Luận án Phát triển sản xuất cây vụ đông ở tỉnh Thái Bình

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Phát triển sản xuất cây vụ đông ở tỉnh Thái Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Phát triển sản xuất cây vụ đông ở tỉnh Thái Bình

mùa. Một thực tế là hiện nay diện tích đất chuyên trồng màu ở Thái Bình có xu hướng giảm do chịu tác động của việc phát triển công nghiệp, phát triển hệ thống giao thông, thủy lợi, cũng như thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội khác của tỉnh. Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2015), trong giai đoạn 2011-2015 diện tích chuyên trồng màu của tỉnh Thái Bình giảm bình quân 1,74%/năm. Cụ thể diện tích đất trồng màu năm 2011 của tỉnh là 6,9 nghìn ha đến năm 2015 diện tích đất trồng màu giảm xuống còn 6,41 nghìn ha. Trong 5 năm tổng diện tích giảm đất chuyên màu của tỉnh giảm 490ha. Tuy nhiên, tổng diện tích đất trồng màu qua các năm vẫn có xu hướng tăng lên, đây là kết quả này của việc chuyển đổi giống cây trồng phù hợp để thúc đẩy phát triển cây trồng vụ đông trên đất 2 lúa. Như vậy, chính sách phát triển sản xuất cây vụ đông trên đất hai vụ lúa đã làm tăng nhanh diện tích cây màu của tỉnh Thái Bình. Việc mở rộng diện tích vụ đông giúp cho tổng diện tích trồng màu bình quân hàng năm của tỉnh đạt trên 37 nghìn ha, trong khi diện tích đất chuyên màu là trên 6 nghìn ha. Sự tăng lên này có ý nghĩa rất lớn đối với địa phương trong bối cảnh an ninh lương thực vẫn được đặt lên hàng đầu không riêng gì Thái Bình mà trên phạm vi cả nước. Bảng 4.4. Diện tích đất trồng cây màu ở Thái Bình năm 2011-2015 Đơn vị tính: 1000 ha STT Năm Tổng diện tích Diện tích đất chuyên màu Diện tích vụ đông trên đất 2 lúa Diện tích Tỷ lệ (%) Diện tích Tỷ lệ (%) 1 2011 36,78 6,90 18,76 29,88 81.24 2 2013 39,11 6,42 16,42 32,69 83.58 3 2015 40,50 6,41 15,83 34,09 84.17 Bình quân 18,00 80,00 74 Bảng 4.5. Diện tích đất trồng cây màu bình quân ở các vùng của tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2015 Năm Vùng đô thị Vùng ven biển Vùng thuần nông Diện tích đất chuyên màu Diện tích vụ đông trên đất 2 lúa Diện tích đất chuyên màu Diện tích vụ đông trên đất 2 lúa Diện tích đất chuyên màu Diện tích vụ đông trên đất 2 lúa DT (sào) Tỷ lệ (%) DT (sào) Tỷ lệ (%) DT (sào) Tỷ lệ (%) DT (sào) Tỷ lệ (%) DT (sào) Tỷ lệ (%) DT (sào) Tỷ lệ (%) 2011 0,76 24,56 2,33 75,44 0,71 21,76 2,55 78,24 0,61 18,36 2,71 81,64 2013 0,50 16,42 2,52 83,58 0,55 17,72 2,55 82,28 0,52 16,42 2,63 83,58 2015 0,48 15,83 2,53 84,17 0,50 16,33 2,55 83,67 0,49 15,63 2,64 84,37 BQ 18,98 81,02 18,67 81,33 16,83 83,17 Đối với các hộ nông dân của tỉnh Thái Bình hiện nay tổng diện tích đất trồng rau màu dao động từ 3 đến 3,5 sào/hộ, trong đó đất chuyên màu chiếm tỷ lệ 17-19%, còn lại phần lớn là diện tích cây rau màu được trồng trên đất hai vụ lúa trong vụ đông (Tổng hợp từ số liệu điều tra, 2015). Diện tích đất hai vụ lúa được đưa vào phát triển rau màu trong vụ đông lớn nhất là các địa phương thuần nông, chiếm trên 82% tổng diện tích cây rau màu. Việc phát triển cây rau màu trên đất hai vụ lúa giúp tăng diện tích đất canh tác của hộ trong vụ đông, điều này cũng tạo cơ sở cho người dân Thái Bình mở rộng diện tích rau màu do quỹ đất hai vụ lúa bình quân của hộ gấp trên 2 lần diện tích đất đang được sử dụng để phát triển cây trồng vụ đông hiện nay. 4.1.3. Phát triển hình thức tổ chức sản xuất cây vụ đông Các hình thức tổ chức sản xuất hiện nay trên địa bàn tỉnh bao gồm: sản xuất theo hộ nông dân, tổ hợp tác, trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp... trong đó do những đặc thù của sản xuất nông nghiệp nên hoạt động sản xuất theo hộ nông dân vẫn là chủ yếu ở Thái Bình. Tuy nhiên, trong những năm gần đây loại hình tổ hợp tác đang có xu hướng phát triển mạnh, tiếp theo là hình thức trang trại, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh chủ yếu là hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, rất ít hợp tác xã thực hiện chức năng sản xuất. 4.1.3.1. Phát triển sản xuất cây vụ đông của hộ nông dân Hiện nay, ở Thái Bình phát triển nông nghiệp nói chung và vụ đông nói riêng vẫn theo hình thức nông hộ. Các nguồn lực như đất đai, lao động, vốn 75 đầu tư là những nhân tố sẽ quyết định quy mô sản xuất từ đó ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả sản xuất cây vụ đông của hộ nông dân tỉnh Thái Bình. Kết quả khảo sát (2015) cho thấy, nguồn lực của hộ nông dân ở Thái Bình không đồng đều ở các vùng khảo sát, cụ thể như bảng dưới đây. Bảng 4.6. Điều kiện sản xuất của các nhóm hộ điều tra (Tính bình quân/1 hộ) STT Chỉ tiêu Vùng khảo sát So sánh (%) ĐVT Ven đô (1) Thuần nông (2) Ven biển (3) 1/2 2/3 1/3 1 Đất đai Diện tích canh tác Sào 6,58 6,52 6,76 100,92 96,45 97,34 DT có thể sản xuất cây vụ đông Sào 5,29 5,36 5,73 98,69 93,54 92,32 DT SX vụ đông Sào 3,41 3,92 3,01 86,99 130,23 113,29 DT tưới tiêu chủ động Sào 3,01 2,74 2,01 109,85 136,32 149,75 2 Lao động LĐ Nông nghiệp LĐ 2,37 2,28 2,09 103,95 109,09 113,40 Số năm đi học Năm 10,87 8,19 7,25 132,72 112,97 149,93 DT canh tác/LĐNN Sào/lđ 2,42 2,76 97,25 87,85 85,43 85,43 DT vụ đông/LĐNN Sào/lđ 1,44 1,72 1,44 83,69 119,38 99,90 3 Vốn chủ động Nhu cầu vốn cho SX vụ đông Tr.đ 10,98 8,13 96,31 135,06 130,07 10,98 Nguồn vốn chủ động SX Tr.đ 5,15 4,28 4,65 120,33 92,04 110,75 Ghi chú: Tính cho năm 2015 - Đất đai: Diện tích đất canh tác bình quân 1 hộ ở Thái Bình là 6,5 sào/hộ, trong đó diện tích đất có thể sản xuất cây vụ đông dao động từ 5,2-5,7 sào/hộ tùy vào vị trí thửa ruộng. Tuy nhiên, thực tế hiện nay diện tích canh tác vụ động của các hộ dân chỉ mới chiếm khoảng 40% tổng quỹ đất có thể phát triển sản xuất cây vụ đông, nguyên nhân một phần do diện tích đất canh tác chưa được bảo đảm tưới tiêu chủ động. Việc không bảo đảm tưới tiêu chủ động ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các loại cây trồng vụ đông, đặc biệt là các loại rau, dưa bí, hành tỏi, ớt 76 - Lao động: Trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất cây vụ đông nói riêng thì lực lượng lao động đang có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đang diễn ra mạnh mẽ đã thu hút nguồn lao động nông thôn (đặc biệt là lao động trẻ) vào làm việc trong các nhà máy, công ty, các khu công nghiệp trên địa bàn hoặc đổ vào các thành phố lớn; do đó lực lượng lao động ở nông thôn đang ở Thái Bình hiện nay có xu hướng già hóa. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy lực lượng lao động của Thái Bình có số năm đi học tương đối cao, bình quân số năm đi học là 8,5 năm, đặc biệt đối với khu vực ven đô thị số năm đi học của lao động đạt trên 10 năm, đây là điều kiện thuận lợi cho địa phương trong việc áp dụng cơ giới hóa, các tiến bộ kỹ thuật và sản xuất để khắc phục tình trang thiếu lao động nông thôn hiện nay. - Vốn: Cây trồng vụ đông là cây tuy có thời gian sinh trưởng ngắn nhưng đòi hỏi đầu tư lớn trong khâu chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng. Hiện nay ở Thái Bình, tình trạng hộ nông dân thiếu vốn phục vụ sản xuất cây vụ đông đã và đang diễn ra phổ biến. Kết quả khảo sát cho thấy nguồn vốn hộ chủ động cho sản xuất chỉ mới chiếm khoảng 40-50% tổng nhu cầu vốn, đặc biệt khu vực thuần nông tỷ lệ chủ động vốn sản xuất rất thấp chỉ được 38,9% tổng nhu cầu vốn. Mặc dù vốn lưu động được hộ gia đình sử dụng trong nhiều mục đích khác nhau nhưng rõ ràng nếu chủ động được nguồn vốn sẽ có điều kiện thuận lợi hơn trong mở rộng, phát triển sản xuất cây vụ đông. 4.1.3.2. Phát triển doanh nghiệp nông nghiệp tỉnh Thái Bình Hợp tác liên kết là xu hướng phát triển tất yếu trong tương lai do sự xuất phát nhu cầu không chỉ từ phía người dân mà còn từ phía doanh nghiệp, thị trường. Tuy nhiên, thực tế hiện nay sự hợp tác này chưa thật sự thành công ở tỉnh Thái Bình xét trên khía cạnh về liên kết sản xuất trong ngành trồng trọt nói chung và vụ đông nói riêng. Hiện rất ít doanh nghiệp nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đầu tư sản xuất cây vụ đông mặc dù tỉnh đã ban hành chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào phát triển sản xuất nông nghiệp. Kết quả thống kê của Sở Nông nghiệp và PTNT (2016) cho thấy từ năm 2005 đến nay số doanh nghiệp đầu tư vào phát triển sản xuất cây vụ đông có xu hướng giảm, đặc biệt là từ sau năm 2009 số doanh nghiệp sản xuất cây vụ đông giảm đáng kể. 77 Biểu đồ 4.2. Số lượng doanh nghiệp đầu tư sản xuất vụ đông giai đoạn 2005-2015 Từ năm 2011 đến nay xu thế doanh nghiệp đầu tư vào trồng trọt có xu hướng ổn định nhưng ở mức thấp. Hiện chỉ có 18 doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất cây vụ đông trên địa bàn, tuy nhiên doanh nghiệp cũng chỉ đầu tư theo hình thức liên kết với các tổ hợp tác, hợp tác xã và việc liên kết cũng chỉ xuất hiện ở một số cây trồng nhất định như cây ớt, dưa bí, khoai tây, hành tỏi. Ngoài số lượng doanh nghiệp ít, thì quy mô, chất lượng doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất cây vụ đông còn yếu, hầu hết các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất cây vụ đông đều gặp khó khăn về vấn đề lao động, đất đai, vốn và các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất. Hộp 4.1. Một số khó khăn của doanh nghiệp đầu tư sản xuất vụ đông ở Thái Bình Theo đánh giá của cán bộ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thái Bình, hiện doanh nghiệp nông nghiệp nói chung và doanh nghiệp đầu tư vào phát triển sản xuất cây vụ đông nói riêng đều gặp nhiều khó khăn, cụ thể: - Về lao động: Chất lượng lao động trong ngành nông nghiệp còn thấp, tỷ lệ lao động phổ thông cao chiếm 95% tổng lao động toàn tỉnh; lao động có trình độ từ trung cấp, cao đẳng, đại học chiếm tỷ lệ thấp (dưới 5%), do đó hạn chế đến khả năng tiếp thu các tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất, chế biến, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả, hiệu quả sản xuất. 0 5 10 15 20 25 2005 2007 2009 2011 2013 2015 21 24 24 17 18 18 78 - Về kinh nghiệm quản lý: Hầu hết lao động làm việc cho các DN nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đại đa số nguồn gốc từ nông thôn, chưa được rèn luyện về kỷ luật lao động, còn mang nặng tác phong nông nghiệp, tùy tiện giờ giấc và hành vi. Khả năng hợp tác lao động chưa tốt, lao động mới chưa có kinh nghiệm họ sẵn sàng nhận mức lương thấp trong thời gian đầu đến khi được đào tạo có kinh nghiệm họ lại đi tìm việc làm ở công ty khác lớn hơn. - Về vốn sản xuất: Đa số các DN đang hoạt động trong tình trạng không đủ vốn cần thiết, đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Mặt khác, DN không có được nguồn vốn lớn do đó quy mô sản xuất nhỏ, khả năng mở rộng sản xuất khó khăn. Nguồn vốn hạn hẹp dẫn tới việc DN rất khó đổi mới trang thiết bị, máy móc công nghệ cũng như đầu tư mở rộng sản xuất. - Về đất đai: Hiện phần lớn các doanh nghiệp đều ký hợp đồng với hộ dân thông qua HTX, tổ hợp tác nên rất khó khăn trong việc chủ động mở rộng sản xuất, áp dụng quy trình kỹ thuật và thay đổi hệ thống cây trồng. (Ông Vũ Công Bình- Chi cục trưởng chi cục Phát triển nông thôn Thái Bình) 4.1.3.3. Phát triển Tổ hợp tác trong sản xuất cây vụ đông Hiện nay, có một thực tế là lao động nông nghiệp có xu hướng giảm gây ra nhiều khó khăn trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất cây vụ đông nói riêng. Bên cạnh đó, việc dồn điền tạo ra những thửa lớn cũng đã gây khó khăn nhất định cho các hộ dân trong sản xuất cây vụ đông. Từ thực tế trên đã hình thành các Tổ hợp tác trong sản xuất. Mô hình Tổ hợp tác ở Thái Bình được hình thành trên cơ sở Nghị định 151/2007/NĐ-CP, đây là mô hình các hộ dân tự nguyện hợp tác nhằm cùng có lợi với điều kiện có từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Theo thống kê, bước đầu các tổ hợp tác tuy số lượng còn rất ít nhưng cũng tỏ rõ có nhiều ưu thế, hiệu quả cao hơn hẳn so với hộ sản xuất cá thể. Các THT nông nghiệp tạo sự gắn kết trong mùa vụ, xử lý vấn đề thiếu lao động nông thôn, thực hiện tốt quy trình sản xuất theo tiến bộ khoa học-kỹ thuật đã góp phần ổn định thị trường, hạn chế sâu bệnh, một số tổ hợp tác đã xây dựng được kho bảo quản lạnh nên ít bị thất thoát, hao hụt, do đó năng suất luôn cao hơn so với hộ cá thể. Việc tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ, ưu đãi của nhà nước và các tổ chức xã hội cho nông dân tại các THT cũng được thuận lợi hơn. Hoạt động tiêu thụ sản 79 phẩm của THT tập trung được với số lượng lớn, phẩm cấp đồng đều, nên có lợi thế trong việc thương lượng giá cả với người mua, vì vậy THT bán sản phẩm cao hơn so với hộ làm ăn cá thể từ 300-500đ/kg sản phẩm. Biểu đồ 4.3. Số lượng tổ hợp tác tham gia sản xuất vụ đông giai đoạn 2005-2015 Như vậy có thể thấy việc phát triển sản xuất cây vụ đông ở tỉnh Thái Bình đã hình thành nhiều hình thức sản xuất như tổ hợp tác, doanh nghiệp và hộ nông dân. Tuy nhiên, hình thức sản xuất theo hộ nông dân vẫn là chủ yếu. Việc hình thành các tổ hợp tác trong sản xuất đã góp phần giải quyết được tình trạng thiếu lao động trong các thời điểm cần huy động lao động tham gia sản xuất như làm đất, thu hoạch. Bên cạnh đó, đây cũng là tiền đề để Thái Bình thực hiện thành công mục tiêu dồn điền đổi thửa, xây dựng cánh đồng mẫu và nâng cao khả năng liên kết trong sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, một số cây trồng vụ đông cũng đã nhận được sự quan tâm đầu tư của doanh nghiệp như cây ớt, hành tỏi, khoai tây, đây là cơ sở quan trọng để Thái Bình quy hoạch mở rộng các loại cây trồng này cũng như tìm hướng đi trong liên kết sản xuất cho các cây trồng khác trong vụ đông. Tuy nhiên, để có thể thu hút doanh nghiệp đầu tư và phát triển sản xuất cây vụ đông Thái Bình cần có giải pháp nâng cao vai trò của HTX nông nghiệp, đây có thể xem là cầu nối giữa các hộ dân với doanh nghiệp. 2005 2007 2009 2011 2013 2015 125 142 164 188 226 280 2005 2007 2009 2011 2013 2015 ĐVT: Tổ hợp tác 80 4.1.4. Thay đổi cơ cấu diện tích gieo trồng cây vụ đông của tỉnh Thái Bình Đối với việc phát triển sản xuất cây vụ đông, hiện nay tỉnh xác định hai loại cây trồng vụ đông là cây vụ đông ưa ấm gồm: cây ớt, ngô, đậu tương, dưa bí và cây vụ đông ưa lạnh: Khoai tây, cà rốt, xu hào, bắp cải, hành tỏi. Bảng 4.7. Diện tích và cơ cấu cây trồng vụ đông năm 2011 - 2015 ở tỉnh Thái Bình STT Cây vụ đông Năm 2011 Năm 2013 Năm 2015 So sánh 2015/2011 (%) DT (1000ha) CC (%) DT (1000ha) CC (%) DT (1000ha) CC (%) 1 Ngô 14,81 37,47 12,9 32,31 11,64 29,04 78,60 2 Ớt 2,58 6,53 3,83 9,59 4,49 11,20 174,03 3 Đậu tương 2,22 5,62 1,32 3,31 0,81 2,02 36,49 4 Dưa bí 0,77 1,95 1,61 4,03 2,15 5,36 279,22 5 Khoai Tây 2,77 7,01 2,56 6,41 2,37 5,91 85,56 6 Xu hào, bắp cải 5,94 15,03 6,17 15,45 7,12 17,76 119,87 7 Hành tỏi 0,18 0,46 0,27 0,68 0,39 0,97 216,67 8 Khoai lang 7,46 18,87 7,59 19,01 6,22 15,52 83,38 9 Cây vụ đông khác 2,8 7,08 3,68 9,22 4,89 12,20 174,64 Cộng 39,53 100 39,93 100 40,08 100 101,39 Theo số liệu thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2015), diện tích cây trồng vụ đông trong những năm gần đây tuy không ổn định ở mỗi chủng loại nhưng diện tích trong toàn tỉnh vẫn có xu hướng tăng lên. Vụ đông năm 2015 đạt 40.080ha tăng so với năm 2011 là 1,39%. Nhóm cây vụ đông ưa ấm hầu hết diện tích tăng lên mạnh, trong đó diện tích ớt năm 2015 tăng 74,03% so với năm 2011, diện tích dưa bí tăng 179,22%, bí xanh và bí đỏ là loại cây dễ trồng với năng suất cao, điều kiện bảo quản sau thu hoạch dễ hơn so với các loại cây trồng vụ đông khác, nên cây trồng này đang được trồng đại trà trên diện tích hai vụ lúa ở tỉnh Thái Bình; riêng đối với cây ngô, đây là loại cây trồng chiếm tỷ trọng diện tích lớn và đang có xu hướng giảm đi, năm 2015 so với 2011 diện tích ngô giảm 21,40%, diện tích ngô giảm cho thấy cây lương thực có xu hướng giảm và diện tích các loại rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày có xu hướng tăng trong vụ đông. 81 Nhóm cây vụ đông ưa lạnh cũng có xu hướng tăng, tuy nhiên diện tích cây trồng ưa lạnh ở vụ đông có xu hướng tăng ít hơn so với cây trồng ưa ấm, như xu hào, bắp cải tăng 19,87%; và lớn nhất là hành tỏi với tổng diện tích tăng là 116,67%, hiện nay hành tỏi được xem là cây trồng vụ đông mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các địa phương có loại đất cát pha, đặc biệt là các huyện ven biển của tỉnh Thái Bình. Hiện huyện Thái Thụy trở thành vùng sản xuất hành tỏi lớn nhất toàn tỉnh, nhằm để thúc đẩy phát triển hành tỏi tỉnh Thái Bình đang hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu tập thể tỏi Thái Thụy. Trong khi đó diện tích khoai lang giảm mạnh, tổng diện tích trồng khoai lang giảm gần 30% trong 5 năm từ 2011 đến 2015; khoai tây cũng có xu hướng giảm qua các năm, hiện nay diện tích trồng khoai tây toàn tỉnh giảm chỉ còn 2.370ha so với năm 2011 là 2.770ha. Như vậy, từ thực tế quy mô sản xuất cây vụ đông trong 5 năm qua cho thấy, Thái Bình là địa phương đang chú trọng mở rộng diện tích cây trồng vụ đông thể hiện qua việc chuyển đổi cây trồng và cơ cấu giống cây trồng. Việc mở rộng diện tích vụ đông ngoài sự quan tâm của các cấp ngành thông qua các chủ trương, chính sách thì sự chung tay của người dân, đó là sự thay đổi tập quán canh tác bao đời nay, đây là điều kiện quyết định trong việc mở rộng diện tích vụ đông. Bảng 4.8. Cơ cấu cây trồng vụ đông bình quân/hộ ở các vùng của tỉnh Thái Bình STT Cây vụ đông Vùng đô thị Vùng ven biển Vùng thuần nông DT (Sào) CC (%) DT (Sào) CC (%) DT (Sào) CC (%) 1 Ngô 0,18 5,98 0,27 8,85 0,31 9,90 2 Ớt 0,28 9,30 0,13 4,26 0,49 15,65 3 Đậu tương 0,13 4,32 0,22 7,21 0,31 9,90 4 Dưa bí 0,67 22,26 0,41 13,44 0,65 20,77 5 Khoai Tây 0,37 12,29 0,56 18,36 0,47 15,02 6 Xu hào, bắp cải 0,82 27,24 0,17 5,57 0,42 13,42 7 Hành tỏi 0,1 3,32 0,57 18,69 0,21 6,71 8 Khoai lang 0,26 8,64 0,59 19,34 0,22 7,03 9 Cây vụ đông khác 0,2 6,64 0,13 4,26 0,05 1,60 Cộng 3,01 100 3,05 100 3,13 100 Ghi chú: Tính cho năm 2015 82 Khảo sát tình hình sản xuất cây vụ đông ở Thái Bình (2015) có thể thấy rõ hầu hết hộ nông dân không tập trung vào một cây trồng vụ đông mà phần lớn mỗi hộ gia đình sản xuất hai hoặc ba cây trồng chủ lực, tùy vào vị trí mảnh ruộng của hộ. Tuy nhiên, xu hướng chung ở các vùng khác nhau thì cơ cấu cây trồng cũng có sự khác nhau. Đối với vùng đô thị cây trồng chủ lực của các hộ dân là các loại rau như xu hào, bắp cải, dưa bí, ớt, trong khi đó vùng ben biển tập trung vào hành tỏi, khoai tây. Vùng thuần nông thì dưa bí, ớt, khoai tây vẫn là cây trồng chủ đạo của các hộ dân. Hầu hết hiện nay các loại cây trồng truyền thống trong vụ đông như ngô, khoai lang, đậu tương diện tích có xu hướng giảm đáng kể. Bên cạnh đó, sự thay đổi tập quán canh tác thấy rõ qua việc hiện nay cây trồng ưa ấm đang được phát triển nhanh, với tốc độ mở rộng diện tích nhanh hơn so với nhóm cây trồng ưa lạnh và cơ cấu giống cây trồng cũng mở rộng hơn. Trước đây, người dân Thái Bình chủ yếu trồng ngô chăn nuôi, thì hiện nay nhóm cây trồng vụ đông ưa ấm đang phát triển mạnh với các loại cây trồng như ngô ngọt, ớt, dưa bí và điều này ngược lại đã làm giảm diện tích trồng ngô chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Mặt khác, qua thực trạng về quy mô, cơ cấu diện tích cây trồng vụ đông cũng cho thấy, dù diện tích cây vụ đông tăng nhưng địa phương vẫn chưa xác định được hệ thống cây trồng vụ đông chủ đạo, tạo nên tình trạng “tăng chung” tức hầu hết diện tích các loại cây trồng vụ đông đều tăng, việc tăng này còn mang tính tự phát gây khó khăn cho tỉnh trong việc xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất tập trung. Hiện nay có thể thấy, tình trạng phát triển vụ sản xuất cây vụ đông ở Thái Bình đang mang nặng tính địa phương, tức địa phương nào (theo từng xã, thậm chí từng thôn, từng cánh đồng) có lợi thế trồng cây trồng gì thì phát triển loại cây trồng đó. 4.1.5. Áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất cây vụ đông Sản xuất cây vụ đông từ lâu đã được coi là vụ sản xuất quan trọng của tỉnh Thái Bình, do đó địa phương đã chủ động xây dựng và
File đính kèm:
luan_an_phat_trien_san_xuat_cay_vu_dong_o_tinh_thai_binh.pdf
KTNN - TTLA - Nguyen Van Nhiem.pdf
TTT - Nguyen Van Nhiem.pdf