Luận án Sử dụng Fractal trong việc nén hình ảnh và video
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Sử dụng Fractal trong việc nén hình ảnh và video", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Sử dụng Fractal trong việc nén hình ảnh và video
của Fractal là tốt hơn JPEG trong đa số tỷ lệ lấy mẫu. Bảng 2.14: So sánh tỷ số nén và PSNR giữa Fractal và JPEG đối với ảnh Lena PSNR Tỷ số nén Ảnh đầu vào Lấy mẫu Fractal JPEG Fractal JPEG 4:4:4 25.94 25.95 11.58 11.26 4:2:2 26.09 28.42 8.69 8.88 4:2:0 23.46 21.73 14.78 14.67 Ảnh Lena 4:1:1 24.48 25.95 11.58 11.26 Để có thêm kết quả thực nghiệm so sánh giữa Fractal và JPEG đối với các ảnh gốc mang tính chất khác nhau. Thực nghiệm được lặp lại đối với ba ảnh gốc được lựa chọn như đã nêu trong bảng 2.8. Mục đích của thực nghiệm là so sánh chất lượng nén giữa Fractal và JPEG đối với các tính chất khác nhau của ảnh gốc. Bảng 2.15 thống kê tỷ số nén và tỷ số PSNR của phương pháp nén ảnh màu sử dụng Fractal và phương pháp nén ảnh màu sử dụng tiêu chuẩn JPEG đối với ảnh Fruit tại bốn tỷ lệ lấy mẫu 4: 4: 4, 4: 2: 2, 4: 2: 0, 4: 1: 1. Bảng 2.15: So sánh tỷ số nén và PSNR giữa Fractal và JPEG đối với ảnh Fruit PSNR Tỷ số nén Ảnh đầu vào Lấy mẫu Fractal JPEG Fractal JPEG 4:4:4 23.38 20.77 11.13 12.50 4:2:2 23.63 24.20 8.31 9.91 4:2:0 21.59 20.23 14.12 13.79 Ảnh Fruit 4:1:1 21.39 20.77 11.13 12.50 Số liệu tại Bảng 2.15 cho thấy Fractal tốt hơn JPEG về tỷ số nén tại các tỷ lệ lấy mẫu 4:2:0 và tốt hơn về PSNR tại tỷ lệ lấy mẫu 4:4:4, 4:2:0, 4:1:1. Như đã phân tích tại các bảng 2.8, 2.9, 2.10 và 2.11, tại tỷ lệ lấy mẫu 4:2:0, Fractal đạt tỷ số nén cao nhất và PSNR thấp nhất, thể hiện sự đặc tính đặc trưng của Fractal về tỷ số nén so với các phương pháp nén ảnh khác. Theo số liệu tại bảng 2.15, tại tỷ lệ lấy mẫu 4:2:0, tỷ số nén và PSNR của Fractal tốt hơn JPEG. Kết quả thực nghiệm này một lần nữa cho thấy nén ảnh màu sử dụng Fractal tốt hơn JPEG tại tỷ lệ lấy mẫu 4:2:0. Tại tỷ lệ 56 lấy mẫu 4:4:4 và 4:1:1, Fractal tốt hơn về PSNR nhưng kém hơn về tỷ số nén. Tại tỷ lệ lấy mẫu 4:2:2, Fractal không tốt bằng JPEG cả về tỷ số nén và PSNR. Bảng 2.16: So sánh tỷ số nén và PSNR giữa Fractal và JPEG đối với ảnh Leaves PSNR Tỷ số nén Ảnh đầu vào Lấy mẫu Fractal JPEG Fractal JPEG 4:4:4 23.48 24.69 11.20 8.00 4:2:2 23.53 23.18 8.49 8.01 4:2:0 22.09 20.17 14.49 14.45 Ảnh Leaves 4:1:1 22.16 24.69 11.20 8.00 Đánh giá tổng thể kết quả thực nghiệm trên ảnh Fruit lại cho thấy chất lượng nén dựa trên tỷ số nén và PSNR của Fractal là tương đương JPEG tính trên cả bốn tỷ lệ lấy mẫu. Đánh giá trên thấy rằng đã có sự khác biệt trong kết quả so sánh Fractal - JPEG giữa ảnh Lena và ảnh Fruit, điều này chứng tỏ rằng tính chất của ảnh gốc có ảnh hưởng đến sự so sánh tương quan chất lượng nén ảnh của Fractal và JPEG. Thực nghiệm được tiếp tục lặp lại với ảnh Leaves, bảng 2.16 thống kê tỷ số nén và tỷ số PSNR của phương pháp nén ảnh màu sử dụng Fractal và phương pháp nén ảnh màu sử dụng tiêu chuẩn JPEG đối với ảnh Leaves tại bốn tỷ lệ lấy mẫu 4: 4: 4, 4: 2: 2, 4: 2: 0, 4:1:1. Số liệu tại Bảng 2.16 cho thấy Fractal tốt hơn JPEG về tỷ số nén tại tất cả các tỷ lệ lấy mẫu 4:4:4, 4:2:2, 4:2:0, 4:1:1 và tốt hơn về PSNR tại tỷ lệ lấy mẫu 4:2:0, 4:2:2. Như đã phân tích tại các bảng 2.8, 2.9, 2.10 và 2.11, tại tỷ lệ lấy mẫu 4:2:0, Fractal đạt tỷ số nén cao nhất và PSNR thấp nhất, thể hiện sự đặc tính đặc trưng của Fractal về tỷ số nén so với các phương pháp nén ảnh khác. Theo số liệu tại bảng 2.16, tại tỷ lệ lấy mẫu 4:2:0, tỷ số nén và PSNR của Fractal tốt hơn JPEG. Kết quả thực nghiệm này một lần nữa cho thấy nén ảnh màu sử dụng Fractal tốt hơn JPEG tại tỷ lệ lấy mẫu 4:2:0. Tại tỷ lệ lấy mẫu 4:4:4 và 4:1:1, Fractal tốt hơn về tỷ số nén nhưng kém hơn về PSNR. Tại tỷ lệ lấy mẫu 4:2:2, chất lượng nén được coi là tương đương nhau. Đánh giá tổng thể kết quả thực nghiệm trên ảnh Leaves một lần nữa cho thấy chất lượng nén dựa trên tỷ số nén và PSNR của Fractal là tương đương JPEG nếu tính trên cả bốn tỷ lệ lấy mẫu. Như vậy, đã có sự khác biệt trong kết quả so sánh Fractal - JPEG giữa ảnh Lena, ảnh Fruit và ảnh Leaves, điều này chứng tỏ rằng tính chất của ảnh gốc có ảnh hưởng đến sự so sánh tương quan chất lượng nén ảnh của Fractal và JPEG. Ảnh cuối cùng được đưa vào thực nghiệm là ảnh Natural, đây là ảnh được tối ưu về tính đồng dạng cả về màu sắc và chi tiết trong ảnh gốc. Bảng 2.17 thống kê tỷ số nén và tỷ số PSNR của phương pháp nén ảnh màu sử dụng Fractal và phương pháp 57 nén ảnh màu sử dụng tiêu chuẩn JPEG đối với ảnh Natural tại bốn tỷ lệ lấy mẫu 4: 4: 4, 4: 2: 2, 4: 2: 0, 4:1:1. Bảng 2.17: So sánh tỷ số nén và PSNR giữa Fractal và JPEG đối với ảnh Natural PSNR Tỷ số nén Ảnh đầu vào Lấy mẫu Fractal JPEG Fractal JPEG 4:4:4 34.52 31.15 11.86 11.90 4:2:2 34.68 34.06 8.86 12.25 4:2:0 30.50 25.52 15.55 16.25 Ảnh Natural 4:1:1 32.43 31.15 11.86 11.90 Bảng 2.18: Bảng kết quả so sánh giữa thực hiện nén ảnh bằng Fractal và JPEG Fractal JPEG Fractal JPEG Ảnh đầu vào Lấy mẫu PSNR PSNR Tỉ lệ nén Tỉ lệ nén 4:4:4 25.94 25.95 11.58 11.26 4:2:2 26.09 28.42 8.69 8.88 4:2:0 23.46 21.73 14.78 14.67 Ảnh Lena 4:1:1 24.48 25.95 11.58 11.26 4:4:4 23.38 20.77 11.13 12.50 4:2:2 23.63 24.20 8.31 9.91 4:2:0 21.59 20.23 14.12 13.79 Ảnh Fruit 4:1:1 21.39 20.77 11.13 12.50 4:4:4 34.52 31.15 11.86 11.90 4:2:2 34.68 34.06 8.86 12.25 4:2:0 30.50 25.52 15.55 16.25 Ảnh Natural 4:1:1 32.43 31.15 11.86 11.90 4:4:4 23.48 24.69 11.20 8.00 4:2:2 23.53 23.18 8.49 8.01 4:2:0 22.09 20.17 14.49 14.45 Ảnh Leaves 4:1:1 22.16 24.69 11.20 8.00 Số liệu tại Bảng 2.18 cho thấy Fractal tốt hơn JPEG về PNSR tại tất cả các tỷ lệ lấy mẫu 4:4:4, 4:2:2, 4:2:0, 4:1:1 và kém hơn về tỷ số nén tại tỷ lệ lấy mẫu 4:2:0, 4:2:2. Tại tỷ lệ lấy mẫu 4:4:4 và 4:1:1, Fractal tốt hơn JPEG về PSNR và có tỷ số nén được coi là tương đương. Như vậy, đối với ảnh tối ưu về sự đồng dạng màu sắc và chi tiết, lợi thế đồng thời về PSNR và tỷ số nén của Fractal khi thực hiện với tỷ lệ lấy 58 mẫu 4:2:0 đã không còn. Fractal chỉ tốt hơn về PSNR còn tỷ số nén thì kém JPEG. Tuy nhiên, xét tổng thể trên cả bốn tỷ lệ lấy mẫu, Fractal vẫn được coi là tốt hơn về chất lượng nén trong đa số trường hợp khi đánh giá cả hai thông số PSNR và tỷ số nén. Theo số liệu tại bảng 2.16, tại tỷ lệ lấy mẫu 4:2:0, tỷ số nén và PSNR của Fractal tốt hơn JPEG. Kết quả thực nghiệm này một lần nữa cho thấy nén ảnh màu sử dụng Fractal tốt hơn JPEG tại tỷ lệ lấy mẫu 4:2:0. Tại tỷ lệ lấy mẫu 4:4:4 và 4:1:1, Fractal tốt hơn về tỷ số nén nhưng kém hơn về PSNR. Tại tỷ lệ lấy mẫu 4:2:2, chất lượng nén được coi là tương đương nhau. Bảng 2.18 cho cái nhìn tổng quát về sự so sánh hiệu suất trong hệ thống PSNR và tỉ số nén của hai phương thức trong các chế độ lấy mẫu khác nhau. Điều này đã chỉ ra rằng Fractal có thể đạt chất lượng nén tương đương so với JPEG, thậm chí tốt hơn trong một số tỷ lệ lấy mẫu, đặc biệt là ở tỷ lệ lấy mẫu 4:2:0. Bảng 2.19, 2.20, 2.21 và 2.22 mô tả giải nén ảnh Lena, Fruit, Leaves và ảnh Natural sử dụng nén ảnh Fractal và phương pháp nén JPEG trong bốn chế độ lấy mẫu 4:4:4, 4:2:2, 4:2:0 và 4:1:1. Rõ ràng là chất lượng của giải nén hình ảnh bằng phương pháp Fractal có phần vượt trội hơn JPEG trong đa số trường hợp theo cảm nhận của mắt người. 2.1.5 Nhận xét Các kết quả đầy hứa hẹn đã chỉ ra rằng mã hóa Fractal dựa vào RGB để chuyển đổi màu sắc YCrBr và thực hiện trên FPGA có thể được áp dụng cho một ảnh màu, mà hiệu suất nén trong hệ thống tỷ số nén và PSNR cũng đem lại kết quả được coi là tương đương như JPEG. Tuy nhiên, lợi thế của bộ giải mã nén Fractal là rất mượt mà và nhanh hơn so với mã hóa JPEG [2]. Việc mã hóa ảnh màu Fractal đã được thực hiện trên bo mạch FPGA. Việc phân tích các kết quả thực nghiệm cho thấy rằng tỉ lệ nén và mã hóa PSNR của Fractal thực hiện trong FPGA là tương tự như mã hóa JPEG, tuy nhiên chất lượng của hình ảnh là vượt trội hơn mã hóa JPEG. Việc thực hiện thành công của giải nén Fractal trên FPGA dự kiến sẽ khai thác lợi thế của FCIC như tỉ lệ nén cao, giải mã nhanh hơn Với nhu cầu ngày càng cao về chất lượng cao trong kỹ thuật nén hoặc giải nén, phương pháp đề xuất có thể được tiếp tục phát triển để áp dụng cho mã hóa Fractal cho chuỗi video sử dụng hiệu suất cao FPGA. Tuy nhiên, việc tối ưu hóa chất lượng nén trong hệ thống PSNR và tỷ số nén cho Fractal cần được thực hiện trước khi áp dụng Fractal cho nén video. Việc tối ưu chất lượng nén cho mã hóa ảnh màu sử dụng Fractal là bước kiểm nghiệm với mục đích chứng minh bằng kết quả thực nghiệm khả năng đạt được tỷ số nén rất lớn, vốn 59 là một ưu điểm nổi bật của Fractal. Đồng thời, một lần nữa kiểm nghiệm để chứng minh rằng nếu đưa Fractal về một giải thuật song song trên một bộ xử lý song song đa nhân sẽ kỳ vọng làm giảm thời gian nén ảnh màu khi sử dụng Fractal, nhằm cải thiện điểm yếu cố hữu của nén ảnh màu sử dụng Fractal là thời gian nén rất lớn. Vấn đề này sẽ được trình bày ngay trong phần tiếp theo. Bảng 2.19: So sánh hình ảnh nén thực hiện bằng Fractal và JPEG ở tỉ lệ 4 :4 : 4 Ảnh giải nén Ảnh đầu vào Ảnh giải nén JPEG Fractal Ảnh Lena Ảnh Fruit Ảnh Leaves Ảnh Natural Bảng 2.20: So sánh hình ảnh nén thực hiện bằng Fractal và JPEG ở tỉ lệ 4:2:2 Ảnh giải nén Ảnh giải nén Ảnh đầu vào Fractal JPEG Ảnh Lena Ảnh Fruit Ảnh Leaves Ảnh Natural 60 Bảng 2.21: So sánh hình ảnh nén thực hiện bằng Fractal và JPEG ở tỉ lệ 4:2:0 Ảnh giải nén Ảnh giải nén Ảnh đầu vào Fractal JPEG Ảnh Lena Ảnh Fruit Ảnh Leaves Ảnh Natural Bảng 2.22: So sánh hình ảnh nén thực hiện bằng Fractal và JPEG tại tỉ lệ 4:1:1 Ảnh giải nén Ảnh giải nén Ảnh đầu vào Fractal JPEG Ảnh Lena Ảnh Fruit Ảnh Leaves Ảnh Natural 2.2 Cải tiến chất lượng nén cho FIC Như đã trình bày ở phần 2.1.4 của chương này, từ ba màu cơ bản RGB, hình ảnh mỗi màu được tách ra thành 3 kênh màu khác nhau sử dụng hệ số ba màu. Sau đó hình ảnh mỗi kênh màu này được nén bởi kiến trúc mã hóa xoắn ốc Fractal, làm tối thiểu số lượng các khối miền từ 343 xuống 10, sử dụng tìm kiếm cục bộ để tối ưu 61 hóa thời gian mã hóa. Theo một cách khác, các dữ liệu màu sắc sau khi chia làm 3 kênh RGB được biến đổi về thành phần YUV, nhằm tận dụng lợi thế của sự tương quan quang phổ hiện có, từ đó tỉ lệ nén có thể đạt được cao hơn. Các thử nghiệm của các tác giả khác tại thời điểm Luận án này đang được thực hiện sẽ được đem ra trình bày như một mục tiêu cần vươn tới cho các kết quả thực nghiệm trong phần này của Luận án, cụ thể như sau: Một kết quả nghiên cứu đạt được kết quả cân bằng là PSNR 33,3 dB với tỉ lệ nén (CR) 9,72 và thời gian mã hóa 128,06 giây [21]. Một kết quả thực nghiệm của nén ảnh Fractal cho ảnh màu sử dụng kích thước thay đổi của phương pháp khối vùng cho thấy tỉ lệ nén tối đa 16,4 và PSNR tối đa là 25,9dB [1]. Một kết quả thực nghiệm của FIC cho ảnh màu sử dụng phương pháp lượng tử vector có tỉ lệ nén cao nhất là 48,87 và PSNR là 32,12dB [44]. Luận án đã trình bày những thực nghiệm sử dụng FIC cho ảnh màu được thực hiện trên bo mạch FPGA trong phần 2.1 của chương này, mục đích là để kiểm tra khả năng mã hóa và giải mã thành công mà không bị tràn bộ nhớ sử dụng các hình ảnh màu 24bit với kích thước 64x64 ở tốc độ xử lý 100MHz. Các thử nghiệm đã thu được các kết quả như đã trình bày trong phần 2.1.5.2 của chương này. Hạn chế của những thực nghiệm này không chỉ là giới hạn kích thước của ảnh mã hóa (64 × 64) do sự hạn chế bộ nhớ của bo mạch FPGA, cũng như tỉ lệ nén không cao như kỳ vọng. Kết quả so sánh giữa FIC và JPEG được trình bày tại phần 2.1.5.2 cũng cho thấy PSNR của FIC đạt giá trị được coi là tương đương với JPEG, thậm chí tốt hơn tại một số tỷ lệ lấy mẫu và một số trường hợp ảnh gốc được đưa vào thực nghiệm. Việc tăng tỷ số nén đánh đổi bằng việc giảm chất lượng ảnh (một cách nói khác là giảm PSNR) và ngược lại. Tuy nhiên, do PSNR của FIC được ghi nhận được coi là tương đương hoặc tốt hơn JPEG trong các kết quả thực nghiệm tại phần 2.1.5.2 nên việc tăng tỷ số nén cho FIC có thể thực hiện với điều kiện sự suy giảm PSNR làm giảm chất lượng ảnh ở mức có thể chấp nhận được đối với mắt người. Do đó, tỉ lệ nén sẽ được tối ưu hóa bằng cách chuyển đổi từ các thành phần RGB về các thành phần YUV để tận dụng những lợi thế của điểm nổi cho các vùng, điều chỉnh RMS để tăng tỉ lệ nén lên mức cao hơn trong khi vẫn duy trì độ PSNR mong muốn. Việc thực hiện FIC cho các ảnh màu được thực hiện trên máy tính Linux viết bằng ngôn ngữ C để giải quyết vấn đề giới hạn bộ nhớ của bo mạch FPGA làm giảm khả năng thực nghiệm FIC với các kích thước ảnh lớn. Các kết quả thực nghiệm được kỳ vọng cho thấy rằng FIC cho ảnh màu có thể được tối ưu hóa để phù hợp cho việc nén ảnh màu và cũng được áp dụng FIC để nén video tốc độ bit thấp với tỉ lệ nén cao. Vấn đề này sẽ được trình bày ngay sau đây. 62 2.2.1 Cải tiến tỷ số nén cho FIC đề xuất 2.2.1.1 Xử lý ảnh màu Trước khi mã hóa ảnh Fractal, việc chuyển đổi ảnh màu từ RGB về YUV được thực hiện. Thành phần Y đại diện cho độ sáng của ảnh. U và V chia sẻ chung thông tin màu. Việc chuyển một điểm ảnh từ không gian RGB vào không gian YUV có thể được thực hiện bằng một phép nhân ma trận đơn giản. Các giá trị màu nguyên được chuyển thành các giá trị dấu phẩy động đồng thời được làm tròn. Ảnh trong không gian màu YUV được đại diện bởi 3 giá trị 8 bit không dấu cho mỗi điểm ảnh. Ưu điểm của sự biểu diễn không gian YUV nằm ở sự tách biệt của độ sáng và thông tin màu sắc. Do mắt người không thể nhận rõ được mức thay đổi màu sắc so với mức thay đổi thay đổi về độ sáng, điều này dẫn đến có thể giảm đi thông tin ảnh mà không ảnh hưởng rõ ràng với chất lượng ảnh, theo tỉ lệ 4:1:1. Điều này có nghĩa rằng 2 đến 4 thông tin độ sáng và màu phải được lưu trữ. Dữ liệu này đã được giảm một nửa. Do đó, thuật toán trình bày cho mã hóa ảnh Fractal biểu diễn không gian YUV theo tỉ lệ 4:1:1. Từ đây, 3 thành phần YUV được tách ra và xử lý độc lập với nhau, như các ảnh xám riêng biệt. Phần sáng của ảnh Y được mã hóa Fractal trực tiếp, trong khi 2 thành phần màu U và V giảm theo tỉ lệ tương ứng 4:1 trước khi mã hóa Fractal. Mức giảm này được tạo ra bởi việc tính trung bình 4 điểm ảnh liền nhau. Việc mã hóa của ba thành phần Y, U và V hoàn toàn tương tự nhau. Do đó thuật toán cho việc mã hóa ảnh Fractal chỉ phải xử lý hình ảnh ở bất kỳ kích thước nào, có thể được biểu diễn bằng một hàm ( , ). Do đó, những ảnh mức xám được mã hóa một lần, trong khi các ảnh màu yêu cầu đến ba lần. 2.2.1.2 Phân bố của ảnh Để phân hoạch ảnh, một phân hoạch HV đơn giản được lựa chọn sử dụng cho thực nghiệm. Phân hoạch HV linh hoạt hơn phân hoạch Quadtree, do không chỉ có hình vuông mà còn cả hình chữ nhật cũng được chọn. Do đó có thể chia bố cục mà không gặp bất kỳ vấn đề gì về kích thước ảnh. Sự phân dạng của các vùng có thể được thực hiện theo một lịch trình cố định hoặc ngữ cảnh khác nhau phụ thuộc vào nội dung ảnh. Một một lợi thế của phân hoạch HV là các vùng không cần chia phân chia nhiều như phân hoạch Quadtree. 2.2.1.3 Tìm miền domain Việc tìm kiếm miền cho các vùng luôn được giới hạn ở gần khu vực của vùng. Để đạt được một định dạng lưu trữ nhỏ gọn, vị trí tương đối của miền so với vùng được lưu trữ trong 1 byte. Do đó, thông thường thì 1 miền cách vùng ±7 điểm tử góc trên bên trái của vùng. Tuy nhiên, vùng nên gần rìa của ảnh, vùng miền có thể được 63 cuộn lên luôn có 225 vị trí (±7 điểm vào góc bên trái). Để tìm miền phù hợp cho phép hình ảnh được kiểm tra cho các miền vùng. Bởi vị chỉ các vùng hình chữ nhật hoặc hình vuông xảy ra thông qua HV được sử dụng các phương pháp đơn giản để kiểm tra. 2.2.1.4 Định dạng một vùng bộ nhớ Để thu được mức độ nén cao nhất có thể của hình ảnh được nén Fractal, một định dạng lưu trữ nhỏ gọn được phát triển, mà có thể mỗi vùng với các dữ liệu chuẩn chỉ chứa 3,5 hoặc 4 byte. Như đã đề cập ở trên, dữ liệu được lưu trữ bởi mỗi vùng, bao gồm có vị trí tương đối của miền, kích thước các thông số s và kiểu sao chép o. Vị trí tuyệt đối của vùng được xác định từ trình tự của chúng trong bộ nhớ. Bộ nhớ của vùng: Một vùng có thể có kích thước nằm trong khoảng 1 × 1 và 16 × 16. Vì vậy sẽ cần ít nhất 1 byte để lưu trữ kích thước. Tuy nhiên vùng vuông đầu ra 16 × 16 sẽ chỉ có thể được tạo ra ở viền của ảnh, có thể xuất hiện các biến đầu ra bị thay đổi, kích thước vùng có thể được cung cấp trong trường hợp bình thường trong một nửa byte. Bằng cách sử dụng phân hoạch HV đơn giản luôn được chia theo chiều ngang để vùng nằm ở phía dài hơn, hoặc có thể bao gồm các vùng kích thước 16 × 16 bằng cách phân chia kích thước các vùng 16 × 8, 8 × 8, 8 × 4, 4 × 4, 4 × 2, 2 × 2, 2 × 1, 1 × 1. Chín kích thước khác nhau này có thể được đánh số đơn giản trong nửa byte (4 bit). Lưu trữ vị trí của miền: Như đã trình bày ở trên, vị trí tương đối của miền so với vùng hạn chế khu vực tìm kiếm để tiết kiệm đến 225 vị trí để lưu trữ trong 1 byte. Bởi vì những trường hợp đặc biệt trong khu vực biên, phần bù của mỗi miền vào góc trên bên trái của hình vuông tìm kiếm được lưu trữ. Bởi vì hình vuông tìm kiếm có đội dài 15 điểm, 1 nửa byte là đủ cho mỗi chiều. Vị trí tuyệt đối của miền có thể được xác định như sau: đầu tiên hình vuông tìm kiếm được xác định từ vị trí vùng, bằng cách thêm phần bù của miền vào góc trên bên trái của hình vuông tìm kiếm sẽ thu được vị trí tuyệt đối của miền. Lưu trữ các thông số hình ảnh: Thông số của hình ảnh là một số thực phẩy động nằm trong khoảng từ [-1,2 , 1,2]. Nó có thể chứa các giá trị mà không mất mát về chất lượng trong 5bit. Làm tròn đầu ra đến 2 chữ số thập phân, nhân với 100 và chia 8 để ra kết quả. Bộ nhớ của kiểu sao chép: Bởi vì chỉ có 4 bit và đối với các vùng chữ nhật chỉ có 8 cách để ánh xạ miền tới vùng, vì thế nên kiểu ảnh có thể được cung cấp 3 bit, Nó làm cho có cảm giác đến các thông số s và phù hợp với kiểu ảnh trong 1 byte. 64 2.2.1.5 Định dạng lưu trữ của toàn bộ ảnh Header: Để phân biệt các loại khác nhau của các ảnh và lưu trữ kích cỡ ảnh của mỗi file, một đầu giống hệt nhau được đặt ở đầu. Phần đầu tiên chứa một số con số đặc biệt (magic) là loại của ảnh lưu trữ trong 2 byte. Phần bên dưới là độ rộng và chiều cao ảnh được lưu trữ trong 2 byte. Vì những giá trị này được xem xét như một số nguyên thông thường trong dạng hiện tại, nên kích thước ảnh mã hóa lớn nhất là 32767 × 32767. Như vậy là đủ cho tất cả các trường hợp xảy ra trong thực tế. Phần cuối được theo sau bởi thông tin là các độ lệch trung bình của tất cả các biểu thị vùng. Lỗi này bị nặng hơn bởi vùng kích thước, vì vậy mà một đánh giá sơ bộ về chất lượng ảnh được thực hiện. Thứ tự của vùng: Bằng việc lựa chọn đúng đắn thuật toán mã hóa đã tạo ra một thứ tự bộ nhớ phù hợp của vùng. Việc xếp thứ tự có thể được viết trực tiếp từ vùng stack. Đặc biệt, không có hoạt động sắp xếp vùng nào được yêu cầu, vì vậy thao tác lưu này sinh trong việc mã hóa Fractal của hình ảnh trong thời gian không đáng kể. Dịch bit: Bởi vì vùng có chiều dài 3,5 byte hoặc 4 byte, là trong vùng liên tiếp, có thể một sự thay đổi 0,5 byte là cần thiết bởi vì trong một file, toàn bộ byte có thể được lưu trữ. Sử dụng tối ưu tất cả các dữ liệu được ghi vào một file byte được thực hiện bằng một bộ đệm. Bộ đệm này có không gian cho hai vùng có kích thước là 2 × 4 = 8 byte. Các vùng không được ghi trực tiếp vào file, chúng được gửi đến bộ đệm trước. Bộ đệm đẩy mỗi cấp lại với nhau sao cho chặt nhất có thể, và lưu trữ tất cả các byte. Tại cuối mỗi ảnh luôn là một vùng trống với 4 byte chiều dài hoặc 4,5 byte làm điểm đánh dấu cuối cùng, vì vậy tất cả các byte đều được đệm và có thể được lưu. Loại ảnh: Giữa các ảnh thang độ xám và các ảnh màu hầu như không có sự khác biệt về bộ nhớ (lưu trữ). Ảnh mà
File đính kèm:
- luan_an_su_dung_fractal_trong_viec_nen_hinh_anh_va_video.pdf