Luận án Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên

Luận án Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên trang 1

Trang 1

Luận án Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên trang 2

Trang 2

Luận án Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên trang 3

Trang 3

Luận án Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên trang 4

Trang 4

Luận án Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên trang 5

Trang 5

Luận án Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên trang 6

Trang 6

Luận án Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên trang 7

Trang 7

Luận án Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên trang 8

Trang 8

Luận án Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên trang 9

Trang 9

Luận án Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 177 trang nguyenduy 06/09/2025 170
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên

Luận án Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên
ước 
khi thành lập KCN nên hầu hết các dự án này chưa thực hiện việc đấu nối vào hệ 
thống thu gom xử lý nước thải tập trung của KCN mà hiện vẫn xả thải trực tiếp ra 
hệ thống kênh thuỷ lợi của khu vực; mặt khác việc chấp hành chưa nghiêm túc của 
một số công ty kinh doanh hạ tầng và doanh nghiệp trong KCN trong xử lý nước 
thải, thực hiện các biện pháp thu gom, xử lý chất thải rắn và áp dụng các biện pháp 
giảm thiểu, xử lý khói bụi, tiếng ồn trong quá trình sản xuất nên đã gây ô nhiễm 
nghiêm trọng môi trường nước, không khí và đất, ảnh hưởng đến sản xuất nông 
nghiệp, sinh hoạt của người dân ở khu vực tiếp giáp với KCN, ảnh hưởng đến môi 
trường sinh thái và phát triển bền vững nông thôn trong quá trình CNH. 
85 
Bốn là, tiến độ GPMB các KCN gặp nhiều vướng mắc, khó khăn và việc 
triển khai đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật KCN rất chậm. Do cơ chế, chính sách 
về bồi thường GPMB của nhà nước thường xuyên thay đổi; sự chỉ đạo, tham gia của 
một số cơ quan chính quyền địa phương chưa đúng mức; năng lực của chủ đầu tư 
còn nhiều hạn chế dẫn đến thiếu tích cực, chậm chễ trong công tác tổ chức bồi 
thường GPMB cũng như triển khai đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN: KCN Phố 
Nối A triển khai GPMB giai đoạn I từ năm 2004, đến nay mới hoàn thành được 
310/390ha đạt 79,5% và giai đoạn II triển khai từ năm 2010 đến nay mới được 
60/204ha đạt 29,4%; KCN Minh Đức triển khai GPMB từ năm 2008 đến nay mới 
được 168,3/175ha đạt 96,2%, chưa được bàn giao mặt bằng do vẫn còn một số 
vướng mắc; KCN Dệt may Phố Nối được bàn giao mặt bằng giai đoạn II 95,6ha từ 
năm 2009 nhưng đến nay mới hoàn thành hạng mục san lấp mặt bằng, đang triển 
khai xây dựng hạ tầng; KCN Thăng Long II được bàn giao mặt bằng giai đoạn II 
125,5ha từ năm 2012 nhưng đến nay mới hoàn thành việc san lấp mặt bằng, chuẩn 
bị đầu tư hạ tầng KCN; còn lại các KCN khác đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết, 
UBND tỉnh đã thông báo thu hồi đất để GPMB từ năm 2008 nhưng đến nay vẫn 
dừng lại ở khâu làm thủ tục thu hồi đất... Do các KCN vừa GPMB, vừa đầu tư hạ 
tầng nên gây khó khăn trong việc tạo mặt bằng kêu gọi đầu tư vào KCN. 
Năm là, kết quả thu hút dự án đầu tư còn nhiều hạn chế, đặc biệt là các dự 
án công nghệ cao, vốn đầu tư lớn; hiệu quả sản xuất kinh doanh và sử dụng đất còn 
thấp. Tính đến hết năm 2013, toàn tỉnh Hưng Yên đã thu hút được 1.114 dự án đầu 
tư (gồm 853 dự án đầu tư trong nước và 261 dự án có vốn đầu tư nước ngoài) với 
tổng vốn đăng ký là 59.000 tỷ đồng và 2.412 triệu USD; tạo việc làm thường xuyên 
cho trên 100.000 lao động từ 545 dự án đã đi vào hoạt động. Trong khi đó, các 
KCN của tỉnh mới thu hút được 206 dự án (gồm 92 dự án trong nước và 114 dự án 
có vốn đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đăng ký đầu tư là 8.529,63 tỷ đồng và 
1.746,57 triệu USD; giải quyết việc làm cho trên 27.626 lao động từ 174 dự án đã 
hoạt động. Như vậy, số dự án đầu tư vào KCN chiếm 18,49% tổng số dự án đầu tư 
trên địa bàn tỉnh; số vốn đầu tư chiếm 14,46% tổng vốn đầu tư trong nước và 
72,39% vốn đầu tư nước ngoài đầu tư trên địa bàn tỉnh, chưa tương xứng với lợi 
86 
thế, tiềm năng của các KCN. Trong số các dự án đăng ký đầu tư vào các KCN chưa 
có dự án đầu tư lớn, công nghệ cao mà chủ yếu là các dự án vừa và nhỏ với tính 
chất đa ngành nghề. 
Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhìn chung chưa cao (chỉ khoảng 
50% số doanh nghiệp hoạt động có lãi) nên đóng góp cho ngân sách tỉnh còn thấp 
(năm 2013 các doanh nghiệp trong các KCN trên địa bàn tỉnh đóng góp thuế nội 
địa đạt 850 tỷ đồng, chiếm 19,8% tổng thu ngân sách nội địa của tỉnh). Tính đến 
hết năm 2013, diện tích đất KCN đã cho thuê thấp 398,12ha, đạt 43,8% tổng diện 
tích đất công nghiệp có thể cho thuê 907,95ha; trong đó: KCN Phố Nối A đạt trên 
78,4% (218,18/278,4ha); KCN Dệt may Phố Nối đạt 21,5% (20,01/92,87ha); KCN 
Thăng Long II đạt 47,2% (121,57/257,49 ha); KCN Minh Đức đạt 28,3% 
(38,36/135,66ha). 
Sáu là, điều kiện làm việc và môi trường sống của người lao động trong các 
KCN gặp rất nhiều khó khăn. Hiện có 27.626 lao động đang làm việc tại các KCN 
trên địa bàn tỉnh, trong đó có khoảng 10.626 lao động đến từ các địa phương khác 
(tỉnh ngoài và các huyện xung quanh của KCN) với mức lương trung bình từ 4,8- 
5triệu đồng/người/tháng. Do chưa có khu nhà ở công nhân KCN nên phần lớn công 
nhân KCN phải thuê nhà trọ của người dân ở quanh các KCN với diện tích nhỏ (10- 
15 m2/phòng cho từ 2- 4 người/phòng); điều kiện sinh hoạt, an ninh trật tự và môi 
trường rất kém do phần lớn các nhà trọ do người dân tận dụng đất xen kẹp trong 
khu dân cư xây dựng các dãy nhà, chia phòng nhỏ nên không đáp ứng được nhu cầu 
ở, sinh hoạt cho bản thân người công nhân cũng như gia đình họ, không đảm bảo 
cho công nhân an tâm lao động, ảnh hưởng đến chất lượng và khả năng tái tạo sức 
lao động. Việc hỗ trợ, tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao, văn hóa văn nghệ 
cho người lao động làm việc tại các KCN chưa được quan tâm đúng mức từ các cấp 
chính quyền, tổ chức công đoàn KCN và doanh nghiệp sử dụng lao động. Mặt khác, 
môi trường làm việc và an toàn lao động tại một số nhà máy cũng chưa được quan 
tâm nên ảnh hưởng đến chất lượng lao động và đời sống của người công nhân KCN. 
Bảy là, hệ thống đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh chưa đáp ứng được nhu cầu 
đào tạo nguồn nhân lực cho KCN và chất lượng lao động chưa cao. Trên địa bàn 
87 
tỉnh Hưng Yên, hiện có 39 đơn vị hoạt động đào tạo nghề (trong đó có 03 trường 
Đại học, 05 trường Cao đẳng, 08 trường Trung cấp, còn lại là các trung tâm) với 
khả năng đào tạo và dạy nghề cho khoảng 44 nghìn lượt người mỗi năm. Tuy nhiên, 
nhìn vào cơ cấu đào tạo nghề tập trung chủ yếu là đào tạo nghề lái xe ô tô, xe máy: 
năm 2010 là 31.000 lượt người, chiếm khoảng 70% (Sở Lao động, Thương binh và 
Xã hội tỉnh Hưng Yên, 2012)[48]. Trong khi đó, nhu cầu đào tạo nghề phục vụ phát 
triển các KCN, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh và cho số lao động nông nghiệp 
bị thu hồi đất phải chuyển đổi nghề mỗi năm của tỉnh khoảng 30 nghìn người. Về 
chất lượng lao động, năm 2013, cả tỉnh Hưng Yên mới có khoảng 47% lao động 
được đào tạo, phần lớn là được đào tạo ở mức độ dạy nghề ngắn hạn, giản đơn, 
trong khi đó ý thức chấp hành kỷ luật lao động của một bộ phận người công nhân 
chưa cao biểu hiện qua các cuộc đình công, bãi công không có tổ chức, tự phát mặc 
dù có tổ chức công đoàn cơ sở. Hiện nay, việc tuyển dụng lao động qua đào tạo và 
lao động phổ thông vào làm việc tại các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Đây là 
thách thức lớn trước nhu cầu lao động tại các KCN. 
Tám là, việc tiếp cận đất KCN khó khăn và chi phí cao hơn nhiều so với đầu 
tư vào thuê đất sản xuất kinh doanh ngoài KCN trên địa bàn tỉnh. Nếu như chi phí 
thuê lại đất trong KCN hiện nay trên địa bàn tỉnh Hưng Yên khoảng từ 60- 70 
USD/m2 cho thời gian 50 năm, cộng thêm các khoản chi phí bảo dưỡng, bảo trì hạ 
tầng KCN khoảng từ 0,2- 0,35 USD/m2/năm thì chi phí tính cho 01m2 đất KCN 
khoảng 1.750.000 đồng. Trong khi đó, chi phí cho 1m2 thuê đất sản xuất kinh doanh 
ngoài KCN chỉ vào khoảng 500.000 đồng (bao gồm: chi phí bồi thường GPMB 
khoảng 330.000đồng/m2; chi phí san lấp mặt bằng khoảng 170.000 đồng/m2) nên 
không hấp dẫn nhà đầu tư thuê đất trong KCN để xây dựng cơ sở sản xuất. Đây 
chính là nguyên nhân phần lớn các dự án đăng ký đầu tư ở ngoài KCN (chỉ có 206 
dự án đầu tư trong KCN trong tổng số 1.114 dự án đầu tư vào địa bàn tỉnh, chiếm 
18,5%). Vì vậy, cần có giải pháp nhằm cải thiện môi trường, hấp dẫn và thúc đẩy 
thu hút đầu tư vào các KCN. 
Chín là, quá trình phát triển các KCN chưa hình thành ngành công nghiệp 
chính, mũi nhọn của tỉnh. Quy hoạch của các KCN với tính chất đa ngành nghề; khả 
88 
năng hạn chế trong thu hút dự án đầu tư của các KCN và tác động của suy thoái 
kinh tế thế giới những năm qua đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút đầu tư vào 
KCN và hạn chế việc hình thành được ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh. Mặt 
khác, do quy hoạch không xác định, khoanh định khu vực sản xuất theo nhóm 
ngành nghề nên việc tiếp nhận các dự án đầu tư không theo vị trí quy hoạch làm ảnh 
hưởng đến môi trường cũng như quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các 
nhà máy trong KCN, chưa tạo được sự liên kết, hỗ trợ nhau trong sản xuất, tiêu thụ 
sản phẩm, đặc biệt là ngành công nghiệp phụ trợ. 
Mười là, quản lý nhà nước đối với các KCN còn nhiều bất cập gây cản trở, 
khó khăn trong công tác quản lý, điều hành. Việc ban hành Nghị định số 
29/2008/NĐ-CP (Chính phủ, 2008) về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh 
tế và Nghị định số 164/2013/NĐ-CP (Chính phủ, 2013) là một bước tiến lớn về cải 
cách thủ tục hành chính, tạo cơ chế một cửa và thông thoáng cho việc quản lý KCN. 
Tuy nhiên, những bất cập trong quy định, hướng dẫn của các cơ quan trung ương, 
sự phối hợp thiếu chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh với Ban 
Quản lý các KCN tỉnh đã làm hạn chế vai trò và hiệu lực quản lý nhà nước đối với 
các KCN trên địa bàn tỉnh như: không chủ động trong thu hút đầu tư; không quản lý 
được giá cho thuê đất của chủ đầu tư hạ tầng KCN; không có chế tài để xử lý được 
các trường hợp vi phạm pháp luật về đất đai, bảo vệ môi trường, xây dựng và lao 
động 
89 
CHƯƠNG 3. TÁC ĐỘNG CỦA PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG 
NGHIỆP ĐẾN NÔNG THÔN TẠI TỈNH HƯNG YÊN 
3.1. THỰC TRẠNG NÔNG THÔN TỈNH HƯNG YÊN 
3.1.1. Thực trạng kinh tế nông thôn 
3.1.1.1. Các nguồn lực cho phát triển kinh tế nông thôn 
a) Nguồn lực đất đai 
 Nguồn lực quan trọng nhất cho phát triển kinh tế nông thôn Hưng Yên là đất 
đai, mà chủ yếu là đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa và cây công nghiệp 
ngắn ngày khá phong phú. Trong giai đoạn 2000 – 2013, tình hình sử dụng đất đai 
của Hưng Yên có sự biến động theo hướng tăng dần tỷ lệ đất phi nông nghiệp, đặc 
biệt là đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp (trong đó có diện tích đất KCN) và 
giảm dần tỷ lệ đất nông nghiệp. Nếu như năm 2000, tỷ trọng diện tích đất nông 
nghiệp chiếm tới 69,52% thì đến năm 2013 còn 62,72%. Điều này hoàn toàn phù 
hợp với thực tế phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, do trong giai đoạn này tỉnh Hưng 
Yên đẩy mạnh phát triển công nghiệp, có nhiều KCN, CCN được thành lập trên địa 
bàn tỉnh nên đã phải chuyển đổi một phần diện tích đất sản xuất nông nghiệp sang 
sản xuất công nghiệp làm diện tích đất sản xuất nông nghiệp giảm dần. 
b) Nguồn lực con người 
 Nguồn lực lao động của Hưng Yên đang biến động theo chiều hướng tăng 
dần tỷ trọng dân số, lao động ở thành thị và trong ngành công nghiệp, dịch vụ; giảm 
dần tỷ trọng dân số, lao động ở nông thôn và trong ngành nông nghiệp. Nếu như 
năm 1997 tỷ lệ dân số nông thôn chiếm tới 92,51% thì đến năm 2005 giảm xuống 
còn 89% và đến năm 2013 chỉ còn là 86,67%; năm 2005, tỷ lệ lao động nông thôn 
là 90,45% thì đến năm 2013, tỷ lệ này chỉ còn là 88,33%; tỷ trọng lao động trong 
khu vực nông nghiệp- thủy sản giảm từ 69,3% năm 2005 xuống còn 55,77% năm 
2013. Sự chuyển dịch này hoàn toàn phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, trong đó phát triển các KCN ở nông 
thôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch lao động này. 
90 
Bảng 3.1. Cơ cấu lao động nông thôn tỉnh Hưng Yên (2005 – 2013) 
Ngành 
2005 2010 2013 
Số 
người 
(người) 
Cơ cấu 
(%) 
Số 
người 
(người) 
Cơ 
cấu 
(%) 
Số 
người 
(người) 
Cơ cấu 
(%) 
Tổng số 580.914 100 679.135 100 736.583 100 
- Nông nghiệp, thủy sản 402.319 69,3 408.160 60,1 410.799 55,77 
- Công nghiệp, xây dựng 104.892 18,1 141.939 20,9 183.771 24,95 
- Dịch vụ 73.703 12,7 129.036 19,0 142.013 19,28 
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hưng Yên năm 2010, 2013 
c) Nguồn lực về vốn 
Trong những năm qua, lượng vốn đầu tư được huy động cho phát triển KT-
XH nói chung và khu vực nông thôn nói riêng của tỉnh Hưng Yên đạt khá cao, cơ 
cấu vốn đầu tư hướng vào thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Giai đoạn 2001-
2010, tổng vốn đầu tư là 61.328 tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm 23,5%, gấp gần 
2 lần tăng trưởng GDP bình quân hàng năm. Từ 2010 đến nay, tốc độ tăng vốn đầu 
tư hàng năm có giảm nhưng vẫn tăng hơn 10%, đến năm 2013, tổng vốn đầu tư toàn 
xã hội đạt 19.681 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là vốn đầu tư của khu vực ngoài Nhà 
nước chiếm 61,1% và đầu tư cho ngành công nghiệp, dịch vụ chiếm 95%. Điều này 
cho thấy, nguồn vốn đầu tư chủ yếu cho phát triển khu vực công nghiệp- xây dựng 
(trong đó phần lớn là vốn đầu tư của các dự án sản xuất công nghiệp, KCN) và dịch 
vụ. Vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư 
trên địa bàn và có xu hướng ngày càng giảm dần, từ 18,1% năm 2000 xuống còn 
5% năm 2013. Đây là một kết quả tốt cần được tiếp tục duy trì trong các giai đoạn 
phát triển tới của tỉnh, nhằm thu hút vốn đầu tư phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh 
tế nhanh, tuy nhiên tỷ lệ đầu tư cho lĩnh vực sản xuất nông nghiệp còn rất thấp trong 
cơ cấu đầu tư, chưa tương xứng với tỷ lệ đóng góp của ngành nông nghiệp trong 
GDP là 17%. Điều này đòi hỏi cần cân đối vốn đầu tư hợp lý giữa các ngành, lĩnh 
vực để hướng tới phát triển nhanh, bền vững của Hưng Yên trong thời gian tới. 
91 
 Bảng 3.2. Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh 
Đơn vị: % 
 2000 2005 2010 2013 
Tổng số (tỷ đồng) 1.703 5.209 12.478 19.681 
I- Phân theo thành phần kinh tế 100,0 100,0 100,0 100,0 
1- Khu vực Nhà nước 31,8 15,2 14,8 18,0 
2- Khu vực ngoài Nhà nước 56,0 76,2 70,0 61,1 
3- Đầu tư nước ngoài 12,2 8,7 15,2 20,9 
II- Phân theo ngành kinh tế 100,0 100,0 100,0 100,0 
1- Nông, ngư nghiệp 18,1 10,6 5,4 5,0 
2- Công nghiệp, xây dựng 47,9 53,5 43,0 41,3 
3- Dịch vụ 34,0 35,9 51,6 53,7 
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hưng Yên năm 2010, 2013 
Qua nghiên cứu về các nguồn lực phát triển kinh tế nông thôn của tỉnh Hưng 
Yên cho thấy, nguồn lực về đất đai và lao động của tỉnh là rất dồi dào, tạo điều kiện 
thuận lợi cho phát triển kinh tế nông thôn. Mặt khác, hai nguồn lực này đang có xu 
hướng chuyển dịch dần từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, điều này càng 
tạo điều kiện cho kinh tế nông thôn phát triển. Tuy nhiên, riêng với nguồn vốn cho 
phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế hộ - nhân tố trung tâm của sự phát triển kinh tế 
ở nông thôn- còn nhiều hạn chế. 
3.1.1.2. Tăng trưởng kinh tế và cơ cấu kinh tế nông thôn 
Tăng trưởng kinh tế của tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn 1997 – 2013, có tốc 
độ tăng trưởng GDP bình quân (tính theo giá hiện hành) hàng năm của tỉnh đạt 
12,03%, trong đó tăng trưởng bình quân cao nhất là trong lĩnh vực công nghiệp- xây 
dựng với 23,15%; dịch vụ tăng 17,31%; nông nghiêp và thủy sản tăng 4,12%. 
 Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế cũng có sự chuyển dịch theo 
hướng tích cực; tỷ trọng của ngành nông nghiệp, thủy sản có xu hướng giảm từ 
92 
51,87% năm 1997 xuống còn 20,91% năm 2010 và 17,04% năm 2013; tỷ trọng của 
ngành công nghiệp, xây dựng tăng từ 20,26% năm 1997 lên 46,96% năm 2010 và 
48,21% năm 2013. Qua đó có thể thấy, vai trò của ngành công nghiệp nói chung và 
vai trò của các KCN nói riêng đối với sự phát triển kinh tế của Hưng Yên trong 
những năm qua. 
Bảng 3.3. Cơ cấu kinh tế của Hưng Yên giai đoạn 1997 – 2013 
Năm 
Tổng sản phẩm trên địa bàn (triệu đồng) Cơ cấu (%) 
Chung NN CN-XD Dịch vụ NN 
CN-
XD 
Dịch 
vụ 
1997 2.581.169 1.338.778 523.024 719.367 51,87 20,26 27,87 
2000 4.156.464 1.703.789 1.267.742 1.184.933 40,99 30,50 28,51 
2005 8.238.568 2.512.668 3.133.084 2.592.816 30,50 38,03 31,47 
2010 21.412.545 4.476.752 10.055.654 6.880.139 20,91 46,96 32,13 
2013 35.142.024 5.988.637 16.940.916 12.212.471 17,04 48,21 34,76 
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hưng Yên năm 2000, 2010, 2013 
 Điều đáng chú ý là khu vực nông thôn đã có sự thay đổi cơ bản theo hướng 
sản xuất hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của lĩnh 
vực sản xuất phi nông nghiệp. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu kinh tế cũng 
đang có sự chuyển dịch theo hướng hợp lý và tích cực; tỷ trọng của ngành chăn 
nuôi và thủy sản tăng, tỷ trọng của ngành trồng trọt giảm. Mặt khác, trên địa bàn 
tỉnh đã và đang dần hình thành một số vùng sản xuất cây, con tập trung và làng 
nghề tiểu thủ công nghiệp như vùng sản xuất rau sạch và nuôi lợn theo quy mô lớn 
ở Văn Giang; vùng sản xuất các loại cây dược liệu ở Khoái Châu, Văn Giang; vùng 
trồng cây cảnh nổi tiếng ở Văn Giang; vùng sản xuất cây ăn quả ở Tiên Lữ, thành 
phố Hưng Yên; các làng nghề sản xuất và chế biến hoa quả ở Tiên Lữ và thành phố 
Hưng Yên. Sự chuyển dịch từ sản xuất manh mún, nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa 
tập trung quy mô lớn; sự phát triển của các làng nghề ở nông thôn đã góp phần thúc 
đẩy kinh tế nông thôn Hưng Yên phát triển. 
93 
3.1.1.3. Cơ sở hạ tầng nông thôn 
Nhờ những thành tựu của phát triển KT-XH của tỉnh nói chung và của nông 
thôn Hưng Yên nói riêng, trong những năm qua, cơ sở hạ tầng nông thôn tiếp tục 
được xây dựng mới và nâng cấp cả về chiều rộng và chiều sâu, tạo điều kiện cho 
sản xuất phát triển; bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới. 
a) Về hệ thống giao thông nông thôn 
 Trước khi tái lập tỉnh, hệ thống giao thông của tỉnh rất kém phát triển; hệ 
thống đường liên thôn, liên xã chủ yếu là đường đất, đường gạch và đường đá; 
nhiều tuyến đường bị xuống cấp trầm trọng gây nhiều khó khăn cho việc đi lại của 
người dân. Đến nay, hệ thống giao thông nông thôn của tỉnh đã được cải tạo và 
nâng cấp với 100% các tuyến đường thuộc huyện quản lý đã được cứng hóa; các 
đường trục xã và liên xã dài 868,004 km (tỷ lệ cứng hóa là 68,67%); đường trục 
thôn, xóm là 1.488,565 km (tỷ lệ cứng hóa là 77,42%). Song hiện có một số tuyến 
đường giao thông nông thôn, đặc biệt là tuyến đường liên thôn, đường xóm do được 
đầu tư xây dựng từ lâu nên đã bị xuống cấp trầm trọng. Mặt khác, các tuyến đường 
này thường không có hệ thống thoát nước, mặt đường hẹp không đảm bảo an toàn 
giao thông. Trong khi đó, hầu hết các tuyến đường giao thông nội đồng chưa được 
cứng hóa, chủ yếu là đường đất, mặt đường hẹp không đảm bảo được yêu cầu sử 
dụng của các phương tiện cơ giới. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho sản xuất 
nông nghiệp, đặc biệt hạn chế khả năng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp. 
b) Về hệ thống thủy lợi 
Trong những năm gần đây, thực hiện chính sách đẩy nhanh CNH, HĐH nông 
nghiệp, nông thôn, tỉnh Hưng Yên đã ưu tiên đầu tư xây dựng mới và nâng cấp hệ 
thống các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nhờ đó hệ thống thủy 
lợi nội đồng của tỉnh được xây dựng khá hoàn chỉnh, đáp ứng hiệu quả nhu cầu sản 
xuất nông nghiệp, tăng thêm nhiều diện tích canh tác được tưới, tiêu góp phần tăng 
năng suất, sản lượng cây trồng. Toàn tỉnh hiện có 415 trạm bơm, hệ thống kênh 
mương thủy lợi dài 2.530,976 km, trong đó đã kiên cố 244,016 km; tỷ lệ kênh 
mương do cấp xã quản lý được kiên cố hóa mới đạt 9,64%. Hệ thống công trình 
thủy lợi của tỉnh cơ bản đảm bảo cấp đủ nước tưới kịp thời cho toàn bộ diện tích 
94 
canh tác, tuy nhiên đã xuống cấp, quy mô công trình nhỏ, không đáp ứng được nhu 
cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Hưng Yên. 
c) Về hệ thống điện 
 Trong những năm qua, hệ thống điện nông thôn của tỉnh đã được quan tâm 
xây dựng nhằm mục tiêu thúc đẩy điện khí hóa nông thôn, phục vụ sản xuất và đời 
sống của người dân. Đến nay, toàn tỉnh có 161/161 xã, thị trấn có điện lưới sinh 
hoạt; số hộ nông dân sử dụng điện sinh hoạt đạt 100%. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, hệ 
thống điện đã được xây dựng từ lâu bằng nguồn vốn của các HTX nông nghiệp 
trước đây và sự đóng góp của người dân, nay hệ thống điện (đường dây, trạm biến 
áp) đã xuống cấp hoặc công suất không đủ lớn để đáp ứng nhu cầu điện ngày càng 
tăng của các hộ gia đình dẫn tới tình trạng thiếu điện, điện bị cắt luân phiên hoặc 
quá yếu làm cho các thiết bị điện của các hộ gia đình dễ bị hỏng và gây nhiều khó 
khăn cho đời sống của người dân, đặc biệt vào mùa hè. Để khắc phục tình trạng 
này, hiệ

File đính kèm:

  • pdfluan_an_tac_dong_cua_phat_trien_cac_khu_cong_nghiep_den_nong.pdf
  • docxBuiTheCw_E.docx
  • docxBuiTheCw_V.docx
  • pdfLA_BuiTheCw_MucLuc.pdf
  • pdfLA_BuiTheCw_PhuLuc.pdf
  • pdfLA_BuiTheCw_Sum.pdf
  • pdfLA_BuiTheCw_TT.pdf