Luận án Phát triển quy trình công nghệ Biofloc và khả năng ứng dụng trong nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Phát triển quy trình công nghệ Biofloc và khả năng ứng dụng trong nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Phát triển quy trình công nghệ Biofloc và khả năng ứng dụng trong nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)

ho hàm lượng NO2 - có xu hướng tăng cao trong 20 ngày đầu. 4.2.1.7. Nitrate (NO3 -) Hàm lượng NO3 - (Hình 4.8) cho thấy ở các nghiệm thức tăng dần từ đầu cho đến kết thúc thí nghiệm và dao động trong khoảng 0,3 – 17,6 mg/L. Hàm lượng NO3 - 86 bắt đầu tăng từ ngày thứ 12 trở đi có thể do mật độ vi khuẩn phát triển trong điều kiện hiếu khí quá trình nitrate hóa bắt đầu thật sự vào ngày thứ 16, khi đó có thể mật số vi khuẩn Nitrobacter phát triển đủ để chuyển hóa NO2 - thành NO3 -. - 2,0 4,0 6,0 8,0 10,0 12,0 14,0 16,0 18,0 20,0 N1 N4 N8 N12 N16 N20 N24 N28 N it ra te ( m g /L ) 0-38 0-42 0-46 10-38 10-42 10-46 20-38 20-42 20-46 30-38 30-42 30-46 Hình 4.8: Biến động Nitrate với độ mặn và hàm lượng protein khác nhau (mg/L) Hàm lượng NO3 - cao nhất ở các nghiệm thức 0-38, 10-38 và 30-38 tương đương 17,6 mg/L. Khi phân tích tỷ lệ nitrate và nitrite cho thấy hàm lượng nitrate hóa ở nghiệm thức có hàm lượng protein trong thức ăn lần lượt là 38%, 42%, 46% cho thấy tỷ lệ này là 26,5%, 32,5% và 21,6%, điều minh chứng rằng thức ăn có hàm lượng protein là 42% cho tỷ lệ nitrate hóa tốt hơn so với hai loại thức ăn còn lại. Bảng 4.16: Hàm lượng Nitrate trung bình giữa các nghiệm thức (mg/L) Protein 38% Protein 42% Protein 46% Trung bình 0‰ 4,77±1,04 3,39±0,81 4,93±2,22 4,36±1,48 10‰ 4,91±2,36 3,60±1,18 4,27±1,15 4,26±1,55 20‰ 5,03±1,31 3,19±0,51 3,91±2,04 4,05±1,48 30‰ 5,20±0,28 2,77±0,71 5,19±2,23 4,39±1,69 Trung bình 4,98±1,25b 3,24±0,78a 4,57±1,76b Khi phân tích thống kê cho thấy không có sự tương tác giữa độ mặn và hàm lượng protein trong thức ăn đến hàm lượng nitrate trong nước. Nhân tố độ mặn không có tác động lên sự nitrate hóa, chỉ nhân tố hàm lượng protein trong thức có tác động đến hàm lượng nitrate. Từ Bảng 4.16 cho thấy hàm lượng nitrate khá thấp so với hàm lượng nitrite, hàm lượng nitrate ở nghiệm thức protein trong thức ăn 42% thấp hơn so với nghiệm thức 38‰ và 46% có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 4.2.1.8. Phiêu sinh động thực vật Hạt biofloc bắt đầu xuất hiện từ sau ngày thứ 8 và kích thước ngày càng tăng, thành phần trong hạt biofloc qua quan sát dưới kính hiển vi cho thấy gồm có: vi khuẩn, tảo, nguyên sinh động vật (protozoa), rotifer (luân trùng) và các hạt hữu cơ. Tảo lam (Lyngbya sp.) xuất hiện ở tất cả các nghiệm thức với mật độ cao trong những ngày đầu thí nghiệm và sau đó giảm dần ở ngày thứ 20 và tần suất bắt gặp rất thấp của chúng trong hạt biofloc từ ngày thứ 24 đến kết thúc thí nghiệm. 87 Các loại tảo như Naviculla, Pinnularia không xuất hiện ở các nghiệm thức có độ mặn bằng 0‰ và xuất hiện nhiều ở các độ mặn còn lại. Nhưng từ sau ngày thứ 20 trở đi, mật độ các loại tảo cũng giảm rõ rệt, có thể do hàm lượng TSS và độ đục tăng đã cản trở quá trình xâm nhập của ánh sáng nên hạn chế khả năng quang hợp của tảo dẫn đến tần suất tảo ngày càng giảm. 0 2 4 6 8 10 12 14 16 Ngày 8 Ngày 12 Ngày 16 Ngày 20 ngày 24 Ngày 28 S ố l ư ợ n g ( g iố n g ) 0 10 20 30 40 50 60 70 T ầ n s u ấ t (b ắ t g ặ p ) Phytoplankton (giống) Protozoa (giống) Rotifer (giống) Phytoplankton (bắt gặp) Protozoa (bắt gặp) Rotifer (bắt gặp) Hình 4.9: Biến động số lượng và tần suất giống động thực vật theo thời gian thí nghiệm Các giống loài như Vorticella, Acineta, Euplotes thuộc ngành Protozoa cũng bắt đầu xuất hiện từ ngày thứ 8 trở đi và bám rất nhiều vào hạt biofloc. Các loài này bám nhiều nhất trên hạt biofloc trong các nghiệm thức có độ mặn bằng 0‰ và độ mặn 30‰. Chúng xuất hiện ít hơn ở nghiệm thức có độ mặn 20‰ và nghiệm thức 20-42 ít thấy sự xuất hiện của chúng. Rotifer xuất hiện sớm nhất ở nghiệm thức 10-38 và 20-38 vào ngày thứ 8 và ở các nghiệm thức khác thì chậm hơn. Mật độ rotifer tăng dần về cuối thí nghiệm, chúng cũng góp phần làm giảm mật độ tảo trong các nghiệm thức, rotifer có tần suất cao ở các nghiệm thức có độ mặn 10‰ và 20‰, đặc biệt là Euchlanis chiếm hơn 71% trong tổng số lần bắt gặp của Rotifer. 4.2.1.9. Tổng vi khuẩn Kết quả phân tích số liệu cho thấy không có sự khác biệt về mật độ tổng vi khuẩn giữa các nghiệm thức. Khi phân tích về yếu tố độ mặn cho thấy khi tăng độ mặn thì mật độ tổng vi khuẩn giảm nhưng không có sự tương tác giữa độ mặn và hàm lượng protein trong thức ăn đến mật độ tổng vi khuẩn (p>0,05). Bảng 4.17: Mật độ tổng vi khuẩn trung bình giữa các nghiệm thức (103 CFU/mL) Protein 38% Protein 42% Protein 46% Trung bình 0‰ 63,9±32,7 50,8±28,3 77,2±37,8 64,0±30,9 10‰ 51,8±21,7 40,4±8,36 68,8±37,4 53,7±25,2 20‰ 38,8±17,1 70,8±9,54 45,1±38,8 51,6±26,2 30‰ 43,3±0,91 32,6±9,65 73,4±27,3 49,8±23,4 Trung bình 49,4±20,8 48,7±22,3 66,1±33,1 88 Qua Hình 4.10 cho thấy mật độ tổng vi khuẩn ở các ngày đầu thí nghiệm khoảng 103 CFU/mL, sau ngày thứ 16 thì mật độ vi khuẩn tổng bắt đầu có xu hướng gia tăng về cuối thí nghiệm. - 50.000 100.000 150.000 200.000 250.000 300.000 350.000 N1 N4 N8 N12 N16 N20 N24 N28 T ổ n g v i k h u ẩ n ( C F U /m l) 0-38 0-42 0-46 10-38 10-42 10-46 20-38 20-42 20-46 30-38 30-42 30-46 Hình 4.10: Biến động mật độ tổng vi khuẩn với độ mặn và hàm lượng protein Khi kết thúc thí nghiệm mật độ tổng vi khuẩn cao nhất ở nghiệm thức có độ mặn và hàm lượng protein trong thức ăn lần lượt 30-46, 20-42, 0-46, 10-46 tương ứng là 3,34*105 CFU/mL, 2,6*105 CFU/mL, 2,5*105 CFU/mL và 2,27*105 CFU/mL. Kết quả cho thấy mật độ tổng vi khuẩn thật sự phát triển với mật độ cao vào ngày cuối thí nghiệm (từ ngày 24 đến ngày 28). 4.2.1.10. Vi khuẩn Vibrio Qua Hình 4.11 khi so sánh vi khuẩn Vibrio giữa các ngày thu mẫu cho thấy, ở những ngày đầu mật độ Vibrio giữa các nghiệm thức gần tương đương nhau và dao động trong khoảng (5,2*103 CFU/mL). Đến sau ngày thứ 12, mật độ vi khuẩn Vibrio có xu hướng tăng về cuối thí nghiệm. Khi kết thúc thí nghiệm, mật độ vi khuẩn Vibrio cao nhất ở các nghiệm thức 30-42 (71*103 CFU/mL), 20-38 (62*103 CFU/mL) và nghiệm thức 30-38 (58 *103 CFU/mL). Qua phân tích thống kê thấy rằng độ mặn và hàm lượng protein trong thức ăn không sự tương tác, chỉ riêng độ mặn là nhân tố có ảnh hưởng lớn mật độ vi khuẩn Vibrio. - 10.000 20.000 30.000 40.000 50.000 60.000 70.000 80.000 N1 N4 N8 N12 N16 N20 N24 N28 V i k h u ẩ n V ib ri o ( C F U /m l) 0-38 0-42 0-46 10-38 10-42 10-46 20-38 20-42 20-46 30-38 30-42 30-46 Hình 4.11: Biến động mật độ vi khuẩn Vibrio với độ mặn và hàm lượng protein 89 Từ Bảng 4.18 cho thấy khi độ mặn càng cao thì mật độ vi khuẩn Vibrio càng cao, mật độ vi khuẩn Vibrio ở nước ngọt rất thấp (1,72*103 CFU/mL) và có sự khác biệt so với các nghiệm thức còn lại (p<0,05). Nghiệm thức có mật độ vi khuẩn Vibrio cao nhất là độ mặn 30‰ (16,3*103 CFU/mL) và có sự khác biệt với các nghiệm thức 0‰ và 10‰ (p<0,05), nhưng không có sự khác biệt so với nghiệm thức 20‰ (p>0,05). Điều này phản ánh đúng với thực tế những ao nuôi tôm trong vùng nước có độ mặn cao thường tỷ lệ nhiễm bệnh AHPND cao hơn nuôi tôm trong vùng nước có độ mặn thấp. Bảng 4.18: Mật độ vi khuẩn Vibrio trung bình giữa các nghiệm thức (103 CFU/mL) Protein 38% Protein 42% Protein 46% Trung bình 0‰ 1,84±0,36 1,34±0,34 1,97±0,28 1,72±0,41a 10‰ 10,2±9,27 7,14±5,73 13,6±11,9 10,3±8,54b 20‰ 18,3±12,5 12,9±0,74 13,0±6,86 14,7±7,63bc 30‰ 11,7±7,54 20,4±6,94 16,8±4,25 16,3±6,70c Trung bình 10,5±9,59 10,4±8,30 11,3±8,47 Các ký tự trong cùng một cột có ký tự chữ cái khác nhau thì biểu thị cho khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Các nghiệm thức có mật số tổng vi khuẩn cao thì mật số vi khuẩn Vibrio thường thấp, bởi khi mật độ vi khuẩn có lợi tăng sẽ cạnh tranh dinh dưỡng và không gian nên lấn át hay hạn chế sự phát triển của vi khuẩn Vibrio. 4.2.1.11. Tỷ lệ vi khuẩn Vibrio trong tổng số vi khuẩn Tỷ lệ mật độ vi khuẩn Vibrio và mật độ tổng vi khuẩn gần như tương đương nhau ở 8 ngày đầu thí nghiệm sau đó tỷ lệ này có xu hướng tăng lên. Tỷ lệ mật độ vi khuẩn Vibrio trên mật độ vi khuẩn tổng trong thí nghiệm dao động trong khoảng 1,74 – 95,7%. Tỷ lệ mật độ vi khuẩn Vibrio trong mật độ tổng vi khuẩn cao nhất trên 80% ở các nghiệm thức 30-42 (85,7%) và 30-46 (80,6%). Qua Hình 4.12 cho thấy các nghiệm thức có độ mặn 30‰, nghiệm thức 20-38 và 20-46 chiếm tỷ lệ rất cao (50- 95,7%) nên cần cân nhắc loại trừ cho các nghiên cứu thí nghiệm tiếp theo. 0% 20% 40% 60% 80% 100% N1 N4 N8 N12 N16 N20 N24 N28 T ỉ lệ v ib ri o /t ổ n g v i k h u ẩ n ( % ) 0-38 0-42 0-46 10-38 10-42 10-46 20-38 20-42 20-46 30-38 30-42 30-46 Hình 4.12: Tỷ lệ Vibrio trong tổng vi khuẩn với độ mặn và hàm lượng protein (%) 90 Tỷ lệ vi khuẩn Vibrio trên trên tổng vi khuẩn ở các nghiệm thức còn lại luôn duy trì được tỷ lệ này ở mức khá thấp khoảng 20% là 10-42 và 20-42 (ngoại trừ các nghiệm thức nước ngọt). Bảng 4.19: Tỷ lệ Vibrio trong tổng vi khuẩn với độ mặn và hàm lượng protein (%) Protein 38% Protein 42% Protein 46% Trung bình 0‰ 3,33±2,08 3,00±1,00 3,00±1,73 3,11±1,45a 10‰ 23,7±20,6 18,3±12,9 30,7±37,6 24,2±23,0b 20‰ 43,7±24,8 18,3±1,15 34,3±10,3 32,1±17,4b 30‰ 26,7±17,2 61,7±3,51 24,0±5,56 37,4±20,4b Trung bình 24,3±21,6 25,3±23,6 23,0±21,1 Ghi chú: Các ký tự trong cùng cột có ký tự chữ cái khác nhau thì biểu thị cho khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Ở nghiệm thức có độ mặn càng cao thì tỷ lệ vi khuẩn Vibrio càng tăng, ở nghiệm thức nước ngọt tỷ lệ vi khuẩn Vibrio chiếm khoảng 3% trong khi đó tỷ lệ này tăng lên 37,4% ở nghiệm thức có độ mặn 30‰. Ở nghiệm thức 10-42 và 20-42 tỷ vi khuẩn Vibrio (18,3%) thấp hơn các nghiệm thức còn lại ngoại trừ các nghiệm thức ở nước ngọt. 4.2.1.12. Kích cỡ hạt biofloc Qua Hình 4.13 cho thấy từ ngày thứ 8 sau khi bố trí nghiệm hạt biofloc bắt đầu được hình thành với kích thước nhỏ, kích thước hạt biofloc có xu hướng tăng cùng với sự xuất hiện của một số động thực vật. Kích thước hạt biofloc khi mới hình thành có chiều rộng hạt biofloc từ 0,07-0,16 mm và chiều dài khoảng 0,2-0,46 mm. Trong nước nếu hạt biofloc có cả kích cỡ lớn và nhỏ sẽ tốt hơn, vì nếu chỉ có hạt biofloc lớn sẽ dễ lắng xuống đáy dẫn đến giảm hiệu quả trong việc cải thiện chất lượng nước, trong khi nếu chỉ hạt biofloc có kích thước nhỏ sẽ lơ lửng trong nước và nâng cao hiệu quả cải thiện môi trường nhưng tôm không thể gom được các hạt biofloc có kích thước quá nhỏ so cỡ mồi của tôm nuôi (Megahed, 2010). - 0,10 0,20 0,30 0,40 0,50 0,60 0,70 0,80 N1 N4 N8 N12 N16 N20 N24 N28 C h iề u r ộ n g h ạ t B io fl o c (m m ) 0-38 0-42 0-46 10-38 10-42 10-46 20-38 20-42 20-46 30-38 30-42 30-46 Hình 4.13: Biến động chiều rộng hạt biofloc với độ mặn và hàm lượng protein khác nhau Qua Bảng 4.20 cho thấy có sự tương tác giữa độ mặn và hàm lượng protein trong thức ăn đến kích cỡ hạt biofloc. Chiều rộng hạt biofloc lớn nhất (0,37 mm) ở độ mặn 20‰ và khác biệt so với nghiệm thức 10‰ và 30‰ (p<0,05) nhưng không có sự 91 khác biệt so với nghiệm thức nước ngọt (p>0,05). Tương tự, hàm lượng protein trong thức ăn là nhân tố có tác động đến chiều rộng hạt biofloc, ở nghiệm thức có hàm lượng protein trong thức ăn là 38% cho kích cỡ hạt biofloc nhỏ nhất (0,22 mm) và có sự khác biệt với nghiệm thức có hàm lượng protein trong thức ăn là 42% và 46% (p0,05). Bảng 4.20: Chiều rộng trung bình hạt biofloc giữa các nghiệm thức (mm) Protein 38% Protein 42% Protein 46% Trung bình 0‰ 0,23±0,06 0,42±0,03 0,35±0,01 0,33±0,09bc 10‰ 0,23±0,04 0,26±0,06 0,42±0,02 0,30±0,10ab 20‰ 0,24±0,08 0,43±0,01 0,41±0,05 0,37±0,11c 30‰ 0,18±0,04 0,38±0,03 0,25±0,06 0,27±0,09a Trung bình 0,22±0,06a 0,38±0,08b 0,37±0,08b Các ký tự trong cùng cột và cùng hàng có ký tự chữ cái khác nhau thì biểu thị cho khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Từ Hình 4.13 và Hình 4.14 cho thấy hạt biofloc khi mới hình thành hạt biofloc có dạng hình sợi có chiều dài gấp từ 2-3 lần chiều rộng nhưng càng về cuối thí nghiệm thì có xu hướng tròn hơn và chiều dài chỉ còn gấp khoảng 1,5-2 lần so với chiều rộng. Qua Bảng 4.20 và Bảng 4.21 cho thấy kích cỡ hạt biofloc lớn nhất ở độ mặn 20‰ và hàm lượng protein trong thức ăn là 42% (0,43*1,04 mm). Bảng 4.21: Biến động chiều dài hạt biofloc với độ mặn và hàm lượng protein (mm) Protein 38% Protein 42% Protein 46% Trung bình 0‰ 0,56±0,05 0,74±0,04 0,56±0,03 0,62±0,10a 10‰ 0,83±0,06 0,80±0,01 0,98±0,01 0,87±0,09b 20‰ 0,48±0,14 1,04±0,02 1,05±0,04 0,86±0,29b 30‰ 0,47±0,03 0,68±0,02 0,55±0,04 0,57±0,10a Trung bình 0,58±0,17a 0,81±0,14b 0,79±0,24b Các ký tự trong cùng cột và cùng hàng có ký tự chữ cái khác nhau thì biểu thị cho khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Chiều dài hạt biofloc chịu sự tương tác của độ mặn và hàm lượng protein trong thức ăn, từ Bảng 4.21 cho thấy chiều dài hạt biofloc ở hai nghiệm thức ở độ mặn 10‰ (0,87 mm) và 20‰ (0,86 mm) lớn hơn so với nghiệm thức nước ngọt (0,62 mm) và nghiệm thức 30‰ (0,57 mm) có ý nghĩa thống kê (p<0,05). - 0,30 0,60 0,90 1,20 1,50 N1 N4 N8 N12 N16 N20 N24 N28 C h iề u d à i h ạ t B io fl o c (m m ) 0-38 0-42 0-46 10-38 10-42 10-46 20-38 20-42 20-46 30-38 30-42 30-46 Hình 4.14: Biến động chiều dài hạt biofloc với độ mặn và hàm lượng protein 92 Hàm lượng protein trong thức ăn là nhân tố có tác động đến chiều dài hạt biofloc, ở nghiệm thức có hàm lượng protein trong thức ăn là 38% cho chiều dài hạt biofloc ngắn hơn (0,58 mm) so với hai nghiệm thức còn lại có hàm lượng protein trong thức ăn lần lượt là 42% (0,81 mm) và 46% (0,79 mm) khác biệt có ý nghĩa thống kê (p0,05). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Azim et al. (2007) là kích thước hạt biofloc nằm trong khoảng 0,1 – 2,0 mm. 4.2.1.13. Lượng biofloc (FVI) Thể tích (lượng) biofloc ở tuần đầu thí nghiệm dao động trong khoảng 1,2 – 2,7 ml/L. Lượng biofloc cao nhất ở nghiệm thức 0-38 (20,5 ml/L) và 0-42 (17,5 ml/L) vượt quá mức đề nghị và thấp nhất nghiệm thức 10-42 (7,8 ml/L) và 20-38 (7,0 ml/L). Khi phân tích thống kê lượng biofloc ở cuối thí nghiệm cho thấy nghiệm thức 0-38 và 0-42 cao hơn so các nghiệm thức 10-38, 10-42, 20-38, 20-46 và 30-46 có ý nghĩa thống kê (p<0,05) và không khác biệt với nghiệm thức 0-46, 30-38 và 20-42. - 5,0 10,0 15,0 20,0 25,0 N1 N4 N8 N12 N16 N20 N24 N28 F V I (m l/ L ) 0-38 0-42 0-46 10-38 10-42 10-46 20-38 20-42 20-46 30-38 30-42 30-46 Hình 4.15: Biến động lượng biofloc với độ mặn và hàm lượng protein khác nhau Kết quả từ Bảng 4.22 cho thấy lượng biofloc trung bình trong suốt quá trình thí nghiệm không có sự khác biệt giữa các nghiệm thức (p>0,05), mặc dù lượng biofloc ở nghiệm thức nước ngọt là cao nhất. Bảng 4.22: Lượng biofloc (FVI) trung bình giữa các nghiệm thức (ml/L) Protein 38% Protein 42% Protein 46% Trung bình 0‰ 7,94±3,24 7,28±2,56 7,20±2,34 7,47±2,40 10‰ 4,97±2,42 4,81±1,30 7,42±1,51 5,73±2,01 20‰ 5,08±1,10 7,64±0,31 6,53±2,62 6,42±1,81 30‰ 7,21±1,15 6,92±1,60 4,32±1,10 6,15±1,78 Trung bình 6,30±2,30 6,66±1,82 6,36±2,13 Theo đề nghị của Avnimelech (2009) thì lượng biofloc trong ao nuôi tôm nên tăng dần từ 3 ml/L khi mới thả và cần điều chỉnh khi lượng biofloc không vượt quá 15 ml/L. 93 4.2.1.14. Thành phần dinh dưỡng hạt biofloc Phân tích thống kê cho thấy có sự tương tác nghịch của độ mặn và hàm lượng protein trong thức ăn lên hàm lượng protein trong hạt biofloc. Khi độ mặn và hàm lượng protein trong thức ăn tăng lên thì hàm lượng protein trong hạt biofloc giảm xuống. Hàm lượng protein trong hạt biofloc là cao nhất ở nghiệm thức 0-38 là 30,3% và thấp nhất ở nghiệm thức 30-46 là 20,4%. Qua Bảng 4.23 cho thấy hàm lượng protein trong nghiệm thức nước ngọt là 28,3% cao hơn so với các nghiệm thức có độ mặn 10‰ và 30‰ (p<0,05) ngoại trừ nghiệm thức 20‰ là 28,0%, ở nghiệm thức 30‰ có hàm lượng protein trong hạt biofloc thấp nhất (22,9%) so với tất cả các nghiệm thức còn lại (p<0,05). Điều này cho thấy khi tối ưu hóa hàm lượng protein cho hạt biofloc thì không nên sử dụng thức ăn có hàm lượng protein lớn hơn 42% và nước có độ mặn cao hơn 20‰. Bảng 4.23: Protein trung bình trong hạt biofloc giữa các nghiệm thức (%) Protein 38% Protein 42% Protein 46% Trung bình 0‰ 30,3±0,31 29,2±0,31 25,3±1,07 28,3±2,35c 10‰ 27,3±0,26 28,6±0,32 27,0±0,44 27,6±0,78b 20‰ 29,7±0,32 29,4±0,38 25,0±0,57 28,0±2,30bc 30‰ 23,6±0,35 24,6±0,35 20,4±0,81 22,9±1,93a Trung bình 27,7±2,78b 27,9±2,08b 24,5±2,63a Các ký tự trong cùng cột và cùng hàng có ký tự chữ cái khác nhau thì biểu thị cho khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Qua Bảng 4.24 cho thấy hàm lượng lipid trong hạt biofloc chịu tác động đồng thời nhân tố độ mặn và hàm lượng protein trong thức ăn. Hàm lượng lipid có khuynh hướng giảm khi tăng độ mặn và hàm lượng protein trong thức ăn. Độ mặn và hàm lượng protein trong thức ăn có ảnh hưởng làm giảm thật sự đến hàm lượng lipid trong hạt biofloc khi độ mặn trên 20‰ và hàm lượng protein trong thức ăn lớn hơn hoặc bằng 42%. Bảng 4.24: Lipid trung bình trong hạt biofloc giữa các nghiệm thức (%) Protein 38% Protein 42% Protein 46% Trung bình 0‰ 5,28±0,15 2,93±0,72 2,97±0,55 3,73±1,25b 10‰ 5,06±0,23 2,83±0,66 3,45±0,23 3,78±1,06b 20‰ 5,00±0,12 3,72±0,36 2,41±0,74 3,71±1,19b 30‰ 1,28±0,38 2,74±0,36 1,95±0,12 1,99±0,68a Trung bình 4,16±1,75b 3,06±0,62a 2,70±0,72a Các ký tự trong cùng cột và cùng hàng có ký tự chữ cái khác nhau thì biểu thị cho khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Ở nghiệm thức có độ mặn 30‰ có hàm lượng lipid trong hạt biofloc (1,99%) chỉ chiếm khoảng hơn 50% so với có độ mặn thấp hơn còn lại (p<0,05). Hàm lượng lipid trong hạt biofloc ở nghiệm thức có hàm lượng protein trong thức ăn là 38% (4,16%) cao hơn so với nghiệm thức có protein là 42% và 46% (p<0,05) và giữa hai nghiệm thức này không có sự khác biệt (p>0,05). 94 Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của độ mặn và hàm lượng protein đến sự hình thành biofloc không thả tôm (TN1) cho thấy sự hình thành biofloc và các chỉ tiêu môi trường phù hợp cho nuôi tôm ở độ mặn 20‰ và hàm lượng protein trong thức ăn là 42%, nên được chọn cho thí nghiệm 2. Ở độ mặn 10‰ cũng cho sự hình thành biofloc khá tốt, tuy nhiên sự thí nghiệm về độ mặn được tiếp tục nghiên cứu ở thí nghiệm 5. 4.2.2. Ảnh hưởng của nguồn gốc và tỷ lệ C:N đến sự hình thành biofloc trong điều kiện không có tôm (TN2) 4.2.2.1. Nhiệt độ và pH Phân tích thống kê Bảng 4.25 cho thấy nhiệt độ trong các nghiệm thức tương đối ổn định và đồng nhất. Nhiệt độ buổi sáng dao động từ 25,5-26,3oC và nhiệt độ buổi chiều dao động từ 26,7-27,2oC không có sự khác biệt giữa các nghiệm thức (p>0,05). Nhìn chung nhiệt giữa buổi sáng và buổi chiều ít biến động (25,8-27,2oC), nhiệt độ trong ngày không vượt quá 5oC. Bảng 4.25: Nhiệt độ (oC) và pH trung bình buổi sáng chiều giữa các nghiệm thức Nghiệm thức Nhiệt độ sáng Nhiệt độ chiều pH sáng pH chiều RĐ10 26,2±0,29 27,2±0,29 8,0±0,05 8,3±0,01 RĐ20 25,8±0,76 27,0±0,50 7,9±0,05 8,3±0,05 RĐ30 26,2±0,29 27,0±0,05 7,9±0,01 8,4±0,05 GLY10 26,3±0,29 27,2±0,29 8,1±0,01 8,5±0,05 GLY20 25,7±0,58 27,0±0,02 8,2±0,05 8,5±0,01 GLY30 26,2±0,29 27,2±0,29 8,2±0,09 8,5±0,01 BG10 26,0±0,50 27,0±0,09 8,0±0,01 8,3±0,09 BG20 25,5±0,50 26,7±0,29 8,0±0,05 8,3±0,05 BG30 25,8±0,29 27,0±0,05 8,0±0,05 8,4±0,05 BM10 25,7±0,29 26,8±0,29 8,0±0,01 8,4±0,06 BM20 25,8±0,29 27,0±0,09 8,1±0,05 8,5±0,02 BM30 26,0±0,09 27,0±0,02 8,1±0,05 8,5±0,02 Qua phân tích thống kê cho thấy không có sự tương tác giữa nguồn carbohydrate và tỷ lệ C:N đến chỉ tiêu pH. Qua Bảng 4.25 cho thấy pH buổi sáng dao động từ 7,9-8,1 và buổi chiều từ 8,3-8,6. Nhìn chung pH biến động khá lớn trong ngày từ 7,9-8,6 nhất là pH buổi chiều khá cao > 8,5 điều này có khả năng vào buổi chiều tỷ lệ NH3 lớn trong tổng amm
File đính kèm:
luan_an_phat_trien_quy_trinh_cong_nghe_biofloc_va_kha_nang_u.pdf
Thongtinluanan-en.doc
Thongtinluanan-vi.doc
Tomtatluanan-en.pdf
Tomtatluanan-vi.pdf