL60 - PLtb 13,244 6,634 Hệ số phát thải (kg/ngày) PLi 0,665 0,031 Tổng sản lượng cá lồng có thể nuôi (tấn/năm) 19.917 210.912 Sản lượng cá nuôi lồng (tấn/ha/năm) 2,5 26,0 (Nguồn: Viện Kinh tế và quy hoạch thủy sản, 2019) Tổng sản lượng cá có thể sản xuất trong 1 năm được tính toán bằng cách lấy giá trị lượng phát thải được phép đổ vào hồ (sức tải môi trường hiện tại) chia cho hệ số phát thải của TN (0,665 kg/ngày) và TP (0,031 kg/ngày). Sản lượng cá có thể sản xuất theo sức tải môi trường của TN vào mùa mưa là 19.917 tấn/năm và và theo sức tải môi trường của TP là 210.912 tấn/năm. Theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về điều kiện nuôi thủy sản trên hồ chứa thì: mật độ lồng/bè ở khu vực nước chảy chiếm tối đa 0,2% diện tích mặt nước lúc mức nước thấp nhất; khu vực nước tĩnh chiếm tối đa 0,05% diện tích mặt nước lúc mức nước thấp nhất [10]. Với diện tích mặt nước của vùng hồ thủy điện Hòa Bình là 16.800ha, đối chiếu sản lượng NTTS của vùng hồ thủy điện Hòa Bình được trình bày tại mục 3.1.1.3 Thực trạng sản lượng cá lồng nuôi tại vùng hồ thủy điện Hòa Bình cho thấy sản lượng NTTS vùng hồ thủy điện Hòa Bình năm 2019 ước đạt 4.120 tấn thấp hơn rất nhiều so với ngưỡng có thể sản xuất theo sức tải môi trường ở hai mùa mưa và khô. 3.1.6.2 Kết quả và hiệu quả môi trường trong nuôi trồng thủy sản Căn cứ vào kết quả đánh giá sức tải môi trường tại vùng hồ thủy điện Hòa Bình, sản lượng nuôi cá lồng hiện tại vẫn thấp hơn rất nhiều so với ngưỡng an toàn sản xuất, tuy nhiên các hoạt động về lĩnh vực thuỷ sản đều có những tác động nhất định đến môi trường sống của con người và môi trường tự nhiên nếu không có những giải pháp để ngăn chặn những hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Riêng ngành NTTS đối tượng chủ yếu ở các loài thuỷ sinh, thuỷ sản có quan hệ mật thiết với môi trường nước. Vì vậy chúng rất dễ nhạy cảm và bị ảnh hưởng bởi các yếu tố môi trường thay đổi do các hoạt động sản xuất khác mang lại. Hoạt động NTTS nếu không thực hiện tốt quy trình sản xuất và các biện pháp an toàn thì không những chỉ ảnh hưởng đến các 94 lĩnh vực khác mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến NTTS. Do đó, cần phải hiểu rõ những ảnh hưởng của NTTS có thể xảy ra và tác động đến môi trường như thế nào để có các giải pháp ngăn chặn, xử lý nhằm bảo vệ môi trường. Hiện nay, chất thải gây ô nhiễm môi trường từ NTTS vùng hồ thủy điện Hòa Bình chủ yếu từ việc cho ăn thức ăn tươi không đúng quy trình, cho ăn theo kinh nghiệm nhất là những lúc thức ăn mua được rẻ, bên cạnh đó việc dùng các thuốc kháng sinh tự phòng trừ dịch bệnh, vấn đề xử lý khi dịch bệnh xảy ra còn nhiều bất cập. Minh chứng cho thấy là nuôi cá lồng ở TP Hòa Bình và huyện Đà Bắc vượt quy hoạch, cho ăn thức ăn tươi có những lúc quá nhiều gây ô nhiễm môi trường vùng nuôi làm năng suất giảm đáng kể. Việc lấn chiếm lòng hồ, xả rác thải bừa bãi, kích điện mang tính tận diệt. đã làm ảnh hưởng tới môi trường cảnh quan lòng hồ, ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nước. Một số hoạt động ảnh hưởng và tác động đến môi trường được trình bày trong Bảng 3.18. Bảng 3.18: Một số hoạt động nuôi trồng thủy sản có thể ảnh hưởng và tác động đến môi trường STT Các hoạt động thủy sản có thể ảnh hưởng và tác động đến môi trường Nguy cơ ảnh hưởng 1 Dùng thức ăn quá nhiều (kể cả thức ăn tự chế biến và thức ăn công nghiệp) so với lượng thuỷ sản trong sản xuất giống, trong nuôi trồng Chất lượng nước trong khu vực nuôi giảm, phát sinh các khí độc hại, gây ra một số bệnh cho thuỷ sản trong hồ 2 Dùng phân hữu cơ chưa ủ kỹ, thức ăn kém chất lượng trong nuôi thuỷ sản Chất lượng nước trong hồ giảm, phát sinh các khí độc hại, gây ra một số bệnh cho ao nuôi 3 Lượng thức ăn, hóa chất dư thừa từ các lồng nuôi thải ra môi trường xung quanh Làm ô nhiễm môi trường nước xung quanh. (Nguồn: Tổng hợp của tác giả, 2019) Theo kết quả đánh giá sức tải môi trường được thực hiện vào 2 mùa mưa và khô năm 2018 trên vùng hồ thủy điện Hòa Bình, kết quả cho thấy với sản lượng trên 4.000 tấn cá của vùng thì đang thấp hơn rất nhiều so với ngưỡng tính toán được là có thể đạt sản lượng tối đa là trên 18.000 tấn (theo TN). Với kết quả này, hồ thủy điện Hòa Bình còn tiềm năng rất lớn để phát triển NTTS, với sản lượng hiện tại thì vẫn đảm bảo tính đa dạng sinh học, không ảnh hưởng đến môi trường nước lòng hồ. 3.2 Tính bền vững trong phát triển nuôi trồng thủy sản tại vùng hồ thủy điện Hòa Bình Áp dụng bộ tiêu chí đánh giá tính bền vững trong phát triển NTTS vùng hồ thủy 95 điện đã trình bày ở chương 2 để đánh giá mức độ bền vững trong NTTS tại vùng hồ thủy điện Hòa Bình, kết quả thu được như sau: 3.2.1. Chỉ số riêng từng chỉ báo đánh giá tính bền vững của phát triển nuôi trồng thủy sản vùng hồ thủy điện Hòa Bình Qua quá trình khảo sát 180 cơ sở nuôi cá lồng tại vùng hồ thủy điện Hòa Bình, kết quả tính toán dựa trên 14 tiêu chí được thể hiện như sau: Bảng 3.19: Chỉ số riêng từng tiêu chí đánh giá phát triển bền vững NTTS vùng hồ thủy điện Hòa Bình Các tiêu chí Giá trị tính toán Giá trị nhỏ nhất theo quy ước Giá trị lớn nhất theo quy ước Chỉ số riêng 1. Kinh tế 1 Tính ổn định của thị trường đầu ra 1,04 1 2 0,040 2 Đóng góp của NTTS vào thu nhập 3,89 1 4 0,963 3 Diện tích NTTS 2,3 1 3 0,650 4 Sản lượng NTTS 1,98 1 2 0,980 2. Xã hội 1 Trình độ người nuôi Trình độ học vấn 2,1 1 4 0,700 Kinh nghiệm NTTS 2,76 1 3 0,880 2 Sử dụng thuốc và hóa chất 1,78 1 3 0,390 3 Tham gia quản lý cộng đồng 1,54 1 2 0,540 4 Tham gia tập huấn kỹ thuật NTTS 3,54 1 4 0,847 5 Giấy phép hoạt động Nuôi cá lồng 2,3 1 4 0,433 3. Môi trường 1 Đối tượng nuôi 2,34 1 3 0,670 2 Loại thức ăn 2,1 1 5 0,275 3 Hệ thống nuôi Vị trí hệ thống nuôi 1,65 1 2 0,650 Quy mô số lồng nuôi 2,2 1 3 0,600 4 Nguồn gốc con giống 3,24 1 5 0,560 5 Tác động môi trường 2,13 1 3 0,565 (Cột giá trị tính toán: điểm bình quân của 180 đối tượng khảo sát Cột chỉ số riêng: tính theo phương pháp chuẩn hóa Min-Max) * Chỉ số bền vững kinh tế (ECI) Tính ổn định của thị trường đầu ra: Ở khu vực nghiên cứu, yếu tố thị trường đầu ra của sản phẩm nuôi trồng thủy sản rất khó đạt bền vững. Cá nuôi chủ yếu tiêu thụ trong tỉnh và Hà Nội. Tuy nhiên người nuôi không có cơ hội trực tiếp cận được thị trường tiêu thụ hoặc thông tin về thị trường. Do đó sản phẩm được thu mua thông qua thương lái. Điều này làm cho giá trị của sản phẩm dễ bị hạ thấp và thị trường đầu ra của sản phẩm không ổn định. 96 Đóng góp của nuôi trồng thủy sản vào sinh kế: Do hoạt động nuôi trồng thủy sản ở địa phương đã tạo thu nhập ổn định nên hầu hết người nuôi xem đây là hoạt động tạo thu nhập chính của gia đình. Kết quả điều tra cho thấy chỉ hơn 90% hộ gia đình dựa vào chủ yếu nguồn thu nhập này với tỷ lệ đóng góp hơn 90% tổng thu nhập. Điều này cho thấy tính bền vững của hoạt động này rất cao, với giá trị đạt được là 3,89 điểm trong khi giá trị được đánh giá bền vững nhất của khía cạnh là 4,0 điểm. Do vậy, khả năng đầu tư cho phát triển NTTS vùng hồ chứa đang được người dân chú ý và quan tâm. Diện tích NTTS: đa số đối tượng được khảo sát trả lời là diện tích nuôi cá lồng tăng qua các năm, tương lai vẫn có nhu cầu mở rộng diện tích nuôi. Điều này chứng tỏ nuôi cá lồng mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể cho người nuôi. Do vậy, điểm trung bình đánh giá tính bền vững tiêu chí này đạt 2,3 điểm trên 3 điểm tối đa. Sản lượng NTTS: Tương tự như Diện tích NTTS, đa số người nuôi trả lời là sản lượng tăng lên qua các năm, do vậy điểm số trung bình của tiêu chí này đạt 1,98 điểm trên 2 điểm tối đa. Kết quả tính toán cho thấy các hộ nuôi đánh giá điểm bền vững khá cao cho các chỉ báo: Đóng góp của NTTS vào sinh kế; Diện tích NTTS tăng; Sản lượng NTTS tăng. Chỉ có chỉ báo Tính ổn định của thị trường đầu ra được đánh giá ở mức 1,04 điểm trên 2 điểm tối đa nên chưa đạt mức bền vững, do vậy để thúc đẩy phát triển NTTS vùng hồ thủy điện bền vững trên khía cạnh kinh tế, cần chú trọng đến việc ổn định và phát triển thị trường tiêu thụ NTTS: Khuyến khích người NTTS ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với các doanh nghiệp, nhà hàng khách sạn và cơ sở chế biến thủy sản địa bàn vùng hồ thủy điện Hòa Bình; cần ký hợp đồng bán trực tiếp cho nhà hàng, khách sạn sẽ cho giá cao và ổn định, trách ép giá của tư thương; các hộ nuôi nên thành lập hiệp hội liên kết chủ động tìm hiểu thị trường những nơi du lịch phát triển. * Chỉ số bền vững xã hội (SOI) Trình độ người nuôi: Thực tế tại khu vực nghiên cứu, người nuôi có học vấn thấp cùng với việc không có trình độ chuyên môn, điều này đã hạn chế người nuôi trong việc nghiên cứu tài liệu cũng như tiếp cận với kỹ thuật nuôi mới. Hơn nữa, thông tin dịch bệnh và đặc biệt là thị trường luôn thay đổi nên việc cập nhật thường xuyên là một vấn đề cho người nuôi. Tuy nhiên, kinh nghiệm nuôi nhiều năm đã tạo nên tính bền vững khá cao trong hoạt động nuôi của vùng với giá trị được đánh giá là 2,4 điểm (bảng 3.19). Sử dụng thuốc và hóa chất: Kết quả khảo sát tại khu vực nghiên cứu cho thấy chỉ một vài trường hợp tuân thủ đúng theo hướng dẫn sử dụng thuốc và hóa chất của trạm khuyến ngư. Phần lớn (lên đến 138 trường hợp, chiếm tỷ lệ 76,67%) người nuôi sử dụng thuốc và hóa chất theo cảm tính. Tuy họ không dùng các loại thuốc cấm nhưng luôn dùng thuốc theo cảm tính. Một số hộ nuôi sử dụng cả thuốc và hóa chất đã bị cấm. Điều đó nói lên ý thức người nuôi không cao trong việc dùng thuốc và hóa 97 chất phòng trị bệnh cá. Do đó dễ gây ảnh hưởng đến sức khỏe người nuôi cũng như của người tiêu thụ sản phẩm do dư lượng trong thịt cá. Do thuốc và hóa chất được sử dụng chủ yếu theo cảm tính nên tính bền vững của hoạt động nuôi tương đối thấp với điểm số là 1,78 (bảng 3.19). Tham gia quản lý cộng đồng: Đa số các hộ nuôi đã ý thức được tầm quan trọng của việc tham gia vào các hội nghề cá hoặc tổ tự quản NTTS địa phương. Có đến 152 hộ điều tra trên tổng 180 hộ có tham gia vào tổ tự quản NTTS đ
File đính kèm:
luan_an_phat_trien_ben_vung_nuoi_trong_thuy_san_vung_ho_thuy.pdf
CV DeNghiDang Web ncs.LuuThiThao.pdf
TomTatLuanAn (TiengAnh) - ncs.LuuThiThao_DHLN.pdf
TomTatLuanAn (TiengViet) - ncs.LuuThiThao_DHLN.pdf
TrangThongTinDiemMoi (Viet-Anh) - ncs.LuuThiThao_DHLN.docx
TrichYeuLuanAn (Viet-Anh) - ncsLuuThiThao_DHLN.doc